Tài liệu cũ của Saigon Echo
từ 2008 - 2012
Play
 
Giám Đốc: Tiến Sĩ Trần An Bài
  • Font size:
  • Decrease
  • Reset
  • Increase

Cũng là đờn ông

Thế thì bà cũng như ông, đều cần đến nhau, đều phải tựa vào nhau, để cùng xây dựng một cuộc đời chung.

Viết Về Một Người Cha

Đường đường là một vị Giám mục tiên khởi của một giáo phận, thế mà cuộc sống của ngài vẫn luôn đơn sơ và đạm bạc, nếu không muốn nói là khắc khổ.

Chuyện Bình Thường

Chỉ có bọn nầy, vì sống quen trong cái " môi trường  bình thường " đó, là có thể đã trở thành … bất bình thường thôi !

       Tôi có một ông bạn hiện ở Sài Gòn, vùng Tân Định. Chúng tôi thường liên lạc với nhau bằng email, dĩ nhiên là những trao đổi đã được " cân nhắc " kỹ để tránh " đụng chạm phiền phức ".
      
Gần đây, tôi gởi ông ta tấm hình nầy, lượm trên internet :

Và hỏi ổng nghĩ sao ? Ổng trả lời :
 
      - Ồ ! …Khoá xe vào chân để yên tâm ngủ trưa cho … ngon lành là chuyện bình thường ở xứ nầy, đâu có gì lạ ! Bồ coi, như tôi bây giờ, trên xe đạp lúc nào cũng có ba ( 3 ) cái khoá : một cái để khoá bánh trước vô sườn xe, một cái để khoá bánh sau vô sườn xe, còn cái thứ ba là để khoá sườn xe vô cột điện. Vậy là an toàn ! Không làm vậy, nghĩa là chỉ khoá một bánh xe vô cột điện là chúng nó tháo lấy bánh xe còn lại, có khi lấy luôn cái sườn xe nữa ! Chuyện bình thường mà bồ ! Có gan, bồ về đây chơi sẽ thấy toàn là chuyện bình thường hết !

       Ở cuối email, ổng viết một câu làm tôi thật xúc động :

        - Chỉ có bọn nầy, vì sống quen trong cái " môi trường  bình thường " đó, là có thể đã trở thành … bất bình thường thôi ! Mình biến thành " bất bình thường " mà mình không biết ! Đó, cũng là " chuyện bình thường " , bồ à !

        Đọc đến đó, tôi nghe thương ông bạn của tôi vô cùng : ổng đã nén cái đau của ổng để khỏi  thốt ra một lời than cho thân phận !

        Thời gian sau, ổng gởi tôi một tấm hình trong email ổng viết :

        - Tấm hình nầy chụp ở Ấn Độ . Người chủ xe đạp cởi đôi dép da để vào chùa lạy Phật , sợ mất dép nên … khoá đôi dép vào bánh xe đạp ! Đó là chuyện bình thường ở Ấn Độ. Nếu là ở xứ mình, làm như vậy là " bất bình thường ", bởi vì chuyện bình thường ở đây là khi thằng cha đó lạy Phật xong bước ra sẽ không còn thấy xe đạp và đôi dép da nữa !

         Rồi ổng kết : " Bồ thấy không ? Chuyện bình thường ở mỗi xứ mỗi khác ! Ở xứ mình cái khác đó rất … độc đáo cho nên nhiều khách du lịch, sau khi biết Việt Nam, đã nói Việt Nam không giống ai hết !

          Đây là hình ổng gởi :


                                                                      * * * 
       Ông bạn tôi " khơi " chuyện bình thường làm tôi nhớ lại những hính ảnh lâu nay tôi thấy trên internet mà vẫn tự hỏi : " Sao có thể như vậy được ? ". Thì ra ở quê hương tôi " Nó đã như vậy được " nên mới gọi là " Chuyện bình thường " !

       Đây : hãy coi Sài Gòn cứ sau cơn mưa " hơi lớn hơi lâu " là ngập lụt . Mà loại " mưa hơi lớn hơi lâu " tới mùa là … có mặt " liền tù tỳ ", nghĩa là thành phố cứ nay ngập mai lụt dài dài . Vậy mà chẳng thấy dân chúng đi biểu tình đòi hỏi chánh quyền phải " khai thông " cống rãnh ! Rối thì cứ tự nhiên lội nước đi sanh hoạt, đem lưới ra lưới cá giữa lòng đường  y như ngoài sông rạch, còn trên đầu vẫn có biểu ngữ " Có nước sạch là có sức khoẻ ", đám cưới  vẫn rước dâu bằng xe ba bánh, có ướt chút chút cũng không sao – ngày lành tháng tốt mà ! - Riết rồi trở thành " Chuyện bình thường ", chẳng có gì phải bận tâm hết !

        Không biết chừng nào người dân xứ tôi làm một chuyện … động Trời - gọi là " Chuyện Bất Bình Thường " – nghĩa là cùng đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền phải làm thế nầy, phải làm thế nọ … để cuộc sống của người dân được " nâng cấp " như ở các nước … bình thường khác ?

         Hỏi , tức là … không trả lời ! Than ôi ! …

         Đây : vài hình ảnh " Chuyện Bình Thường " lượm trên internt :

Chuyện Phiếm về MÈO

Từ Mèo Đặng Tiểu Bình đến Mèo Nhà Ta.

- Hello!

- Xin lỗi, ai ở đầu dây đấy ạ?

- Thưa Cụ Đốc, con là Ba Rọi, chủ báo "Mèo Chuột" đây.

- Ô, xin chào ngài chủ báo.  Thưa, chẳng hay ngài chủ báo có điều chi muốn dạy bảo lão đây?

- Dạ, không dám, Cụ Đốc. Cụ là thẩm phán. Năm nay năm con Mèo. Xin cụ "phán" cho một "án lệnh" để loan truyền trên báo nhà.

- Ô hay, ngài có lộn không nhỉ! Ở xứ Mỹ này, thẩm phán lười như hủi, có viết án bao giờ đâu. Luật sư toàn viết sẵn án cho thẩm phán ký đấy chứ?

- Cụ Đốc ơi, báo mình người viết cũng mùi nước mắm, người đọc cũng mùi mắm tôm, nên cụ phải theo luật An Nam chứ! Theo luật nhà mình: Luật sư nói. Thẩm phán viết. Thẩm phán đập búa lên bàn. Còn luật sư gõ vào hầu bao thân chủ.

- Xem ra ngài cũng am tường luật pháp dữ ha? Thế ngài muốn lão viết về cái gì đây?

- Tùy cụ Đốc. Viết gì cũng được, miễn là phải có chút mèo mỡ gì đó, cho nó thích hợp với năm Tân Mão.

***
 
Con Mèo của Đặng Tiểu Bình

Đốc Gàn lấy chiếc ống nhổ, nhả miếng bã trầu đỏ lòm vào. Rồi chậm rãi rít một hơi thuốc lào. Khói bay mù mịt căn phòng. Lão trải mảnh giấy bồi, vàng khè lên chiếc sập gụ và lấy bút lông chấm mực viết.
Từ ngày mất nước đến nay, mỗi độ Xuân về là Đốc nhớ đến Pháp Đình Saigon không thể tả được. Pháp Đình nằm trên đường Công Lý, sơn màu vàng, các cửa màu xanh biển và những đường viền màu trắng. Mỗi buổi sáng, dân chúng tấp nập vào Pháp Đình cầu viện công lý. Các luật sư tay xách cặp Samsonite và xúng xính trong bộ áo  đen cổ trắng đi qua đi lại nhộn nhịp hành lang toà án... Nhớ ơi là nhớ! Thương chết đi được!

Đốc giơ bàn tay lên bấm số tử vi. Miệng lẩm bẩm, mắt mơ màng:

- Năm Quý Mão, 1963, Hoa Kỳ chủ động cuộc lật đổ hai anh em TT. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Dương Văn Minh cầm đầu nhóm tướng lãnh đảo chánh. Đúng một giáp sau, năm Ất Mão, 1975, Hoa Kỳ rút quân, cũng lại Dương Văn Minh ló đầu trên chính trường vào giờ thứ 25 và ra lệnh đầu hàng quân xâm lăng Bắc Việt. Thế là chế độ VNCH bị khai tử. Cộng Sản Bắc Việt nhuộm đỏ toàn thể Việt Nam. Pháp Đình Saigon từ đó trở thành công cụ cho một chế độ Luật Rừng.

Bỗng Đốc thở dài, tay chân run rẩy, hai dòng lệ chảy dài trên chiếc má hóp bọc da đồi mồi:

- Dòng dã 3 chu kỳ qua đi, Cộng Sản Đông Âu chết đã xanh cỏ, mà sao Cộng Sản Việt Nam (CSVN) vẫn còn quậy cựa, dâng đất dâng biển cho quan thày Trung Cộng, vẫn còn hành hạ các nhà yêu nước đòi tự do, đa nguyên, đa đảng cho dân, vẫn còn thẳng tay đàn áp các tôn giáo, ức chế giáo dân? Lạ thật?
Cộng Sản đã cai trị thế giới bằng sắt máu và đã giết hại cả 100 triệu người trên thế giới, trong đó, có 65 triệu nạn nhân chết ở Trung Hoa lục địa. Riêng tại Việt Nam gần 2 triệu đồng bào đã chết do chính sách cai trị dã man của Hồ Chí Minh và đồng bọn.

Nói đến Mèo, người ta nhớ ngay đến câu nói để đời của Đặng Tiểu Bình: "Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột". Câu nói này cùng với sự phục hồi uy tín và quyền hành của Đặng Tiểu Bình đã trở nên một chủ thuyết nhằm cải tiến đời sống xã hội, kinh tế và ngoại giao của Trung Cộng. Thực vậy, với nguyên tắc "Mèo trắng mèo đen", Trung Cộng đã khai tử mọi chính sách và đường lối nặng về "hệ tư tưởng" (ideology), để cổ võ cho đường lối "thực dụng" (pragmatism). Khi đưa ra nguyên tắc này, họ Đặng muốn bắt tay cả với "Tư Bản Đế Quốc Mỹ", miễn sao có lợi cho Trung Quốc là được. Không thể phủ nhận rằng triết lý của họ Đặng có giá trị thực dụng, nhưng rất nguy hiểm xét về khía cạnh đạo đức, vì nó vi phạm nguyên tắc phương tiện không thể biện minh cho cứu cánh. Và nếu lão dạy cho giống mèo bỏ thói quen bắt chuột thì lập luận của họ Đặng trở nên hụt hẫng, vì Mèo không còn bắt chuột nữa. Mèo trở nên vô dụng đối với họ Đặng.

Dù sao, nguyên tắc "Mèo trắng mèo đen" của Đặng Tiểu Bình đã tạo sinh khí cho Trung Cộng, biến nước này thành một con Cọp hùng mạnh, có thể ăn tươi nuốt sống các nước nhỏ miền Thái Bình Dương. Cộng Sản VN lúc nào cũng theo gót đàn anh Trung Cộng. Khi họ Mao chê họ Đặng thì VN cũng chê nguyên tắc Mèo, nhưng đến khi họ Đặng được phục chức thì VN lại khen rối khen rít triết lý Mèo. Cho đến tháng 12 năm 1978, khi họ Đặng nổi nóng tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ. Phải dạy cho VN một bài học" và rồi ông xua quân đánh VN. Lúc đó VN mới sáng mắt ra. Bọn Tàu khốn nạn thực!

Mèo Và Cọp

Tới đây thì tên đệ tử của Đốc Gàn bước vào. Hắn thấy thày mình đang cúi khòm xuống vẽ mèo vẽ chuột, nên góp ý:

- Bẩm cụ Đốc, con vợ của con càng ngày càng dữ như Cọp. Chắc con phải đi kiếm một con Mèo mướp để thay thế con Cọp nhà con.

Đốc Gàn trợn trừng mắt:

- A, thằng này, mày ngon thật hả con?

- Dạ, sức chịu đựng của con người có hạn mà cụ Đốc.

- Bay vừa nói bay đi tìm một con Mèo, tức là con bồ nhí đấy, phải không? Thế bay có biết tại sao người ta lại gọi tình nhân của những đàn ông đã có vợ là "Mèo" không?

- Dạ, không! Thấy người ta nói sao, con bắt chước vậy.

Đốc giải thích:

- Con mèo nó thích được người vuốt ve và chính nó cũng thích mơn trớn, lăn vào lòng chủ, uốn qua uốn lại, nhõng nhẹo rất tình tứ. Mèo lại còn có tính e thẹn, xấu hổ. Làm gì cũng muốn kín đáo, lén lút. Thậm chí cả cái chuyện đi tiêu xong cũng phải bới đất che đi. Mèo còn dị ứng với màu trắng, màu trong sạch. Những chỗ nào mèo hay đến phóng uế thì thuốc gì rảy vào mèo cũng không sợ, chỉ có cách đổ nước vào một chiếc bình plastic màu trắng để vào chỗ đó là mèo không đến ị bậy nữa. Phong cách những cô nhân tình lén lút với những chàng trai có vợ y hệt như dáng dấp của con Mèo. Từ đó mới có cảnh các bà vợ chổng mông lên trời mà than rằng: "Trời ơi! Chồng tôi có Mèo rồi!"

- Dạ, bây giờ thì con đã hiểu!

- Thế bay có biết Mèo và Cọp khác nhau ở chỗ nào không?

Tên đệ tử xoa hai bàn tay với nhau, cười khoái chí:

- Dạ, biết, biết. Cái này là nghề của con mà!

Cọp luôn luôn gắt gỏng, cằn nhằn, gầm gừ, nhưng Mèo thì dịu dàng, âu yếm, nựng chiều.

Cọp thường muốn mình là Chúa Sơn Lâm. Còn Mèo thì vâng lời, nhu mì, coi người tình là chủ đời mình.

Cọp thì đầu bù tóc rối. Mèo lúc nào cũng miệt mà, óng ả, thơm như múi mít.

Cọp luôn mở ví, xiết tiền lương của chồng. Còn Mèo thì chẳng cần chi, cho bao nhiêu lấy bấy nhiêu, không cho cũng chẳng sao, vì đời em có anh là có tất cả. Tình chưa!

Tên đệ tử như được gãi đúng chỗ ngứa. Nói xùi bọt mép. Nói thao thao bất tận:

- Cụ Đốc ơi, Năm nay nhất định con sẽ ly dị con Cọp cái nhà con, để lấy con Mèo Mới. Tân Mão mà lị!

Đốc Gàn nghiêm nét mặt, cầm chiếc xe điếu chỉ vào mặt tên đệ tử:

- Lão nói cho bay biết: Mỗi lần ly dị là một lần cháy nhà đó nghe con. Ngày xưa ở Việt Nam, tòa lão xử ly hôn, nên lão rành mấy câu Vọng Cổ này lắm. Xứ Mỹ này đàn bà là "năm bơ oăn", nên số phận mấy ông chồng ly dị còn đen như mõm chó ấy. Đừng tưởng ly dị là ngon đâu! Sạt nghiệp đấy con ạ. Từ Mèo biến thành Cọp không xa đâu con ơi, vì chúng cùng một dòng họ mà! Mèo hay Cọp, miễn sao cho mày ôm là tốt rồi. Đêm khuya, tắt lửa tối đèn, nhà tranh cũng như nhà ngói. Ôm Cọp hay ôm Mèo cũng giống nhau cả. Bay đừng quên rằng Mèo nó cũng có móng sắc, có thể cào nát mặt mày. Xong nó trèo tuốt lên ngọn cây cau cười tình. Làm sao mày bắt được nó? Có những ông chồng chán vợ, tưởng rằng đổi vợ là xong. Đó không phải là giải pháp hay. Bao lâu chính mình không thay đổi, lại đi đổi vợ thì cũng như tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa. Đàn bà, ai cũng vậy, bay ơi! Vì vậy, cái hay của đàn ông là làm sao biến con Cọp trong nhà thành con Cọp giấy. Thế là xong!

Đói (3)

Trong năm 1945, lợi dụng tình trạng các đảng phái chính trị tranh nhau nổi lên hoạt động cứu nước, các đảng cướp cũng mọc lên như nấm để kiếm ăn.

 Nạn đói năm Ất Dậu 1945 (vientay.com)

Lúc đầu chỉ là những vụ ăn trộm, đào ngạch, khoét vách vào ban đêm để lục lọi thức ăn dưới bếp. Về sau, nảy sinh ra các đảng cướp, có vũ khí, mã tấu, giáo mác. Chúng ăn cướp có kế hoạch như đi hành quân, hết làng này đến làng khác. Đi tới đâu chúng cũng tìm nhà giầu cướp của, hãm hiếp phụ nữ một cách công khai.

Người ta tự hỏi lúc đó ai đang cai trị mảnh đất Việt Nam? Trên nguyên tắc, thực dân Pháp vẫn còn đang đô hộ Việt Nam trong giai đoạn này. Nhưng khi Pháp đầu hàng Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945), thì Nhật (cùng phe Trục với Đức) đã đặt ra nhiều yêu sách đối với Pháp tại Đông Dương. Chẳng hạn Thỏa Hiệp Pháp-Nhật ký ngày 19-8-1942, Pháp phải xuất cảng sang Nhật một triệu tấn gạo lấy từ các mùa gặt năm 1942-1943 tại Việt Nam. Đến ngày 9-3-1945, Nhật mới chính thức đảo chính Pháp và nắm quyền tại Việt Nam. Nhưng lúc đó, Nhật đang lo ngại có thể bị thua trận, nên bề ngoài vẫn phải tuyên bố "long trọng trao trả độc lập cho Việt Nam" để làm giảm sự chống đối của các phong trào đuổi Nhật đang rầm rộ khởi phát. Ngày 17-4-1945 Hoàng Đế Bảo Đại trao quyền cho ông Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng thực chất, Bảo Đại cũng không có quyền hành gì, ngoại trừ việc quản lý nội bộ.

Làng Nam Ninh có một tướng cướp tên là Mãnh Hổ, rất hung dữ, ai cũng phải sợ. Cha xứ được mật báo tên này đang hoành hành ở làng dưới và không bao lâu sẽ đến xóm đạo của cha. Cha liền họp bàn với Đoàn An Ninh để triệt hạ tên này. Đương đầu trực diện thì không được, vì bọn cướp đông người, lại có võ nghệ. Vì thế, kế hoạch được dựng lên là các thanh niên trai tráng sẽ nấp trong nhà dân dọc theo hai bên đường. Dưới đất, nhiều dây thừng căng ngang qua đường được vùi sơ bằng một lớp cát.

Khi Mãnh Hổ và đoàn cướp đi qua ổ phục kích, các dây thừng nhất loạt được giựt lên, ngăn chúng lại. Phía trên mái nhà các mảnh lưới đan bằng dây thừng tung xuống. Thế là cả đoàn bị vướng dây rợ tứ tung, gỡ không ra. Cùng lúc, gạch đá từ hai bên đường tới tấp ném qua và từ mái nhà trút xuống. Toàn bộ băng đảng bị thương, máu me lênh láng, còn phe xóm đạo thì bình yên vô sự. Tướng cướp Mãnh Hổ và toàn bọn bị bắt sống. Cha xứ nạp chúng cho nhà nước trừng trị. Kể từ đó không có đám cướp nào dám bén mảng đến xứ đạo Mông Triệu nữa.

Thực sự thì dân chúng trong làng Nam Ninh ít người bị đói, vì tuy ruộng đất bị quân phiệt Nhật trưng thu trồng đay, nhưng vườn tược chung quanh mỗi nhà khá nhiều, nên họ giồng khoai, giồng sắn hay chuối và các cây thực dụng khác, nhờ vậy, cũng đủ tạm sống qua ngày. Nhà nào lỡ bị túng thiếu chút ít thì bà con lối xóm giúp đỡ chia xẻ cơm áo cho.

Sau gần 2 năm hoành hành, nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu dần dần tan biến nhờ 3 lý do chính:

Thứ nhất, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh ngày 15-8-1945, nên Việt Nam không còn phải xuất cảng một số lượng gạo kếch sù sang Nhật nữa.

Thứ nhì, Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, phi cơ Đồng Minh không còn bắn phá các trục lộ giao thông nữa, nên sự tiếp tế lúa gạo từ miền Nam ra Bắc được dễ dàng.

Thứ ba, dân số tại Bắc Việt đã giảm sút rõ rệt, vì một số khá đông di cư vào Nam lập nghiệp. Còn những người đã thoát chết trong nạn đói không cần di chuyển đi đâu cả. Họ được tiếp tế và bắt tay vào cuộc sống mới.

Sức tàn phá của nạn đói được giảm đi phần nào cũng là nhờ sự hy sinh của tín đồ các tôn giáo. Với tinh thần bác ái của Công giáo hoặc đức từ bi hỉ xả của Phật giáo, các đạo hữu rất hăng say trong công tác cứu đói và làm việc có tổ chức dưới sự lãnh đạo của các tu sĩ. Họ đạo Mông Triệu với cha xứ Giuse Kiên là một trường hợp điển hình của hàng ngàn các xứ đạo khác.

Vào một buổi trưa hè nóng bức, cha xứ Kiên đang ăn cơm thì có tiếng gõ cửa sau nhà. Cha hơi ngạc nhiên vì những người xin ăn không ai vào được cửa phía này, còn giáo dân thì ai cũng biết giờ này cha ăn cơm và ngủ trưa. Họ không  dám phiền cha, trừ trường hợp khẩn cấp lắm. Khi cha ra mở cửa thì thấy một người con gái, mặt mũi hom hem, đội chiếc nón lá rách tả tơi, chứng tỏ đây là một nạn nhân của nạn đói.

- Thưa cha, cha không nhận ra con à?

Cha Kiên lắc đầu nhẹ, hơi nhăn trán lại cố gợi trí nhớ xem là ai. Người con gái tiếp:

- Con là Tình, hội Con Đức Mẹ đây, cha!

Tình là một cô gái trong họ, cha mẹ mất sớm, ở với bà thím. Tính nết hơi lẳng lơ. Cô bỏ làng đi biệt tích cả mấy năm nay. Có người nói đã bắt gặp cô làm "me Tây" ở tỉnh. Cha Kiên cũng được người ta báo tin cho biết như vậy. Hôm nay, bỗng dưng cô trở về thăm cha. Tuy ngạc nhiên, nhưng cha vẫn niềm nở:

- À, Tình, cha nhớ rồi. Kỳ này trông con gầy đi nhiều!

Cô nàng mừng rỡ quá, vì được cha nhận ra. Cô bỏ chiếc nón khỏi đầu và nhìn cha với giọng cầu khẩn:

- Cha có gì ăn không? Cho con ăn với. Con đang đói quá!

Cha Kiên không trả lời ngay. Cha nghĩ rằng biết đâu nhờ cái đói này mà cha có thể đưa nàng trở về cuộc sống ăn ngay ở lành. Cha muốn cứu linh hồn cô trước khi cứu thể xác. Cha nhìn thẳng vào mắt cô:

- Con đã bỏ nhà thờ mấy năm nay. Con hãy sốt sắng giọn mình xưng tội ngay bây giờ, rồi cha cho ăn cơm.

Tự nhiên Tình xìu nét mặt lại, đứng lặng người ngẫm nghĩ hồi lâu. Có lẽ cuộc đời trụy lạc của cô trong suốt mấy năm qua đang hiện ra rõ nét. Cô xấu hổ, không dám xưng tội với cha. Cô ngập ngừng:

- Thôi, thưa cha, vậy thì thôi vậy. Chào cha con đi!

Vừa nói, cô vừa nhặt chiếc nón và chạy đi luôn trước sự ngạc nhiên của cha.

Cha Kiên thở dài, trở lại bàn cơm. Cha vừa lo vừa thương hại cô. Nhưng cha lại nghĩ rằng trước sau gì thì con Tình cũng gặp bạn bè trong Đoàn Cứu Đói cuối nhà thờ. Nó chẳng dám đi xa nữa đâu. Có gì mà phải bận tâm. Vì thế, sau bữa cơm, cha bình thản đi ngủ trưa.

Theo thói quen, sau giờ nghỉ trưa, cha ra nhà thờ đọc kinh Nhật tụng. Vừa quỳ xuống làm dấu thì ông Từ khúm núm đến ghé sát vào tai cha:
- Bẩm lạy cha, con Tình nó nằm chết ở cổng sau nhà xứ mình rồi!

Cha xứ hoảng hốt buột miệng:

- Lạy Chúa!

Nhưng cha lấy lại bình tĩnh ngay và bảo ông Từ:

- Được rồi!

Ông Từ hiểu ý là cha đã được bá cáo. Nhiệm vụ ông đến đây là hết. Ông lặng lẽ lui ra.

Cha Kiên không mở sách kinh ra đọc. Cha quỳ, lấy hai tay úp vào mặt suy nghĩ: Linh hồn và thể xác, cái nào phải ưu tiên cứu cấp? Hồn là quý, xác là hèn. Nhưng không cứu xác trước thì làm sao cứu được hồn?

Cha nhớ đến phép lạ Chúa hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho cả hàng ngàn người ăn.   Khi ấy, dân chúng đi theo Chúa đông quá sức. Họ say mê nghe Lời Chúa. Lời Chúa là Lời Hằng Sống. Lời Chúa có sức cải tử hoàn sinh và Lời Chúa đưa con người đến sự sống muôn đời. Nhưng nghe Lời Chúa lâu quá, dân bắt đầu cảm thấy đói, thấy khát. Các tông đồ xin Chúa đuổi dân về đi. Người đông thế này, lấy gì cho họ ăn, lấy gì cho họ uống? Giải pháp của các tông đồ rất đúng và rất thực tế. Nhưng Chúa lại không nghĩ như vậy. Lời Chúa là lời hằng sống để giải quyết cái đói về tâm linh của con người. Nhưng không thể lấy Lời Chúa mà nuôi thể xác con người được. Có thực mới vực được đạo! Phải cho họ ăn uống no nê. Bao tử có đầy thì mới có sức mà theo đạo và giữ đạo. Chúa muốn cho họ ăn uống để tiếp tục nghe Chúa giảng đạo. Vì đuổi dân đi, lấy ai theo đạo? Và vì thế, Chúa đã làm phép lạ với chỉ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà 5.000 ngàn đàn ông - chưa kể đàn bà con nít - được ăn thỏa thuê, lại còn dư cả thùng, cả thùng.

Cha Kiên tự hỏi mình: Hay là chính cha có lỗi đã bỏ Tình chết đói? Cha không cần và cũng không thể làm phép lạ như Chúa, vì cha đang dư thức ăn để cho đi. Chưa hết đâu! Cha để cho cô chết trong tình huống tội lỗi này, có thể cô chết mất linh hồn lắm chứ? Phải chăng cha đã giết cả linh hồn lẫn thế xác của Tình? Cha bắt đầu lo lắng. Không biết Tình còn nhớ bài học giáo lý cha đã dạy mà ăn năn tội cách trọn trước khi chết không? Con người chỉ cần một giây, một phút nhớ đến Chúa và hối hận vì đã phạm tội mất lòng Chúa trong giờ sau hết là đủ để Thiên Chúa lòng lành tha thứ hết mọi tội lỗi.

Cha không muốn nghĩ tiếp nữa. Cha xin phó dâng tất cả trong tay Chúa. Tuy nghĩ vậy, nhưng lương tâm cha vẫn còn áy náy. Bất chợt, qua cửa sổ trước mặt, cha nhìn thấy anh Phạm văn Độc, Trưởng Đoàn Tobia, con ông bà Giáo Hiệt vừa đi ngang qua. Cha chạy vội ra, gọi anh lại gần:

- Anh Độc, anh còn nhớ cô Tình, hội Con Đức Mẹ trước đây không?

- Dạ, con nhớ chứ cha. Cô vừa chết ở cổng sau nhà xứ, chúng con đã bỏ xác lên xe bò, sắp sửa đem đi chôn.

Cha nói thật chậm, sợ anh Độc nghe không rõ lệnh của cha:

- Tôi muốn làm phép xác cô ta trong thánh lễ chiều nay tại nhà thờ. Anh báo với ông Trùm cho tôi như vậy nhá!

Vâng lệnh cha xứ, anh giữ xác cô Tình lại để làm phép trước khi chôn. Khổ nỗi, xác cô lại nằm dưới cùng trong chiếc xe ba gác. Thế là anh em trong Đoàn lại phải khênh từng xác chết xuống, mới lấy được xác cô Tình ra.

Trong Thánh lễ chiều hôm đó, xác cô Tình được bó trong một chiếc chiếu do họ đạo cung cấp. Cha làm lễ cầu hồn và rảy nước Thánh lên xác của cô trước khi đem đi chôn. Mọi người đọc kinh Vực Sâu cầu cho linh hồn Maria.

Sau lễ, bên ngoài tiền đường nhà thờ, các bà xúm nhau lại, xì xầm bàn tán um cả lên:

- Gớm, cái con đĩ này mà cha còn làm lễ, làm lạy gì cho nó. "Me Tây" thì chỉ có sa hỏa ngục!

- Cái con này nó lẳng lơ lắm cơ đấy. Cha cụ cũng phải giữ mình, không thì cũng chết với nó!

Biết rằng các bà đã bàn luận lạc đề khá xa, nên có tiếng đàn ông xen vào:

- Thôi đi các bà ơi! Cho tôi can. Đừng có xét đoán người ta. Lo thân mình đi. Đàn bà ai mà chẳng lẳng lơ. Tội hay không thì chỉ có Chúa biết.

Thằng Kích có tiếng là hay trêu chọc các bà cũng xông vào ăn có:

- Thôi đi các mệ! Các mệ có biết chuyện Diêm Vương không? Để tôi kể các mệ nghe: Ngày kia Diêm Vương bắt được hai phụ nữ: Người thứ nhất là gái giang hồ. Người thứ hai là hội viên Hội Con Đức Mẹ. Diêm Vương hỏi cô gái giang hồ:

- Chị kia, chị làm gì ở trần gian?

- Dạ, con mua vui cho thiên hạ. Ai buồn bực, đến gặp con là ra về vui vẻ như Tết.

Diêm Vương cười hả hê:

- Thế thì tốt. Cho trở về trần gian làm người tiếp. Chúc vui vẻ!

Diêm Vương quay sang hội viên Hội Các Bà Mẹ:

- Còn chị kia, chị làm gì?

- Dạ, con thờ chồng nuôi con. Hằng ngày chịu khó đọc kinh xem lễ. Con vào Hội Các Bà Mẹ để kể cho nhau mọi thứ chuyện trong xứ đạo. Hội chúng con nhiều chuyện vui lắm!

Diêm Vương vội vàng ngắt lời:

- Bắt! Bắt ngay lấy con mụ lắm chuyện này. Âm phủ đầy dẫy những mụ lắm chuyện như con mụ này!

Thằng Kích phá lên cười, dòn như nắc nẻ. Các bà thì vừa bực vừa buồn cười về câu chuyện tếu nó vừa kể, nhưng vẫn la lối xỉa xói:

- Bắt! Bắt cái đầu mày. Bà đánh cho chết bây giờ, cái thằng khỉ gió này!

Đói (2)

 Làm việc bác ái cũng phải làm cho khôn ngoan.

 
                  Nạn đói Ất Dậu tại Thái Bình
              (Hình của Võ An Ninh - tuoitre.vn)

 Trong suốt bao nhiêu tháng trời, cảnh tượng những con người với bộ xương bọc da đã trở thành một tai họa nặng nề kinh khủng đổ xuống gia đình ông bà Trùm Hương. Nhưng ông lại không quan niệm như vậy. Ông bảo rằng Chúa thương gia đình ông nên mới gửi Thánh Giá đến để ông vác đền tội lập công trên nước Thiên Đàng. Mỗi tối, khi đọc kinh chung trong gia đình, ông động viên tinh thần mỗi người:

- Đời sống trần thế thì vắn vỏi. Khổ cực cách mấy thì cũng không quá 100 năm. Cuộc sống đời sau mới là vĩnh cửu.

Một buổi sáng kia, cô Tin ra mở cổng, vừa nâng thanh gỗ chốt cửa ra thì bất chợt hai cánh cửa đẩy mạnh về phía cô. Bình thường, cô phải kéo mạnh mỗi cánh cửa về phía mình, vì cửa làm bằng gỗ lim rất nặng. Hôm nay, cả hai cánh cửa bỗng nhiên đập mạnh vào mặt cô khiến cô té ngửa người xuống đất. Thì ra vào đêm hôm trước, hàng trăm người đói khát đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà ông Trùm. Nhiều người đứng tựa vào cửa và đã chết đứng tại chỗ. Khi chốt cửa vừa mở ra, sức đẩy của hàng trăm người ép vào cánh cửa, đập vào người cô Tin, khiến cô té xuống đất, nằm sõng soài. Cô bị hàng ngàn người hốt hoảng như những con ma đói tràn vào như sóng và dẵm nát thân thể cô. Cô tắt thở ngay tại chỗ.

Nhà ông bà Trùm Hương hôm đó tan hoang. Những người hành khất từ phương trời xa lạ như những con chó sói đói, cuồng điên xông vào phá kho gạo dự trữ. Có những tên bất lương lợi dụng thời cơ vào cả trong nhà lục lọi và lấy đi tất cả những gì chúng có thể mang đi được.

Phải mất cả tiếng đồng hồ, ông Trùm Hương mới tìm thấy xác con, máu me đầy người, nằm chết chung với một đống xác người chỉ còn da bọc xương. Trước hoàn cảnh bi đát này, ông Trùm gọi tất cả con cái và gia nhân tạm thời rút khỏi nhà, đến tá túc tại mái hiên tiền đình nhà thờ. Họ đem theo cả xác cô Tin.
Cha xứ Giuse Kiên cho lệnh giật chuông nhà thờ báo động. Mọi giáo dân, già trẻ lớn bé, khi đến nhà thờ, nhìn thấy xác cô Tin, mới biết tai họa vừa xảy đến cho gia đình ông Trùm Hương. Ai cũng bùi ngùi đau đớn trước cảnh "làm phước nên tội" này.

Bà Trùm Hương khóc rũ rượi:

- Chúa ơi, Chúa ở đâu? Sao con khổ thế này?

Ông Trùm ghé sát vào tai bà, an ủi:

- Bu mày đừng khóc lóc như vậy. Chúa có thương thì Chúa mới gửi Thánh Giá cho mình vác.

Rồi ông ngước mắt lên trời lâm râm nhắc lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi bị treo trên Thánh Giá:

- Lạy Cha, xin cất chén đắng này cho con, nhưng xin theo ý Cha, chứ đừng theo ý con!

Tất cả các hội đoàn trong họ đạo, theo sự hướng dẫn của cha xứ, đã tổ chức đám táng cho cô Tin thật trang trọng. Trong hoàn cảnh đói kém, người chết nằm ngổn ngang đầy đường, ông Trùm Hương chỉ xin mọi người thêm lời cầu nguyện cho linh hồn con gái ông, còn mọi hình thức khác, ông xin được giản tiện tối đa, không có tiệc tùng như thông lệ sau mỗi đám tang. Quan tài của cô Tin được các giáo dân và cha xứ rước từ nhà thờ ra nghĩa trang Mả Sặt. Cậu bé Đốc Gàn ở trong đoàn cầm cờ tang dẫn đầu đoàn rước. Nhiệm vụ cầm cờ này Đốc làm thay cho người cha đi vắng, vì theo cấp bậc trong làng, cha của Đốc Gàn được chỉ định vào "chức" cầm cờ trong các buổi đình đám, lễ hội.

Ngay sau đám táng cô Tin, cha Kiên cho triệu tập tất cả các thanh niên, thiếu nữ trong họ lại để lập Đoàn Cứu Đói, Đoàn An Ninh và Đoàn Tobia. Đoàn Cứu Đói có nhiệm vụ nấu cơm cháo và phát chẩn cho người ăn xin. Đoàn An Ninh có nhiệm vụ canh gác ngày đêm khu vực họ đạo, không cho người ăn xin đến gõ cửa từng nhà, để tránh tình trạng người chết nằm la liệt ở khắp các hang cùng ngõ hẻm, gây sợ hãi và bệnh tật cho mọi người. Còn Đoàn Tobia lo việc chôn cất những người chết trong ngày.

Theo lệnh cha xứ, từ nay tất cả thóc gạo, đồ ăn thức uống, quần áo cứu đói phải được tập trung ở cuối nhà thờ để Đoàn Cứu Đói và Đoàn An Ninh quản thủ và cấp phát.

Tối hôm đó, ông bà Trùm Hương được Đoàn An Ninh hộ tống đưa về nhà. Nhìn cảnh tượng nhà tan cửa nát, đồ đạc bị lục lọi, mất mát thì dù có đạo đức cách mấy cũng phải đau lòng xót ruột và buồn chán. Duy chỉ có mình ông Trùm vẫn giữ được bình tĩnh, tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa an bài. Khi thấy mọi người khóc lóc, rầu rĩ, ông trấn an:

- Thánh Gióp ngày xưa giầu có biết bao nhiêu, con cháu đầy đàn, vậy mà chỉ trong khoảnh khắc, ông mất hết tiền của, con cháu và bạn bè, phải nằm trên đống tro ở chuồng heo. Kinh Thánh viết rằng Chúa đã khen ông Gióp là người đơn sơ ngay thẳng, kính sợ Chúa, xa lánh tội. Chúa cũng khen ông là người có một không hai trong loài người. Còn mình đau khổ có thấm tháp gì so với ông Gióp!

Đêm đó, Đoàn An Ninh còn lôi được thêm mười xác chết ở vườn sau nhà ông Trùm ngay gốc mấy cây chuối đã bị đào tróc rễ.

Thực ra, trong xóm đạo còn có một gia đình cũng giầu không kém gì ông bà Trùm Hương. Đó là ông bà Giáo Hiệt. Dân làng gọi ông là "Giáo", vì có thời ông mở lớp dạy học chữ quốc ngữ. Tuy hồi thiếu thời, ông được cha mẹ gửi lên tỉnh Thái Bình học, nhưng chưa đậu được bằng cấp gì thì cha mẹ đã gọi về để coi sóc thợ thuyền, vì ông là con một trong gia đình. Ông tổ chức lớp học gồm cả trai lẫn gái, nên bị các bà lời ra tiếng vào, rồi đi tới chỗ tẩy chay. Theo các bà, con gái không cần biết chữ, biết chữ chỉ để viết thư cho trai thôi, chứ chẳng được tích sự gì. Vì thế ông Giáo Hiệt bất mãn dẹp lớp học luôn.

Ông bà Giáo Hiệt có tới sáu người con. Vốn ảnh hưởng nếp sống phóng khoáng ngoài tỉnh thành, ông thích bàn chuyện chính trị và thường giao tiếp với lãnh tụ nhiều đảng phái. Ông đặt tên các con cũng theo tinh thần yêu nước. Bà Giáo Hiệt mắn đẻ, cứ năm một, bà cho ra đời một đứa con trai. Ông đặt tên bốn đứa con trai là : Độc, Lập, Tự, Do.

Sau đứa con thứ tư, ông Giáo cảnh giác vợ:

- Thôi, nghe bà! Bốn thằng con trai là quá đủ rồi. Đẻ thêm một thằng nữa, hóa ra ngũ quỷ đấy nhá! Bà ráng đẻ cho tôi hai đứa con gái nữa thì tôi sẽ đặt tên cho nó là Hạnh và Phúc. Độc, Lập, Tự, Do, Hạnh, Phúc.  Quá đẹp!

Quả nhiên ba năm sau, bà Giáo cho ra đời đứa con gái. Nó mang tên Phạm thị Ngọc Hạnh.

Nếu nói rằng ông bà Giáo Hiệt giầu có mà keo kiệt thì không đúng, vì ông cũng rộng rãi tham gia công việc bác ái trong họ đạo, nhưng rất kín đáo và có tính toán. Ông thường nói rằng:

- Chúa dạy ta khi làm việc bác ái thì phải kín đáo. Làm phúc bằng tay phải thì đừng cho tay trái biết.

Vì vậy, ông Giáo Hiệt thường công đức qua ngả nhà thờ, nghĩa là ông giúp đỡ ai cũng đều qua cha xứ. Điển hình là trong vụ cứu đói này, nhà ông bà chỉ cách sân bên hông nhà thờ có một cái ao. Chờ lúc vắng người, ông cho gia nhân gồng gánh gạo và muối vòng theo con đường nhỏ sát bờ ao sang nhà thờ, giao cho cha xứ. Còn cổng nhà ông thì cửa đóng then cài ngày đêm. Có ai đến xin ăn thì người nhà bảo lên nhà thờ và quả thực tại đây họ được phát đồ ăn.

Từ khi xảy ra vụ lộn xộn cướp phá nhà ông Trùm Hương, ông Giáo Hiệt còn rộng tay bố thí hơn nữa. Ông bí mật liên lạc với các đảng phái, nhất là cán bộ Việt Minh, đưa tiền cho họ mua gạo và giao tận nhà cho ông. Cái khôn ngoan của ông Giáo Hiệt là ông không công khai xây kho lúa hay kho gạo cho mọi người trông thấy, vì biết rằng để của nổi trong nhà lúc này là rước họa về nhà. Khi nạn đói vừa xảy ra, ông cho bí mật đào hầm chứa gạo ngay dưới sàn nhà bếp. Chỉ có các gia nhân thân tín và chính các con ông đào chiếc hầm  này. Còn lý do ông bỏ tiền mua gạo của các đảng phái, vì lúc đó đang có phong trào "Đánh Pháp - Đuổi Nhật", nên đảng nào cũng phải hoạt động mạnh để lôi kéo lòng dân. Nhiều chuyến xe chở gạo cứu trợ của chính phủ từ Nam ra Bắc bị các đảng phái phục kích lấy hết, nên họ thừa gạo nuôi đảng viên, lại còn dư đem bán. Thêm nữa, chỉ có các đảng phái võ trang chở gạo thì mới không bị dân chúng chặn xe ăn cướp mà thôi.

Tuy nhiên, bà giáo Hiệt không thích kiểu sống bác ái kín đáo như thế này. Có nhiều khi bà bị người trong xứ mắng khéo để lọt đến tai bà:

- Giàu có mà keo kiệt thì phải nói đến ông bà Giáo Hiệt. Dân chúng chết đói la liệt ngoài đường mà ông bà ấy cứ bình chân như vại, chẳng cho ai một bát cơm, chén cháo!

Họ có biết đâu là ông bà cũng làm phúc bố thí cũng chẳng kém gì ông bà Trùm Hương, nhưng mọi việc đều diễn ra một cách rất âm thầm. Thỉnh thoảng cha xứ Kiên lên tòa giảng cám ơn ông bà Trùm Hương về tấm gương bác ái. Còn tên tuổi ông bà Giáo Hiệt thì chẳng bao giờ được cha nhắc tới. Nhưng bà Giáo Hiệt đâu có biết là chính chồng bà đã năn nỉ xin cha đừng bao giờ nhắc đến tên ông giữa đám đông người. Nhiều lúc bà Giáo Hiệt còn ra mặt giận dữ trách chồng:

- Đức bác ái của ông sao mà nhút nhát quá vậy! Chúa nói đèn thì phải để trên cao soi sáng cho thiên hạ biết lối mà đi. Còn đèn của ông sáng mà lại bỏ xuống hầm kín. Mình làm việc nhân việc nghĩa, chứ có ăn gian nói dối gì mà cứ phải giấu giấu, đút đút.

Ngược lại, bà Trùm Hương thì phải chịu quá nhiều cực khổ do tấm lòng bác ái, nhất là sau vụ con bà - cô Tin - bị chết thảm thương. Mỗi lần nhớ thương con, bà quay sang cằn nhằn ông Trùm:

- Tôi thấy ông giữ đạo và làm việc bác ái mà không có sự khôn ngoan. Chúa dạy phải khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu. Cứ xem gia đình nhà ông Giáo Hiệt ấy. Người ta cũng làm phúc bố thí, mà khôn ngoan, nên gia đình bình yên, con cái đỡ cực nhọc. Đàng này nhà mình lúc nào cũng như cái chợ ấy. Có lúc ốm đau nằm nghỉ cũng không yên. Nhà cửa thì bị trộm cướp có vũ khí rình rập đêm ngày. Chẳng biết sống chết ra sao.

Nghĩ cho cùng thì đây cũng chỉ là hai cách sống đạo khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích: Bác Ái. Có tấm lòng bác ái đã khó, nhưng có khả năng để bố thí lại càng khó hơn. Rồi khi hành xử lòng từ bi bác ái, cũng cả là một vấn đề gian nan. Không phải Trời Phật ân thưởng ngay trong cuộc đời này, mà trái lại có khi còn bị nhiều tai nạn hoặc hàm oan nữa. Cuộc sống của ông bà Trùm Hương và Giáo Hiệt là những trường hợp điển hình.

Tuy vậy, nhiều khi trên đời cũng có những tấm gương hy sinh, bác ái gặp may. Một lần kia đi lễ, Đốc nghe một cặp vợ chồng được cha xứ cho lên toà giảng cổ võ giáo dân đóng góp tài chánh hằng năm cho Giáo Hội. Anh chị chưng diện quần áo bảnh bao, xức thuốc thơm đắt tiền, lượn qua lượn lại trong nhà thờ, khiến ai cũng được hưởng lây mùi thơm. Anh chị khuyên giáo dân nên rộng tay đóng góp cho Giáo Hội qua kinh nghiệm của chính bản thân họ:

- Vợ chồng chúng tôi xin được làm chứng với quý vị điều này: Trước đây gia đình chúng tôi rất là nghèo. Nhưng cứ mỗi lần đóng góp cho nhà thờ một thì Chúa lại thưởng cho chúng tôi mười. Và nhờ vậy ngày nay gia đình chúng tôi trở nên giàu có, ăn ngon mặc đẹp. Con cái đều học hành thành tài và đời sống rất hạnh phúc. Chúa là người cha rất giàu có và rộng lượng. Ngài không thua bất cứ một người cha nào trên thế gian này về lòng rộng rãi.

Đốc đang khấp khởi mừng thầm vì có thêm một động lực mới đóng góp cho chương trình quản lý nhà Chúa. Chợt có tiếng xì xầm phía sau:

- Gớm, chỉ có cái tài lẻo mép. Vợ chồng mở miệng ra là cãi nhau về tiền. Hạnh phúc, giàu có cái khỉ gì? Tiền dâng cho Chúa mà cứ như là tiền cho Chúa vay một ăn lãi mười vậy.

Đói (1)

Nạn Đói Năm Ất Dậu:

 

 


 
                          Cây Đa Hẹn Hò

"Tầu cười, Tây khoái, Nhật no,
 Việt Nam hết gạo chết co đầy đường"

Vào một ngày của tháng Ba năm Ất Dậu, 1945, trong căn nhà sàn đất, tường gỗ ba gian, chỉ có hai mẹ con Đốc Gàn ngồi dệt cửi và quay suốt. Cậu bé hỏi:

- U ơi! Sao dạo này mỗi ngày u con mình chỉ được ăn một bữa cơm, một bữa cháo thế này? Con đói run, không quay suốt được.

Người mẹ trẻ ngồi trên khung cửi tiếp tục dệt vải và thương hại nhìn về phía đứa con năm tuổi đang ngồi quay suốt dưới đất:

- Thì gạo lúa sắp hết rồi. Có tiền cũng không mua được. Mình phải ăn dè ăn xẻn, kẻo hết gạo lấy gì mà ăn. Con không thấy người ta chết đói đầy đường đó sao?

Nguyên nhân nào đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu?

Gạo là thức ăn chính của dân chúng Việt Nam nhưng đã biến mất trên thị trường, vì:

Thứ nhất, Nhật Bản áp lực Pháp ra lệnh cho nông dân Việt dùng ruộng đất trồng đay, bông vải - thay vì lúa - để phục vụ nhu cầu quốc phòng. Vì thế, trong dân gian, đã có câu ca dao rằng:

Ai ơi khổ nhất giồng đay,
Giồng đay, đay nghiến có hay nỗi gì?
Phá ngô bỏ ruộng mà đi,
Nhổ cây đay đắng có khi rũ tù.

Thứ nhì, chính phủ Pháp tích trữ một số gạo khổng lồ để nuôi quân, đề phòng nguồn tiếp tế từ Pháp chuyển đến không kịp. Đàng khác, Nhật cũng áp lực Pháp phải cung cấp một số gạo đủ nuôi sống Quân Đoàn 38 trú đóng ở Đông Dương trong sáu tháng.

Thứ ba, tất cả các phong trào kháng chiến "Đánh Pháp-Đuổi Nhật" đều lo tích trữ lương thực để nuôi quân. Việt Minh có kho dự trữ lớn nhất. Các lực lượng này đã phục kích các đoàn xe tiếp tế lương thực từ Nam ra Bắc.

Thứ tư, không lực của phe Đồng Minh đã oanh tạc phá hủy các hệ thống giao thông để ngăn chặn đường tiến quân của Nhật, khiến việc canh tác ruộng đất bị đình trệ và đường tiếp tế bị cắt đứt.

Tầu cười, Tây khoái, Nhật no,
 Việt Nam hết gạo chết co đầy đường.
                                      

Làng Nam Ninh của Đốc Gàn chia ra hai xóm. Xóm trên gồm toàn người theo đạo Công Giáo, sống quây quần chung quanh một ngôi nhà thờ mái ngói, được đặt tên là Họ Đạo Mông Triệu. Xóm dưới gồm những người theo các đạo khác. Trước cửa nhà thờ Mông Triệu có một đài Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chôn 14 bộ hài cốt của người trong làng đã bị vua Minh Mạng xử tử vì không chịu bỏ đạo Công Giáo. Hai ông tổ của Đốc Gàn nằm trong danh sách 14 vị tử đạo này.

Trước đài có một ngôi nhà xây gạch đỏ đẹp nhất họ. Đó là nhà ông bà Trùm Hương, nổi tiếng giầu có. Ông nhận chức "Trùm" vì có thời được dân làng bầu làm trưởng khóm. Tuy chức này không chính thức nằm trong hệ thống cai trị nhà nước và cũng không có ghi trong bản hương ước, nhưng vẫn là chức vị được mọi người kính nể. Nhất là cả hai ông bà lại rất đạo đức, các cha xứ đều thương mến. Ông bà có hai con trai và ba con gái. Cô Tin, con gái đầu lòng, 17 tuổi. Cô Cậy, 9 tuổi và cô Mến, gái út, 3 tuổi. Hai cậu con trai, Trần Thái Hòa, 15 tuổi và Trần Công Bình, 13 tuổi. Tất cả năm người con của ông bà Trùm Hương đều ngoan đạo như bố mẹ. Sáng tối đi nhà thờ đọc kinh, xem lễ và công đức rất rộng rãi mỗi khi nhà thờ mở cuộc quyên góp. Ông bà thuê thày giáo từ tỉnh Nam Định về dạy học riêng cho các con.

Nạn đói thực sự bắt đầu từ vụ mất mùa năm 1943 và trải dài từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra đến các tỉnh miền đồng bằng Bắc Việt. Hai tỉnh có số người chết đông nhất là Nam Định và Thái Bình. Theo tài liệu của một người Nhật là ông Yoshizawa Minami thì số người Việt Nam chết trong nạn đói là 2 triệu.  (1)
Còn giáo sư người Mỹ, ông David G. Marr lại ước tính con số này là 1 triệu người. (2)

Thấm nhuần tinh thần bác ái của đạo Công Giáo, ông Trùm Hương thường nhắc nhở mọi người trong nhà, từ bà Trùm đến các con và kẻ ăn người ở phải thực hành lời Chúa dạy trong Phúc Âm: "Ai cho người đói khát bát cơm, chén nước là cho chính Chúa". Ông còn nhấn mạnh thêm rằng:

- Trong ngày tận thế, Chúa chỉ phán xét công tội của con người căn cứ vào các hành vi bác ái họ đã làm khi còn sống mà thôi.

Từ khi có nạn đói xảy ra, vào mỗi buổi sáng, cô Tin có bổn phận ra mở cổng, mời những người xin ăn vào cả trong sân. Mọi người trong nhà lớn bé đều theo lệnh ông Trùm Hương ra phát cơm và giúp đỡ những người đau yếu. Có người ăn no quá, nằm lăn ra chết vì "bội thực". Lại có người nhìn thấy chum mắm tôm của ông Trùm để ngoài sân, háu đói thò tay múc rồi húp ừng ực như húp cháo. Người khác đến kho thóc, bốc những nắm thật lớn, rồi nhồi nhét vào miệng nhai nghiến ngấu và nuốt trửng. Một hồi sau, những người này cũng lăn ra chết. Lý do vì mắm tôm chỉ là thứ gia vị, chứa nhiều vi khuẩn độc; còn thóc là hạt gạo chưa lột lớp vỏ nên rất sắc và nhám, khi nuốt những thứ ấy vào trong dạ dày đang trống rỗng thì chẳng những không giúp ích gì cho cơ thể, mà chỉ làm tan nát dạ dày đang đói, nên tránh sao cho khỏi cái chết!

Tin tức về lòng hảo tâm của gia đình ông bà Trùm Hương cứu đói được truyền miệng rất nhanh đến các làng xung quanh. Số người xin ăn đổ về nhà ông càng ngày càng đông. Lúc đầu, ông bà còn ấn định giờ giấc phát cơm và xếp hàng cho có trật tự. Nhưng ngày qua ngày, kho lúa vơi dần nên sau đó ông bà phải phát cháo thay vì cơm.

Đến cuối năm 1944, nạn đói tại hai tỉnh Nam Định và Thái Bình trở nên hãi hùng, nhất là vào khoảng giữa tháng 10 đến tháng 11 lại xảy ra một trận lũ lụt. Nhà cửa, đồng ruộng, vườn tược bị nước tàn phá hết. Các phương tiện lưu thông tiếp tế bị tắc nghẽn. Khắp hang cùng ngõ hẻm, từ thành thị đến thôn quê, xác người da bọc xương trần truồng nằm chết la liệt. Người sống phải lấy quần áo người chết để che ấm cho mình. Không còn một thứ rễ, củ hay hoa lá, sâu bọ nào có thể nhai được mà người ta bỏ sót. Có nơi người ta đã bắt đầu ăn thịt người chết để chống đói. Mỗi buổi sáng, các phương tiện chuyên chở được trưng dụng để đem hàng đống xác chết đi chôn ở các hố đào vội vàng và phủ lấp qua loa một lớp đất mỏng. Các nhân chứng kể rằng trong đống xác chết vất xuống hố, có cả những người còn đang hấp hối. Họ thều thào khẩn nài: "Đừng chôn sống tôi! Hãy để tôi chết đã rồi hãy chôn!" Mùi hôi thối nồng nặc bay khắp nơi và tại một số vùng đã bắt đầu có bệnh dịch.

Ngay tại ngã ba quốc lộ 1 và con đường lớn dẫn vào Họ Đạo Mông Triệu có một cây đa rất lớn. Các cụ trong làng cho biết nó đã có từ trên 100 năm qua. Các nhánh cây rủ xuống đất theo đường hàng ngang, tạo nên một bức tường dài khoảng 5, 6 thước. Nhờ bóng mát cây đa mà ngã ba này trở thành điểm dừng chân của các chuyến xe đò và khách bộ hành. Những người bưng thúng bán mẹt tụ tập tại đây thành một cái chợ di động. Họ bán nước, trầu cau, thuốc lào, thuốc vấn... Phía sau cây đa trở thành một nhà vệ sinh công cộng lộ thiên cho khách phương xa.

Nguời ta gọi đây là Cây Đa Hẹn Hò, vì tương truyền rằng từ thời xa xưa, có một đôi trai gái dùng gốc cây đa này làm nơi hò hẹn. Nàng là con nhà giàu có trong làng, có tài thổi sáo. Chàng là con nhà nghèo, nhưng có tài làm thơ và ngâm thơ. Hai bên thương yêu nhau, nhưng cha mẹ nàng phản đối kịch liệt vì không "môn đăng hộ đối". Vì thế, mỗi đêm chàng và nàng thường hẹn hò nhau ra gốc cây đa này. Nàng thổi sáo, chàng ngâm thơ. Họ than thân trách phận cho cuộc tình dang dở bằng những bài thơ sầu muộn ngâm vang hòa lẫn tiếng sáo thật não nề. Vào một đêm mưa bão, hai bên đang tình tự với nhau thì một tiếng sét kinh hoàng xé đôi cây đa và chặt đứt hai thân thể của đôi tình nhân đang ôm nhau ân ái. Từ đó, mỗi đêm dân làng nhìn thấy hai bóng người mặc áo trắng xóa phủ từ đầu xuống chân bay lượn quanh cây đa và có tiếng sáo văng vẳng đâu đây. Ban ngày, người ta tụ tập đông đúc buôn bán, nhưng khi mặt trời lặn là mọi người vội vã rời khỏi nơi này, nhất là những đêm mưa. Kể từ khi có nạn đói, ngày nào cũng có người chết ở gốc cây đa này. Vì thế, mỗi đêm người ta nhìn thấy rất nhiều bóng ma áo trắng lảng vảng ở đây.

Vào một buổi chiều kia, có một cặp vợ chồng với một đứa con nhỏ miệng luôn ngậm vú mẹ dừng chân tại gốc Cây Đa Hẹn Hò này. Cậu bé Đốc Gàn tò mò đến gần. Bất chợt, người chồng đưa hai cánh tay gầy guộc ra vồ lấy cậu. Nhanh như chớp, ông ta thọc hai bàn tay vào túi cậu. Nhưng trong túi chẳng có gì cả. Theo phản ứng tự nhiên, cậu bé vùng mạnh và la:

- Buông tôi ra! Buông tôi ra!

Người đàn ông té bò ra đất. Ông thều thào:

- Em có gì ăn không? Anh chị đói quá!

Cậu bé Đốc Gàn vừa tức vừa sợ, nhưng khi nhìn thấy đứa bé đang ngậm vú mẹ, cậu mủi lòng, nghĩ đến thân phận mình. Đã từ lâu, cậu muốn có đứa em để chơi chung. Có lần cậu hỏi mẹ: "U ơi, bao giờ u có em bé?" Mẹ đỏ mặt ấp úng trả lời bâng quơ: "Thì làm sao mà biết được. Con chỉ hỏi vớ vẩn thôi!"

Cậu đưa tay trấn an người cha của đứa bé:

- Ông chờ tôi về lấy đồ ăn nhá!

Nói rồi, cậu ta chạy nhanh về nhà, vào bếp lấy hết hai củ khoai lang để trong rổ và chạy vội ra gốc cây đa. Tới nơi, cậu thấy người chồng nằm ngửa, không động đậy, còn người vợ nằm nghiêng, ôm đứa con nằm co quắp, miệng vẫn còn ngậm vú mẹ. Cậu bé đến gần nói lớn:

- Tôi mang khoai ra cho anh chị đây! Tỉnh dậy mà ăn!

Cậu chỉ gọi vậy thôi, chứ không dám đụng vào người họ. Ba thân xác vẫn nằm bất động. Một người lạ vừa chống gậy đi tới, nói với cậu:

- Họ chết rồi! Gọi làm gì nữa!

Nói chưa dứt lời, người này giựt luôn một củ khoai trong tay cậu. Chẳng may, củ khoai rớt xuống đất, bẹp dị, dính đầy cát. Người này sợ cậu lấy lại, liền nằm xoài ra đất, vồ lấy củ khoai bẩn thỉu ấy, nhét nhanh vào miệng. Đốc Gàn thấy vậy, ôn tồn:

- Đây, tôi cho ông củ khoai này luôn!

Rồi cậu bé Đốc Gàn buồn bã, lững thững trở về, đem theo hình ảnh đứa bé nằm chết bên cạnh mẹ cha.

Người Hà Nội kể rằng có một điều kỳ lạ là đang khi nạn đói xảy ra như vậy thì lại có nạn dịch chuột cống. Hằng hà sa số những con chuột cống to bằng con mèo từ lỗ cống chui lên, thản nhiên bò trên đường phố, không biết sợ người, lại còn trố mắt trừng trừng nhìn người đi qua. Các tổ chức thiện nguyện đang vất vả chôn cất người chết, lại phải lo bẫy chuột và chôn chuột để tránh dịch hạch.

Những xác chết trên đường thì còn được mang đi chôn, còn những xác ở giữa đồng hay bờ rào, bụi tre thì cứ nằm chết thối rữa ra. Vì thế, đến vụ mùa năm sau, tức năm 1946, đồng ruộng tươi tốt, được mùa lạ thường. Người ta giải thích là nhờ xác người trở thành phân bón nên mùa màng mới trù phú như vậy.

CHÚ THÍCH:

(1) Tài liệu "Chiến Tranh Châu Á Trong Tiềm Thức Của Chúng Ta". Bản dịch của Ngô Thế Vinh, trích dẫn trong bài "Từ Ất Dậu 1945, 60 năm đi tới cây cầu Cần Thơ 2005", đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000, tr. 170-171
 
(2)  "Vietnam 1945, The Quest for Power", University of California Press, Berkeley, 1995, tr. 97-98

Việt (3)

Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc đựng trăm trứng, rồi trứng nở ra trăm con. Dù con lên núi hay xuống biển thì nguyên lý Mẹ đã bắt nguồn từ đó. Nói cách khác, từ nguyên thủy, xã hội Việt Nam theo chế độ "mẫu hệ".

"Trong các cuộc tế lễ hội hè, đình đám, vai trò chủ tế thuộc phụ nữ. Về sau nam giới mới được tham dự đồng tế. Trống đồng không chỉ là một nhạc cụ mà còn biểu hiện uy lực của một thị tộc, mà người đánh trống khai mạc phát ra một hiệu lệnh bao giờ cũng là nữ giới. Tùy Thư chép: "Người đánh khai mạc chiếc trống mới đúc bao giờ cũng là người con gái".   (13)

Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực  (14), nhưng các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các bà mẹ đáng kính. Thí dụ:

Tam phủ là ba vị nữ thần: Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần mặt trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng.

Tứ phủ là danh từ để chỉ bốn bà thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp.

Ấy cũng tại bà Âu Cơ đẻ một lúc ra một trăm con trai, nên mới có nạn trai thừa gái thiếu và giá trị con trai rẻ như bèo:

Ba đồng một chục đàn ông,
Chị bỏ vào lồng, chị xách đi chơi.

Dưới chế độ mẫu hệ, người đàn bà cầm cân nẩy mực trong gia đình. Nhưng vào giữa đời các vua Hùng Vương, xã hội đã chuyển dần sang phụ hệ nhờ khám phá sức mạnh của trâu bò trong công việc cày bừa ruộng lúa. Chỉ có đàn ông mới đủ sức mạnh điều khiển cày bừa và ai chủ động trong nông nghiệp thì người đó có quyền lực. Dù vậy, hình ảnh Mẹ Âu Cơ vẫn còn rất mạnh mẽ trong gia đình. Nói cách khác, uy quyền của các bà mẹ trong gia đình lúc nào cũng rất mạnh và căn bệnh "sợ vợ" của đàn ông là chứng bệnh nan y di truyền cả ngàn năm mà vẫn dễ thương không ai muốn chữa trị.

Sau phụ hệ đến tục đa thê (một chồng nhiều vợ), đôi khi có tục đa phu (một vợ nhiều chồng), rồi đến luật một vợ một chồng nhưng cho tự do ly dị hoặc một vợ một chồng và cấm luôn ly dị. Đây là một chu kỳ mà con người tùy thời đại sẽ chọn lựa để làm ra luật cho mình, vì mỗi định chế đều có cái hay cái dở riêng của nó. Nhìn lại quá khứ, có những chuyện rất đáng chú ý, chẳng hạn vua Minh Mạng có đến 142 con, đời sống tình dục của ông được các cụ mô tả là "nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng" (trong một đêm ngủ với năm bà thì ba bà có thai). Còn Minh Mạng thực sự có bao nhiêu vợ thì không đếm được, chỉ chắc một điều là nhiều lắm.
Nhiều gia đình các bà vợ ở chung một nhà với chồng rất trật tự hạnh phúc, nhưng cũng có nhiều bà không chịu cái kiếp lấy chồng chung:

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không

Tuy vậy, dù ở trong chế độ nào, "tình nghĩa vợ chồng Việt Nam vẫn đầm ấm thân thương, xem người phối ngẫu là nơi trú ngụ che chở lẫn nhau, nên vợ chồng đều dùng chữ "nhà tôi" khi nói về người bạn đời. Tình yêu thương chồng vợ còn thể hiện qua cách xưng hô thân mật, xem người yêu như chính bản thân mình, nên thường gọi nhau là "Mình, Mình ơi!"   (15)

Bốn câu ca dao mà bất cứ đứa trẻ Việt Nam nào cũng được học thuộc lòng ngay từ lúc bập bẹ tập nói:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng THỜ MẸ, KÍNH CHA,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.

Nhưng mấy ai để ý đến bốn chữ rất quan trọng đã làm lệch cán cân địa vị cha và mẹ trong gia đình. Đó là hai cụm từ "thờ mẹ""kính cha".

Trong đạo Công Giáo, chữ thờ (worship) chỉ dùng đặc biệt cho Thiên Chúa. Còn các thánh khác, kể cả Đức Mẹ Maria, chỉ được kính (respect) mà thôi.

Khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, tức là bao gồm cả sự tôn kính. Nhưng khi chúng ta tôn kính một người nào thì không có nghĩa là tôn thờ người đó.

Vậy mà câu ca dao dạy chúng ta rằng: đối với mẹ, phải thờ; đối với cha, chỉ kính thôi! Thảo nào mà đa số các tác phẩm văn chương và ca nhạc toàn là ca tụng mẹ, còn đối với cha thì thưa thớt, đếm trên đầu ngón tay. Trong gia đình, khi cha mẹ cãi nhau, con cái toàn bênh mẹ. Khi ly dị, bao nhiêu tội lỗi cứ đầu cha mà đổ.
Đành rằng có thể vì vần điệu của thơ lục bát, nên phải dùng cụm từ "thờ mẹ, kính cha" mà không thể đổi thành "kính mẹ, thờ cha" được, nhưng Đốc Gàn đề nghị sửa lại: "Một lòng thờ kính mẹ cha" thì công bằng và trọn nghĩa hơn.

Giáo sư Triết học Trần Văn Đoàn đã chủ trương rằng nguyên lý mẫu tính Việt Nam gồm 4 yếu tính: sinh, dưỡng, dục và lạc.

Chữ MẸ trước hết tượng trưng cho sự sinh sản. Chính vì thế mà tất cả những sự vật, nhân vật, hay thần thánh quan trọng nhất đều có một công năng chung, đó là công năng sinh sản. Sự tích Lạc Long Quân - Âu Cơ đẻ trăm trứng, tạo nên cả giòng Lạc Việt, nói lên ý nghĩa của sinh sản. Họ chấp nhận tục lệ vợ bé. Vợ cả tìm vợ bé cho chồng, trong trường hợp vợ cả không con nối dõi tông đường, hay người chồng có quyền rẫy vợ trong trường hợp hiếm muộn (Luật Gia Long). Sinh cũng đồng nghĩa với trường sinh, nối dài cuộc sống, giữ gìn cuộc sống, và phát triển cuộc sống. Trong một tâm tình như vậy, người Việt thường đồng hóa người MẸ với gia đình, với tổ quốc, với đất đai, với nước, với sông, với vườn, với ao, với nhà, v.v... Những kiểu nói quê mẹ, đất mẹ, nước mẹ, nhà mẹ hay những sự vật lớn phát sinh, "đẻ" ra các sự vật khác cũng được gọi là "cái", hay "mẹ": sông cái, đường cái, v.v... đều chỉ ra nguyên lý sinh, hay mẫu tính này.

Người Việt không thể tách rời sinh khỏi dưỡng. Nhiều khi họ đồng nghĩa sinh với dưỡng, thí dụ như câu nói "Cha sinh mẹ dưỡng". Thế nên, dưỡng nói lên tính chất của bao bọc, che chở và dìu dắt.

Tại Việt Nam, giáo dục là một phần của công việc thành nhân, nên nó quan trọng không kém sinh và dưỡng. Nơi đây ta nhận ra lối nhìn Việt đối với mẹ. Người con có thành nhân, thành tài hay không đều do người mẹ cả:

Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

Sau hết, người mẹ được coi như cái nôi, cái nguồn của lạc thú. Nàng là thú vui của gia đình. Nàng không đi tìm lạc thú cho mình, nhưng cho chồng, cho con, và cho gia tộc, hoặc rộng hơn, cho tổ quốc.  (16)

Mẹ của Đốc Gàn là một bà mẹ quê - rất quê - Việt Nam, áo vải nâu sồng:

Mẹ Việt Nam, không son không phấn,
Mẹ Việt Nam, chân lấm tay bùn.
Mẹ Việt Nam, không mang nhung gấm
Mẹ Việt Nam, mang tấm nâu sồng.
      ("Trường Ca Mẹ Việt Nam"
            Nhạc sĩ Phạm Duy)

Bà Mẹ quê mùa ấy,

Đêm sớm không nề hà chi
Ngày tháng không ao ước gì
Nhỏ giọt mồ hôi, vì đời trẻ vui.
(Phạm Duy, bài hát "Bà Mẹ Quê")

Khi Đốc Gàn được 9 tháng thì bố đăng lính viễn chinh Pháp. Ông đưa vợ con lên tỉnh Nam Định chụp bức hình kỷ niệm chia tay, rồi vác ba lô lên đường, theo đuổi mộng đời trai. Buổi biệt ly hôm ấy diễn ra tại bến đò Quan trên sông Nam Định. Chàng thanh niên 21 tuổi bước lên tàu sang Pháp, bỏ lại người vợ trẻ quê mùa 19 tuổi và đứa con trai đầu lòng mới biết ngồi.

 
                      Con biết ngồi thì bổ bỏ đi xa...

Tiếng còi tàu như xé nát cõi lòng kẻ ở lẫn người đi. Lúc con tàu tách bến, người mẹ đứng ôm con trên bờ, nước mắt giàn dụa ngóng theo con tàu mỗi lúc một nhỏ dần. Người ra đi bỏ lại đằng sau cảnh vợ dại con thơ với một tương lai không bờ không bến. Mẹ con âm thầm cô đơn bồng bế nhau trở về làng Nam Ninh, sống nuôi nhau bằng nghề dệt vải. Thời đó, thanh niên trong làng chỉ sống bằng nghề nông, cày sâu cuốc bẫm, còn thiếu nữ thì hầu hết làm nghề dệt vải. Thanh niên nào được tuyển đi lính Pháp là một vinh dự. Cả làng của Đốc chỉ có hai người được chọn: Ông Quản Tuyên và bố của Đốc Gàn.

Chàng ơi, phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em

hoặc: 

Anh ơi phải lính thì đi
Con còn măng dại đã thì có em.

Làng Nam Ninh, tỉnh Nam Định của Đốc Gàn lúc đó chưa có trường học. Hầu hết trẻ em trong làng đều mù chữ. Cậu bé Đốc Gàn mỗi buổi sáng cắp sách sang nhà bên cạnh học chữ với người chú họ, tên Vụ, con trai lớn của ông Đội Tuyên. Chú chỉ dạy Đốc Gàn và cô em gái thôi. Tuy cô lớn hơn cháu mấy tuổi, nhưng lại học dở hơn cháu. Cô còn cậy lớn, có anh làm thày giáo nên được thể bắt nạt cháu. Thằng cháu cũng đâu phải tay vừa. Nó có cả trăm cách để trả thù cô. Mỗi lần "thua" cháu, cô khóc mếu máo sang mách mẹ Đốc Gàn, nhưng cô lầm to! Mẹ chỉ cười khì, vì cảnh một mẹ một con, mẹ thương con như cục vàng, làm sao mà mẹ đánh con cho cô hả dạ được. Và cứ như vậy, cô cháu cãi nhau hàng ngày. Đến khi hai người đầu bạc răng long rồi mà mỗi lần gặp nhau, bà cô vẫn còn ấm ức khiếu nại mãi về câu chuyện này. Đi học tới trưa về nhà, cậu bé Đốc Gàn có bổn phận phải thổi cơm, nấu nước, rửa bát và quay suốt cho mẹ dệt vải.

Người ta dệt vải trên khung cửi. Các sợi chỉ theo chiều dọc của tấm vải được mắc sẵn trên khung cửi. Còn các sợi chỉ ngang của tấm vải được quay vào các con suốt nhỏ, rồi bỏ vào trong con thoi. Công việc của người dệt vải là phải ném con thoi từ phải qua trái, rồi từ trái qua phải theo nhịp hai chân đạp đều đặn để các sợi ngang được đan vào các sợi chỉ dọc.

 
               Dệt vải 
 
                              Dệt vải 
 
                                   
   Quay suốt   (Hình: Nguyễn Tấn Lộc sưu tầm)

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã diễn tả động tác này trong bài thơ "Dệt cửi" rất dí dỏm:

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.

Mẹ thầy Mạnh Tử xưa kia cũng làm nghề dệt vải. Chuyện kể rằng: Một hôm Mạnh Tử đang đi học bỏ về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, nói rằng:

- Con đang đi học mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy.

Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần, về sau thành một bậc đại hiền. Thế là chẳng nhờ chiếc khung cửi làm đề tài giáo dục quý báu cho bà mẹ dạy con hay sao?  (17)

Và cũng từ cái khung cửi này, người đời còn truyền tụng một câu chuyện giáo dục rất hay nói về hậu quả của những lời đồn đại lúc đầu chỉ là một tin thất thiệt, nhưng nghe mãi rồi người ta cũng tưởng là sự thực. Đó là xảo thuật trong việc tuyên truyền:

Thầy Tăng Sâm là một hiền nhân, học trò của đức Khổng Tử.  Một hôm, thầy vào rừng kiếm củi, bà mẹ ở nhà dệt cửi.  Có người đến nhà bảo:

- Tăng Sâm giết người rồi.

Bà mẹ điềm nhiên dệt cửi vì bà rất rõ con mình:

- Làm gì có chuyện đó được.

Lát sau, lại có người đến báo tin dữ.  Bà mẹ vẫn ngồi dệt cửi, lòng không lay động.  Ðến lúc nhận được tin lần thứ ba, bà quăng thoi, hớt hải đi tìm con… và khám phá ra kẻ sát nhân chỉ trùng tên với con mình.   (18)

Chú thích:

(13)    "Cội Nguồn Việt Tộc", sđd., tr. 76

(14)    Phồn: nhiều, thực: nảy nở. Xin xem "Tín Ngưỡng Phồn Thực", chương 4 của sách này.

(15)    "Cội Nguồn Việt Tộc", sđd., tr. 79

(16)   Trần Văn Đoàn, Bài khảo luận "Mẫu Tính Trong Văn Hóa Việt",  Web. simonhoadalat.com

(17)    Liệt Nữ truyện

(18)  Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhàn, "Cổ Học Tinh
     Hoa", Quyển 1, tr. 21

Việt (2)

Thôi thì chúng ta cứ nhận huyền sử Tiên Rồng cho vui. Vậy qua huyền thoại này, cổ nhân muốn nhắn gửi con cháu những triết lý nào?

Trước hết, Tiên được quan niệm là siêu nhân sống trên cao, xinh đẹp, hiền từ, thanh thoát và bất tử. Còn Rồng thì được coi là chủ tể của biển cả, làm mưa làm gió, thiên biến vạn hóa. Rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: tổng hợp của cá sấu và rắn, sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh, có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Rất nhiều địa danh Việt Nam mang tên liên quan đến Rồng, như Thăng Long, Hàm Rồng... Qua biểu tượng Tiên Rồng, cổ nhân muốn dạy chúng ta rằng người Việt Nam là một kết hợp vừa biến hóa vừa trường cửu, vừa vật chất vừa siêu phàm, vừa linh ẩn vừa thượng hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền vừa hùng dũng cương quyết, vừa chan chứa yêu thương, vừa uy lực vô song, vừa có tình vừa hợp lý. Do đó, mỗi người dân Việt Nam luôn luôn phải biết hãnh diện về nguồn cội của mình:

 "Trứng Rồng lại nở ra Rồng
Chim Tiên lại đẻ ra dòng chim Tiên"
       (Linh mục Trần Cao Tường)

Thứ hai, Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi là Âm,  Cha Lạc Long dẫn 50 con xuống biển là Dương. Đây là nguồn cội của triết thuyết Âm Dương, thể hiện nghĩa tương sinh, tương khắc trong Kinh Dịch. Chính nguyên lý Âm Dương đang điều hành vũ trụ và cuộc sống mọi loài trên trái đất này. Dân tộc Việt Nam sinh sống bằng nghề nông nên quan tâm số một của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nam và nữ; còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì do đất và trời - "đất sinh, trời dưỡng". Chính vì thế mà hai cặp "mẹ-cha", "đất-trời" là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý âm dương.  (5)

Các nhà viết huyền sử quên mất những đứa con không biết là âm hay là dương hoặc những đứa con thích người cùng phái tính. Dương đụng với dương, âm đụng với âm, tất cả chẳng sinh sản ra được cái giống gì cả, tuy nhiên, đây vẫn là đề tài sẽ làm nhức nhối xã hội loài người mà huyền sử Tiên Rồng không đề cập tới.

Thứ ba, sự kiện Mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng mang ý nghĩa gì? Loài người không đẻ ra trứng, chỉ có loài chim mới đẻ trứng. Tổ Tiên Việt Nam đã theo dấu chim Hồng để mở nước và dựng nước, nên chọn Chim là vật tổ, tự thân hai chữ Hồng Bàng. Hồng là ngỗng trời, là chim thiên nga, đại diện cho sự trong trắng tinh tuyền, mang ý nghĩa nuôi chí lớn tung hoành khắp tứ phương. Bàng là rồng, chỉ những chân lý thâm sâu như đáy bể, phát xuất từ cõi tiềm thức u linh.  (6)

 

   
  Trống Đồng Việt Nam   Mặt Trồng Đồng Ngọc Lũ 
   
   
Những nét vẽ trên mặt trống Đồng  (phóng lớn)   

Hình ảnh chim được khắc họa trên mặt trống đồng với mỏ dài của loài chim nước. Theo linh mục triết gia Kim Định thì chim nước của Việt tộc thể hiện nguyên lý Âm Dương Giao Chỉ, vì nó vừa bay lên trời, vừa xuống dưới nước. Chi tộc Việt tôn thờ chim Hồng, biểu trưng của văn minh nông nghiệp, cùng với chi Lạc trong cộng đồng Bách Việt nên chúng ta vẫn tự hào là giòng giống Lạc Hồng (Lạc Âu).  (7)

"Trống đồng là bảo vật của các Lạc vương, dùng vào những dịp quan trọng trong đời sống của triều đình, như chiến tranh dựng nước giữ nước, thắng quân xâm lược, cầu cho mưa thuận gió hòa, trong dân gian, nhân dịp các lễ lớn trong cuộc đời, sanh con, đám cưới, đám tang, mỗi năm khi mùa xuân trở lại."  (8)

Nương nhau cặp trống Rồng Tiên
Khi gầm thét sấm, khi rầm rỉ mưa
Gieo dùi, trời ngẩn, đất ngơ
Quân thù rớt kiếm, rơi cờ bao phen.

(Bài thơ "Trống Đồng" của Hải Phương)

Triết thuyết Trống Đồng của dòng giống Lạc Hồng nghe thú vị biết bao, nhưng cái khốn khổ được bắt đầu khi Lạc Long Quân quyết định chia đôi đàn con, nửa theo cha về biển, nửa theo mẹ lên núi. Cảnh chia ly và chia rẽ bắt nguồn từ đó. Trước khi phân nát gia đình, Lạc Long Quân cũng đã nhìn thấy những khó khăn trước mắt cho vợ và 50 đứa con lên núi, nên mới dặn rằng, khi nào gặp khó khăn hoạn nạn thì cứ việc cầu cứu, phe cha sẽ đến giúp đỡ. Nhưng giúp xong thì cha mẹ vẫn không xum họp, ai nấy trở lại phần đất của mình. Cái tang thương là ở chỗ đó. Bởi vậy, con cháu Tiên Rồng bình thường là chia rẽ, đoàn kết chỉ là ngoại lệ. Khi gặp hoạn nạn, bị đô hộ, bị đàn áp thì con dân Việt Nam hết mực đoàn kết để chống trả kẻ thù, nhưng xong chuyện rồi thì lại trở về tình trạng phân rẽ.

Đọc lại lịch sử Việt Nam hoặc nhìn vào các cộng đoàn Việt Nam, nét nổi bật nhất vẫn là cảnh huynh đệ huých tường, chia rẽ đến độ tan nát, vỡ ra trăm mảnh. Hội đoàn mọc lên như nấm. Lúc đầu, hội nào cũng đoàn kết vui vẻ, gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đến sau, hội nào cũng chia đôi, cãi vã, không thèm nhìn mặt nhau, đến nỗi coi nhau như kẻ thù truyền kiếp.

Chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh không phải chỉ để giải thích một cách tiêu cực cảnh lụt lội hàng năm mà dân chúng Việt Nam phải chịu, nhưng là một lối diễn tả trung thực và đau lòng nhất về cảnh anh em trong nhà thường xuyên nổi giận sát phạt nhau, khiến cho cả đất nước phải tan hoang khổ cực.

Hỏi rằng kể từ ngày Hùng Vương lập nước đến nay, có được bao nhiêu thế hệ sống và chết an bình, hay chỉ là những cái chết nhục nhằn thao thức về đất nước bị ngoại xâm đô hộ, bị thực dân cai trị, hoặc vì anh em trong nhà chém giết nhau do toan tính và thủ đoạn của ngoại bang?

Việc thống nhất Nam Bắc bằng vũ lực với cái chết của hàng triệu đồng bào ruột thịt vào năm 1975 đã là một biến cố thật đáng buồn. Trong khi đó nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đánh đuổi ngoại bang và thống nhất đất nước trong khung cảnh hòa bình, đượm tình anh em một nhà. Chưa hết. Sau ngày thống nhất Việt Nam, các nhà tù man rợ mang danh là Trại Cải Tạo được dựng lên để trả thù các anh em thất trận. Thực tế, không ai bị cải tạo và cũng không ai cải tạo được ai. Có chăng chỉ là tạo lòng uất hận, căm thù ngút ngàn giữa anh em cùng một bào thai. Biết bao nhiêu cựu tù cải tạo khi nhắm mắt lìa đời vẫn đem theo cả một hành trang hận thù chưa trả để mang về kiếp sau. Hận thù ai? - Việt Cộng, người anh em cùng mang giòng máu Lạc Hồng.

Trong một đại nhạc hội có cả ngàn ngàn người Việt Nam tham dự, một danh hề nói rằng:

Không uống bia, không là người Mễ,
Không đi trễ, không là Việt Nam.

Các thính giả cười hả hê thoải mái. Danh hề tiếp luôn:

Làm khỏe như Mễ
Chia rẽ như Việt Nam.

Mọi người lại cười, cười to hơn lần trước. Đốc Gàn quay sang hỏi người bên cạnh:

- Tại sao cười?

- Vì nó đúng quá sức!

Đốc cảm thấy hụt hẫng. Chia rẽ là một căn bệnh trầm kha của người Việt thì tại sao họ không đặt thành vấn đề để sửa chữa mà lại chấp nhận thực tế như một trò cười?

Bao giờ mới chấm đứt được những vần thơ, những câu vè vô ý thức, nhằm chia rẽ, nhục mạ đồng bào ruột thịt như những câu thơ sau đây.

Chung quy cũng tại Vua Hùng,
Sinh ra đứa tỉnh, đứa khùng, đứa điên.
Đứa tỉnh thì đã vượt biên,
Những đứa kẹt lại không điên, cũng khùng.

Chắc gì những người bỏ nước ra đi đã là tỉnh? Chắc gì những người ở lại đã là điên, là khùng? Mong rằng những ý nghĩ phá hoại như trên cần được chấm dứt để tái lập một trang sử Con Rồng Cháu Tiên Đoàn Kết mới cho các thế hệ mai sau.

Thứ tư, những đứa con được sinh ra trong cùng một bọc trứng, một bào thai ấy được gọi nhau bằng một từ ngữ rất thân thương, rất đúng với huyền sử, đó là "đồng bào":

Bọc điều trăm họ thai chung,
Đồng bào hai tiếng vô cùng Việt Nam.

 Chữ "đồng bào" gói ghém tình thương yêu của anh em cùng chung một máu huyết. Chữ "đồng bào" còn biểu trưng ý niệm bình đẳng, không phân biệt phái tính hay giàu nghèo. Ý niệm "đồng bào" còn cổ võ một cộng đồng Bách Việt luôn đặt quyền lợi tập thể trên quyền lợi cá nhân, việc nước trước việc nhà.

Trong bài khảo luận "Miếng Trầu Quê Mẹ", nhà văn kiêm thi sĩ Trần Quốc Bảo đã phân tích tỉ mỉ về tâm tình của con người Việt Nam như sau:

"Xã hội Việt Nam được xây dựng trên một chữ TÌNH.

"Một xã hội "chín bỏ làm mười", "chục mười hai", "chục mười bốn"... là một xã hội đặc biệt và lạ lùng nhất trong các tổ chức xã hội của loài người. Người trong một nước coi nhau như anh em cùng một bào thai, nên chi lấy tình lấy nghĩa làm trọng - "vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy". - Bà con làng xóm sống với nhau "trọng nghĩa khinh tài" tạo nên cái tình "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng". Cái luân lý vị tha bác ái của người Việt sánh ngang được như một tôn giáo "ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà nhì nữa tôi thì thứ ba". Lòng người tràn đầy yêu thương, hiền hòa, không màng sự tranh cướp, thù hận, "tranh quyền cướp nước chi đây, coi nhau như bát nước đầy là hơn".

"Trong cái môi trường tuyệt vời tình nghĩa như vậy ta không ngạc nhiên thấy "phép vua thua lệ làng", vì lệ làng tạo nên bởi tình nghĩa. Tình nghĩa quý hơn cả vàng bạc "Tham vàng bỏ ngãi anh ơi, Vàng thì ăn hết ngãi tôi vẫn còn". Ta cũng không ngạc nhiên khi người Việt coi "nhân bản" là trọng, quý nhau ở tấm lòng, lúc nào cũng muốn làm tốt làm đẹp cho tha nhân dù một cử chỉ, một lời nói: "Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau".

Lý thuyết thì đẹp đẽ như vậy, nhưng thực tế, cảnh huynh đệ tương tàn thật trầm trọng, bi đát. Cũng chỉ vì bà Âu Cơ sinh một trăm đứa con trai cùng một lúc, chẳng biết ai là anh, ai là em, nên tất cả đều xưng mình là anh cả, anh hai. Một trăm con là một trăm ông Vua, lập ra một trăm quốc gia và được gọi là "Bách Việt". Tâm lý chung của người dân Việt Nam là muốn hơn người và không muốn ai hơn mình.

Chuyện vui của đồng bào Việt tỵ nạn kể rằng có hai anh chàng Mỹ và Việt ngồi câu cua tại một khúc cầu trên cùng một giòng sông. Hai người cùng trúng mối. Nhắc cần lên là cua bám tứ bề. Hai chàng đều có những điểm giống nhau: cùng tự tin, tương đắc, cùng câu được một loại cua mập và số lượng như nhau. Nhưng chỉ có một điều khác biệt là chiếc giỏ cua của người Mỹ phải có nắp kín buộc chặt, vì đàn cua đua nhau bò lên. Còn giỏ cua của người Việt thì mở nắp toang hoang mà chẳng thấy con cua nào nhúc nhích bò lên cả.

Chàng câu cua người Mỹ thắc mắc hỏi anh bạn Việt:

- Sao kỳ vậy, cha nội. Cùng một loại cua bắt lên mà khi tôi bỏ vào giỏ của tôi thì cua tôi bò lổm ngổm tìm đường đi lên. Còn cua trong giỏ của bạn thì nằm êm rơ như vậy?

Chàng câu cua người Việt cười gật gượng:

- Dễ hiểu thôi! Cua Việt dù sống trong cảnh "cá chậu chim lồng" cũng vẫn còn óc ganh tị, không muốn con nào hơn mình cả, nên con dưới kẹp chặt con trên, chẳng con nào ngóc đầu lên được. Đồng bào Việt chúng tôi có thói bôi lọ, phá nhau, chụp nón cối cho bất cứ ai hơn mình, nên chẳng ai ngóc đầu lên được.

***
                                       
Trước đây, các tài liệu khảo cổ đã đặt giả thuyết người Việt Nam xuất xứ từ một nhóm người ở phương Bắc xuống hoặc từ Thái Bình Dương đi vào, nhưng với phát minh vĩ đại của di truyền học DNA (Deoxyribo Nucleic Acid) bắt đầu thành hình vào năm 1665, việc nghiên cứu cội nguồn con người đã bước sang một ngã rẽ rất quan trọng.

Tại Trung Hoa, nhà bác học J.Y. Chu cùng với 13 đồng nghiệp của ông đã công bố kết quả cuộc nghiên cứu về nguồn gốc người Trung Hoa căn cứ vào các kỹ thuật về Di truyền học, mang tên "Genetic Relationship of Pupulation in China" đã khẳng định rằng nguồn gốc của người Trung Hoa là do giống người ở Đông Nam  Á di lên. (9)  Như vậy thì giả thuyết người Việt Nam xuất xứ từ Trung Hoa là đáng bị bác bỏ rồi.

Trong bài biên khảo "Nhờ tiến bộ của Di Truyền học (DNA), phải chăng đã đến lúc chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam?", giáo sư Cung Đình Thanh viết: 

"Căn cứ vào kết quả của Hội nghị Berkeley 1978 nghiên cứu về nguồn gốc văn minh Trung Hoa, căn cứ vào những phát minh khoa học mới nhất về khảo cổ học, nhân chủng học, di truyền học (DNA), ngôn ngữ học, cả những sưu tầm về phong tục tập quán ở phần đất nay thuộc hai quốc gia khác nhau, người viết chứng minh được rằng: khảo cổ học, nhân chủng  học, ngôn ngữ học, huyết thống di truyền học, cả về phong tục tập quán, đều chứng tỏ Đại Tộc Bách Việt đã có trước, cũng đã cư ngụ tại phần đất nay là đất nước Trung Hoa, ít nhất từ phía nam sông Hoàng, trước Hán tộc.  Và văn minh Bách Việt, căn bản là văn minh định cư trồng lúa nước, cũng đã có trước văn minh Hoa Hán, thuộc văn minh săn bắn và trồng lúa tắc, lúa khô".

Giáo sư Cung Đình Thanh kết luận: "Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) trở thành cái nôi người da vàng cổ nhất của nhân loại tại phần đất không những ở Đông Nam Á mà ở cả toàn cõi Châu Á vậy".  (10)

Ông Trần Trung Lương, tức nhà văn Trà Lũ đã dùng giác quan thứ sáu để hô hoán lên rằng thổ dân Da Đỏ ở Canada đúng là con cháu bà Âu Cơ. Giả thuyết của ông đặt căn bản trên nhiều bằng chứng nghe rất tới. Ông viết: "Huyền sử của Nga của Tàu đều ghi chuyện tiến về phương Nam. Chỉ có huyền sử Việt Nam ghi việc con cái mẹ Âu Cơ tiến lên núi, tức phương Bắc. Tiến lên tận cùng thì gặp Bắc Cực. Ngang đó là eo biển Bering. Một số con của Mẹ Âu Cơ đã theo eo biển Bering. lúc đó bờ biển còn cạn, tiến sang địa đầu Mỹ Châu, rồi đi xuống và đã gặp miền đất bây giờ là Canada. Đàn con của Mẹ Âu Cơ lúc đó mang tên Inuit, tức tổ phụ người Da Đỏ bây giờ."  (11)

Theo ông Trà Lũ, người Da Đỏ có rất nhiều điểm giống người Việt Nam, chẳng hạn: gọi là Da Đỏ, nhưng thực sự họ là người da vàng. Cặp mắt họ giống y hệt mắt Việt Nam. Thổ ngữ "Kanata" chuyển âm thành "Canada" nghĩa là "cái nhà ta". Chính quyền Canada khi lập một khu mới đặt tên bằng thổ ngữ là "Nunavut", âm thanh đúng là "nu na nu nống", bài hát của trẻ con Việt Nam. Thành phố "Toronto", nơi có 80 ngàn dân Việt di cư đã được dịch ra là "Tổ Rồng Tiên". Nghe cũng êm tai lắm đấy chứ! Rồi mấy bài hát của thổ dân nghe "ý a ỳ a" độc giọng quan họ Bắc Ninh của ta. Đến cái mũ lông chim của thổ dân Canada cũng giống hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ của Việt Nam.

Nhà văn Trà Lũ kể rằng theo sử Canada thì người Da Đỏ đã có mặt ở nơi này cách đây ít nhất 24 ngàn năm. Vậy tổ tiên Việt Nam có từ bao giờ? May mắn ông kiếm được bài thuyết trình của nhà khảo cổ người Đức, học giả Wilhelm Gerhard Solheim II, đã trình bày tại Hội Nghị Khoa Học Thái Bình Dương tổ chức tại Tokyo mùa hè năm 1966. Ông Solheim kết luận rằng: "Cách đây chừng 30 ngàn năm đã có một bộ lạc tiền sử sinh sống tại địa bàn Hoà Bình, Bắc Việt Nam. Đây là nền văn minh đầu tiên của nhân loại."   (12)

Nếu đúng như vậy thì cũng mừng cho đồng bào Việt tỵ nạn ở Canada từ nay đỡ được mặc cảm ăn nhờ ở đậu, vì ít ra họ cũng chỉ bỏ cái nhà Tổ ở Việt Nam để về "Cái Nhà Ta" Canada mà thôi!

Chú thích:

   (5)  Trích Tự Điển Wikipedia
   (6)  Bài khảo luận "Tiên Rồng" của linh  mục triết gia Kim Định
   (7)  "Cội Nguồn Việt Tộc", sđd., tr. 73
   (8)  Bài khảo luận "Trống Đồng Việt Nam" của Trần Văn Khê
   (9)  Bản bá cáo này đăng trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences - USA - Vol.95, issue 20, 1763-1768, 29 tháng 7, 1998).
   (10)  Bài khảo cứu trích từ http://tutuong.hypermart.net/html
              %20files/nguon%20goc%20dan%20toc%20vietnam.htm   
   (11) Trà Lũ, "Đất Anh Em", Hoa Lư 2003, tr. 46
   (12) "Đất Anh Em", sđd. tr. 118

Việt (1)

"Mẹ Việt Nam không son không phấn,
  Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn."

      (Nhạc sĩ Phạm Duy)


 
 Con Rồng cháu Tiên (Hình trích từ sách "Việt Sử Bằng Tranh" 
             của Trần Việt Nam, Cửu Long Giang và Vi Vi,
                       Nhà Xuất Bản Việt Long 2000

Đốc Gàn được sinh ra mang dòng máu Việt Nam. Chỉ hai tuần lễ sau khi sinh, cha mẹ đem con đến nhà thờ chịu phép Rửa Tội để trở thành người Công Giáo. Vì vậy, ngay từ trứng nước, Đốc Gàn đã là người Công Giáo Việt Nam. Về đạo giáo, Đốc hấp thụ đức tin và nền giáo dục Công Giáo. Về tinh thần và thể xác, Đốc mang thân phận người Việt Nam, thuộc dòng giống Lạc Hồng.

Theo truyền thuyết thì vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, nhân đi xuống phương Nam, tới núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam, ngày nay thuộc nước Tàu) thì gặp một nàng Tiên, lấy nhau đẻ ra Lộc Tục. Về sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi  làm vua phương Bắc và Lộc Tục làm vua phương Nam. Đế Nghi sau truyền ngôi cho con là Đế Lai.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Lộc Tục lên ngôi vua vào năm Nhâm Tuất 2879 trước Công Nguyên, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Vua Kinh Dương Vương kết hôn với Long Nữ sinh ra Sùng Lãm. Khi Sùng Lãm lên ngôi, lấy hiệu Lạc Long Quân và kết hôn với Âu Cơ là con gái của Đế Lai (có sách nói là vợ Đế Lai) rồi sinh một bọc trăm trứng, một trăm trứng nở ra một trăm người con trai là tổ tiên người Bách Việt. Ít lâu sau, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: "Ta thuộc dòng dõi Rồng, nàng thuộc dòng dõi Tiên, ở mãi với nhau không được, vậy nàng mang 50 con lên núi, còn ta đem 50 con xuống biển Nam Hải".  (1)

Nhiều sách sử đã viết nguồn gốc Tiên Rồng của dân Việt như vậy. Nhưng nếu đọc kỹ lại thì câu chuyện huyền sử này có thể bị tam sao thất bản mà mất đi nguồn gốc Tiên rồi. Thực vậy, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: "Ta thuộc dòng dõi Rồng, nàng thuộc dòng dõi Tiên". Nhưng Âu Cơ đâu có phải dòng dõi Tiên! Âu Cơ là con của Đế Lai. Đế Lai là con của Đế Nghi và Đế Nghi là con truởng của Đế Minh. Sử sách không nói mẹ của Đế Nghi là ai, nhưng chắc một điều không phải là nàng Tiên vì Đế Minh ăn ở với nàng Tiên chỉ sinh hạ được Lộc Tục mà thôi. Còn Đế Nghi chỉ là anh cùng cha khác mẹ của Lộc Tục. Lộc Tục lấy Long Nữ, dòng giống Rồng, đẻ ra Lạc Long Quân. Như vậy Lạc Long Quân mang ba dòng máu: NGƯỜI của ông nội là Đế Minh, TIÊN của bà nội là nàng Tiên và RỒNG của mẹ là Long Nữ.

Còn Âu Cơ không thuộc dòng dõi Tiên, vì Đế Minh, Đế Nghi và Đế Lai đều mang dòng máu NGƯỜI. Rất có thể vì Lạc Long Quân không muốn sống chung với Âu Cơ nữa nên mới gán cho nàng thuộc dòng giống Tiên để lấy cớ Rồng không hợp Tiên mà quyết định ly dị và chia con mà thôi.

Thành ra, con cháu Việt Nam chỉ thừa hưởng ba dòng máu NGƯỜI, TIÊNRỒNG của cha, còn mẹ là NGƯỜI chứ không phải Tiên, nên có nhiều đứa giỏi thì cũng giỏi dữ, mà phá thì cũng phá khiếp. Điển hình là mới chỉ có hai triệu cháu con Rồng Tiên tản mát khắp thế giới từ năm 1975, mà 30 năm sau, các địa vị danh giá trong mọi lãnh vực chính trị, văn hoá, xã hội của các quốc gia trên thế giới đều có tên người Việt Nam. Thật rất đáng hãnh diện! Nhưng các danh sách băng đảng tội phạm, cướp của, hiếp dâm, bạch phiến cũng đã có tên con cháu Lạc Hồng. Bởi thế, nhiều người xấu hổ cúi mặt, không còn dám tự hào nhận mình là Việt Nam nữa, vì nơi nào có Việt Nam thì nơi đó mất trật tự, chẳng hạn người Việt Nam tụ họp với nhau thì không biết xếp hàng, nhưng khi đứng chung với người ngoại quốc thì lại hàng lối rất trật tự. Thuê một người Việt Nam giữ trật tự cho người Việt Nam thì vẫn vô trật tự, nhưng có một người ngoại quốc giữ trật tự cho người Việt Nam thì lại rất trật tự. Thế nghĩa là sao? Là vì trong đám người Việt, có người là Tiên, có kẻ là Rồng mà cũng có kẻ là Người, mang tính nết dở hơi.

Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Địa giới gồm Bắc Việt và các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vua quan theo lệ cha truyền con nối. Các vua lấy hiệu Hùng, đóng đô ở Phong Châu, nay thuộc Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên. Họ Hùng truyền đời được 18 vị vua, đến năm Quí Mão (158 trước Tây Lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.

Hiện nay tại tỉnh Phú Thọ có đền thờ các vua Hùng. Ngày giỗ hàng năm là mồng 10 tháng 3 Âm lịch.  (2)

Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền trong dân gian. Đó là Phù Đổng Thiên Vương và Sơn Tinh - Thủy Tinh.

Phù Đổng Thiên Vương: Đời Hùng Vương thứ sáu, có đám giặc Ân hùng mạnh lắm không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giáng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vưon vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.

Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương. Hiện nay có đền thờ ở làng Gióng, tức là làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng 8 tháng Tư cũng có hội rất vui, tục gọi là hội Đức Thánh Gióng.

Mục đích câu chuyện này là để cho các quốc gia khác biết rằng nước Văn Lang được thần thánh che chở, bảo vệ, nên không dễ dàng để xâm lăng hoặc đô hộ.

Truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh: Vua Hùng Vương thứ 18 có người con gái tên là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Sơn Tinh và Thủy Tinh đều muốn hỏi làm vợ. Hùng Vương hẹn rằng ngày hôm sau ai đem đồ lễ đến trước thì gả cho người ấy. Ngày hôm sau, Sơn Tinh đến trước lấy được Mỵ Nương đem về núi Tản Viên (tức là núi Ba Vì ở tỉnh Sơn Tây).

Thủy Tinh đến sau, thấy Sơn Tinh lấy mất Mỵ Nương, tức giận vô cùng, mới làm ra mưa to gió lớn, rồi dâng nước lên đánh Sơn Tinh. Sơn Tinh ở trên núi không việc gì: hễ nước lên cao bao nhiêu thì Sơn Tinh làm núi cao lên bây nhiêu. Sơn Tinh lại dùng sấm sét đánh xuống. Thủy Tinh phải rút nước chạy về. Từ đó, Sơn Tinh và Thủy Tinh thù nhau, mỗi năm đánh nhau một lần, dân gian thật là cực khổ.

Sở dĩ có chuyện này vì ở Bắc Việt năm nào đến tháng 6, tháng 7 cũng có nước lũ ở trên mạn ngược chảy xuống tràn vào trong đồng áng, ngập tràn ruộng đất. Người ta không hiểu nguyên do nên mới tưởng tượng mà đặt ra câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh đánh nhau vậy.   (3)

Mãi đến thời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên mới đưa truyện Rồng Tiên vào trong "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư". Trong số các vua chúa cũng như các sử gia, có những người tin tưởng và tự hào về câu chuyện huyền sử trên, nhưng cũng có những người cho là chuyện thần thoại hoang đường, trong đó có Vua Tự Đức và sử gia Trần Trọng Kim.

Trên thế giới đã có bao nhiêu chuyện huyền thoại hoặc dã sử được dựng nên như Nữ Thần Sắc Dục Vénus, Thần Thương Mại Mercure, Thần Loạn Luân Ouranos, Thần tửu sắc Baccus, Thần Bắp Thịt Hercule. Mỗi khi con người gặp khốn khó, không thể giải quyết được bằng khả năng trí óc thông thường, người ta liền cầu cứu ngay tới thần linh hay ông Trời để giải thích.

Cuối thế kỷ 20, con người tạo ra những phim ảnh giả tưởng với những nhân vật siêu phàm như Super-man, Wonder Woman, Spiderman để đi khắp bốn phương cứu nhân độ thế. Những phim giả tưởng ăn khách nhất như Star Wars, Star Trek, King Kong với số thu phá kỷ lục hàng tỉ Mỹ Kim. Riêng cuốn Harry Potter đã xuất bản 600 triệu cuốn và được dịch ra gần 60 ngôn ngữ, chỉ thua có cuốn Kinh Thánh thôi.

Bởi vậy, so với nhiều chuyện huyền thoại của thế giới, chuyện Tiên Rồng của Việt Nam không phải là huyền hoặc, nhưng nó đã mang một ý nghĩa nhân bản truyền thống cao đẹp.

Ông Phạm Trần Anh nhận định:

"Bên cạnh các nguồn thư tịch cổ, chúng ta phải tìm về huyền sử dân tộc qua các huyền thoại, truyền thuyết nhân gian để hiểu rõ người xưa gửi gấm những ý nghĩ trung thực về một thời kỳ lịch sử nhưng được che dấu dưới lớp vỏ hư cấu huyền hoặc của truyền thuyết.

"Đó chính là thần trí VIỆT, bức thông điệp ngàn xưa của tiền nhân đòi hỏi chúng ta phải giải mã, như triết gia Jung đã nói - truyền thuyết thần thoại hàm chứa những ý nghĩa lịch sử trung thực nhất. Huyền thoại Rồng Tiên của Việt tộc, với những nhân vật thần thoại Bố Rồng, Mẹ Tiên là những hình tượng nguyên sơ mang tính tâm linh, chính là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của thời đại tạo dựng độc sáng, chờ thế hệ sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý luận."  (4)

Chú thích:

   (1) Trần Trọng Kim, "Việt Nam Sử Lược", Nhà xuất bản Miền Nam, tr. 11
   (2)  Phạm Quân Khanh, "Lịch Sử Việt Nam", Web dunglac.net
   (3)  "Việt Nam Sử Lược", sđd., tr. 14-15
   (4)  Phạm Trần Anh, "Cội Nguồn Việt Tộc", Việt Nam 2004, tr. 44

Gàn (3)

Ngoài đặc tính ở dơ, ăn mắm tôm, uống nước trà, ăn trầu và hút thuốc lào, con người Đốc Gàn còn có một nét độc đáo khác. Đó là bộ RĂNG ĐEN.

    Năm quan mua lấy miệng cười
  Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen

         (Hình: Võ Thương An) 

  Thời xa xưa, ở Việt Nam, không có nghề nha sĩ, tức là nghề niềng răng, nhổ răng, chà sạch răng hay trét lỗ răng sâu. Một khi răng đã nhuộm đen rồi, tức răng được mặc áo giáp thì chẳng sợ vi trùng tấn công. Nhưng cái kẹt của Đốc là lớp keo nhuộm lâu ngày bị mòn, mà thợ nhuộm răng thời buổi này kiếm khó hơn là nha sĩ. Một hôm, Đốc đến phòng mạch của một nữ nha sĩ trẻ để nhờ coi sóc vài chiếc răng long. Cô nha sĩ này trông người nhỏ con, nhưng vặn răng thì nhanh kỷ lục. Chỉ thoáng vài phút là đã lôi ra cả chục chiếc răng như chơi. Đáng sợ thiệt! Nhìn một đứa bé trong phòng nha sĩ đi ra, khóc thút thít, Đốc sợ quá, muốn bỏ về. Chèng đéc ơi! Nhổ răng gì mà đau vậy cơ à, con nít cũng phải khóc! Đốc coi vậy mà nhát hơn con nít!

Sau khi cô nha sĩ đưa kính soi rồi thọc cả cái kim dài nhọn vào miệng, kiểm soát từng cái răng một của Đốc, cô nói:

- Răng cụ Đốc hư hết rồi! Phải làm hàm răng giả.

Đốc vừa hét vừa khóc rống lên:

- Ối! Thế thì chết! Đau lắm! Đau lắm!

Cả phòng mạch xôn xao, mấy cô y tá chạy vào coi xem chuyện gì mà kinh khủng vậy. Nhưng chẳng có chuyện gì cả! Họ nhìn Đốc, cười tủm tỉm với nhau, rồi bỏ đi ra. Đốc hỏi cô nha sĩ:

- Thế làm răng giả thì tốn bao nhiêu?

- Thưa cụ Đốc, hết khoảng vài ngàn đô.

Đốc Gàn lẩm bẩm: "Vài ngàn đô? Có mấy cái răng giả mà sao mắc thế nhỉ." Rồi Đốc hỏi lớn:

- Vậy lão trả bằng tiền giả hay tiền thật?

Cô nha sĩ nhìn thẳng vào mặt Đốc, ngạc nhiên:

- Cụ Đốc nói gì cháu không hiểu? Cụ phải xài tiền thật chứ sao lại xài tiền giả? Cảnh sát bắt chết!

- Cô làm răng giả cho lão thì lão phải trả tiền giả cho cô chứ!

Cô nha sĩ bây giờ mới hiểu ý cụ Đốc. Cô cười đáp lại:

- Thưa cụ, cháu làm răng giả cho cụ, nhưng cụ dùng răng giả mà ăn thật, ăn bình thường như là răng thật, vì thế cụ phải trả cho cháu bằng tiền thật chứ lại!

Đốc Gàn thấy cô nha sĩ này nhanh nhẩu và hóm hỉnh lắm, lại nói tiếng Việt lưu loát, nên hỏi tiếp:

- Vậy lão nhổ nhiều răng như vậy, cô có chương trình "nhổ một tặng một" không?

- Dạ có! Cháu có chương trình còn ngon hơn vậy nữa. "Nhổ một tặng hai" cơ!

Đốc Gàn cười xòa:

- Lão hỏi cô vậy thôi, chứ đời nào mà lão chịu đeo răng giả. Để lão về ngậm nước muối một thời gian cho răng nó chặt lại. Sau đó rồi hãy hay. Sao hôm nay khám như vậy, cô tính bao nhiêu đây, để lão trả?

- Dạ, tiền khám hôm nay thì cháu biếu cụ để lấy thảo, nhưng xin cụ trả cho cháu hai trăm.

Đốc thắc mắc:

- Ủa, sao kỳ vậy? Đã nói không tính tiền mà sao còn bắt lão phải trả những hai trăm? Tiền gì vậy?

- Thưa cụ! Lúc nãy cụ la lớn trong phòng khám, làm cho hai người khách của cháu ở ngoài sợ quá, bỏ về luôn. Vậy cụ trả cho cháu mỗi người khách bỏ đi là một trăm. Vị chi cả thảy là hai trăm!

- À ra vậy. Té ra làm nghề nha sĩ có nhiều cái khoản hơn người. Cô có biết cô hơn người ở chỗ nào không?

- Dạ, thưa cụ! Cháu chả thấy hơn ai được chỗ nào cả. Cháu bị chồng ăn hiếp hoài à!

Đốc giơ hai tay lên trời như muốn phân trần điều gì bí hiểm lắm:

- Trời ơi là trời! Cô giỏi dang, cô hơn người xa thật là xa mà cô không biết. Cô muốn ra lệnh cho ai, cô muốn dạy dỗ ai thì người ta cũng phải nằm êm rơ cho cô nói. Chồng cô làm sao ăn hiếp được? Này nhé, cô cứ đưa chồng cô lên cái ghế này, bắt nằm ngửa, há miệng ra, rồi cài cái miếng cao su vào miệng anh ta, như cô vừa cài vào miệng tôi đó. Thế là cô tha hồ mà nói, muốn nói ngang nói ngược, muốn dạy dỗ gì cũng xong. Cô khoá miệng thiên hạ rồi thì ai mà cãi được nữa! Thế có phải cô hơn người không nào?

Chuyện nha sĩ chắc kể hoài không hết. Một anh chàng kia có chiếc răng đau chịu không nổi. Tình cờ, chàng đi ngang qua một cửa tiệm vẽ cái răng với hàng chữ "Ở đây nhổ răng không đau". Anh chàng khoái quá, bước vào xin nhổ chiếc răng đau mà không đau. Chỉ năm phút là xong, anh trả tiền ra về. Nhưng chừng một tiếng sau, thuốc tê hết hiệu lực, anh vẫn thấy đau răng, liền soi gương thì hỡi ơi! Chiếc răng đau còn nguyên. Anh bực mình trở lại phòng mạch khiếu nại:

- Tại sao chiếc răng đau của tôi không nhổ mà lại đi nhổ chiếc răng không đau.

 Người thư ký trả lời tỉnh bơ:

- Ơ cái anh này, rõ dở hơi chưa? Anh không đọc hàng chữ quảng cáo ngoài kia sao? Ở đây chúng tôi chỉ nhổ "răng không đau" để gắn răng vàng vào, chứ chúng tôi có nhổ "răng đau" bao giờ đâu?

- Thế mà tôi cứ tưởng ở đây nhổ răng đau mà không đau!

Té ra, cái chữ nghĩa Việt Nam sao mà nó hóc hiểm thế này. Ai mà hiểu cho nổi?

Hồi Mục Sư Martin Luther King, Jr. còn sống, Đốc Gàn đã cùng ông và 250.000 người khác có mặt trong cuộc biểu tình tuần hành ngày 28-8-1963 theo một lộ trình 700 dặm Anh từ miền Nam Alabama đến Hoa Thịnh Đốn, dừng lại tại Công Trường Quốc Hội và nghe bài diễn văn của Mục Sư với câu nói lịch sử: "Tôi có một ước mơ, một ngày nào đó ở tiểu bang Alabama... những đứa trẻ da đen, trai lẫn gái, sẽ có thể nắm tay với những đứa trẻ, trai lẫn gái, da trắng và xem nhau như anh chị em".

Đốc nói với Mục Sư King:

- Người Việt Nam chúng tôi rất trân trọng và thán phục cuộc tranh đấu của người da đen quý ông. Phong tục chúng tôi rất trọng màu đen. Mục Sư coi đây nè.

Đốc nhe hàm răng đen cho Mục Sư coi và nói tiếp:

- Đây là bộ răng đen của tôi. Cha ông chúng tôi dạy rằng: "Cái răng, cái tóc là góc con người". Ý nói hàm răng và bộ tóc quan trọng vì biểu lộ phong thái con người, do đó phải giữ gìn cẩn thận và săn sóc chu đáo hàm răng, mái tóc cho tươm tất. Con người dễ có cảm tình với người khác là nhờ mỗi khi mở miệng cười, hàm răng có đẹp hay không. Chỉ cần nhìn bộ tóc chải chuốt cẩn thận là người ta biết ngay người đó có phong thái chững chạc.

Mớ tóc của người Việt chúng tôi bẩm sinh Trời đã cho đen rồi. Đẹp khỏi chê! Còn về nét đẹp của răng, cha ông chúng tôi không thích răng trắng như răng bò. Thế nên các cụ nhuộm đen cho nó đẹp. Vả lại ở vào thời chưa có bàn chải đánh răng, chưa có nha sĩ chùi răng, nhổ răng thì việc nhuộm răng đen là một phương pháp tốt nhất để bảo vệ hàm răng khỏi bị sâu.

Ca dao Việt Nam có câu:

Răng đen ai nhuộm cho mình,
Để duyên mình thắm, để tình ta say.

hoặc câu khác:

Môi son lại điểm má hồng,
Hàm răng đen nhức ai lòng chẳng say!

Ngày xưa nghệ thuật trang điểm sắc đẹp của nữ giới Việt Nam là cặp má hồng và hàm răng đen óng ả. Chính hình ảnh này đã làm mê say biết bao chàng trai:

Mình về mình nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Năm quan mua lấy miệng cười,
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.

Và người con gái cũng rất tự hào về sự gắn bó giữa hàm răng đen với cuộc tình duyên của mình:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen.

Mục Sư King nghe đến đây có vẻ khoái chí lắm, hỏi tiếp:

- Thế sao răng của Đốc Gàn không được đen cho lắm?

Đốc Gàn nhe răng cười:

- Răng của tôi là thứ răng cải mả. Đồ bỏ rồi! Răng cải mả là răng nhuộm đen, nhưng sau một thời gian, chất đen bị phai mờ và trở nên loang lổ vừa đen, vừa trắng, lại vừa vàng. Trông mất vệ sinh quá sức lẽ mình! Muốn cho răng được đen nhánh óng ả như hạt na thì phải năng nhuộm lại. Mỗi lần nhuộm răng phải vất vả lắm.

Ông Mục Sư có vẻ tò mò:

- Thế thì người Việt nhuộm răng làm sao và nhuộm bằng gì?

Đốc Gàn nhổ nước trầu vào ống, rồi say sưa nói về cách nhuộm răng:

- Nhuộm răng đen là cả một nghệ thuật. Cụ Toan Ánh trong cuốn "Phong Tục Việt Nam" đã chỉ cách nhuộm răng như sau:  

"Răng chỉ bắt đầu nhuộm khi đã thay xong lượt răng sữa, và đã có một số răng hàm. Nhuộm răng chia làm hai lớp, lớp đầu nhuộm cho răng có màu đỏ, sau đó mới nhuộm màu đen lên màu đỏ. Muốn nhuộm răng màu đỏ, phải dùng cánh kiến tán nhỏ. Vắt chanh vào bột cánh kiến này rồi để kín trong bảy ngày cho chất chua của chanh ăn vào bột cánh kiến.

"Dùng bột cánh kiến pha chanh này phết vào những mảnh lá dừa hoặc lá cau, bản to bằng chiều cao cái răng, rồi lúc đi ngủ ấp vào hai hàm răng. Màu cánh kiến qua đêm sẽ ăn dần vào men răng, và răng lúc đó lờ lờ, qua độ bảy đêm, răng sẽ nhuốm màu đỏ già cánh dán.

"Màu đỏ như vậy kể là đã nhuộm xong. Bây giờ phải bước sang lớp thứ hai nhuộm răng đen. Thuốc nhuộm răng đen vẫn dùng cánh kiến, nhưng lần này bột cánh kiến không hòa lẫn với chanh, lại hòa với lá phèn đen. Hai thứ nghiền lẫn để quyện lấy nhau, rồi cũng phết vào lá cau hoặc lá dừa rồi ấp lên hàm răng. Chỉ cần nhuộm đen hai đêm là răng đen nhánh. Bấy giờ, muốn để màu đen đó khỏi lạt phai đi, phải chiết răng.

"Chiết răng nghĩa là làm cho răng giữ mãi được màu đen. Người nhuộm răng sẽ ngậm những ngụm nước dưa chua. Nước dưa chua có chất giữ màu cho răng. Ngậm và súc miệng nhiều lần bằng nước dưa chua, màu đen sẽ ăn liền vào răng và hàm răng đen bóng.

"Sau khi đã chiết răng thì màu răng không phai được nữa, người ta mới lại ăn uống, nhai như thường."  (4)

Mục Sư King có vẻ thích thú về câu chuyện của Đốc Gàn. Ông nói:

- Xin hết lòng cám ơn Đốc Gàn về chuyện nhuộm răng đen theo phong tục Việt Nam.

Đốc Gàn rít một điếu thuốc lào rồi thủng thẳng kết thúc câu chuyện:

- Trong cuộc đời này không thiếu những chuyện thay trắng đổi đen. Tóc bạc người ta nhuộm thành đen cho... trẻ ra. Tóc đen người ta nhuộm thành hồng, thành tím, thành vàng cho... hấp dẫn. Thiên hạ còn nhuộm cả móng tay, móng chân, cả cặp môi, cặp má. Nhưng rùng rợn hơn nữa, người ta còn nhuộm đen luôn cả danh dự và cuộc đời người khác. Còn riêng ngài, ngài đang pha trộn, hòa hợp da đen với da trắng. Chúc ngài sớm thành công.

Thấy Mục Sư thích thú với chuyện răng cỏ, Đốc Gàn hỏi:

- Sao? Ngài có đồng ý để Đốc nhuộm răng đen cho không?

Mục Sư vội vàng xua tay:

- Không. Mọi thứ trong người tôi đều đã đen ngòm cả rồi. Chỉ còn có bộ răng là trắng thôi. Xin cứ để vậy.

- Thế ra chính ông cũng không thích cho mọi thứ trong người ông trở thành mầu đen?! Ông nghĩ vậy là phải. Con người ta cũng phải có chỗ đen chỗ trắng. Đen cả cũng không đẹp, mà trắng cả cũng không nên! Trắng trắng, đen đen cần phải hòa hợp, hòa đồng.

Xã hội cũng vậy! Người da đen tại Hoa Kỳ đã thành công trong cuộc cách mạng chống kỳ thị màu da. Người da đen tại Hoa Kỳ cần thúc đẩy mọi sắc dân khác làm một cuộc cách mạng đề cao lòng yêu nước và quý trọng đất nước Hoa Kỳ, cái nôi của Tự Do, Dân Chủ và Bình Đẳng của thế giới.

Người da đen cũng cần sát cánh với các sắc dân khác để phát động một cuộc cách mạng chống mọi tội phạm trên đất nước Hoa Kỳ này. Các nhà tù tại Hoa Kỳ không phải là nơi chỉ để giam giữ những tù nhân mà đa số là người da đen.

Hoa Kỳ mang danh là một nước tạp chủng thì các sắc dân phải sống hòa hợp, hòa bình, trong tình nghĩa yêu thương. Nhờ vậy, Hoa Kỳ mới trở thành một vườn hoa đầy đủ hương sắc trong cảnh thái bình, thịnh vượng được.

Khi dựng nên con người, Thượng Đế muốn rằng mọi người nam nữ phải được bình đẳng về nhân phẩm. Tuy vậy, về sắc diện và quyền tự do quyết định cho cuộc đời mình thì không ai giống ai. Mỗi người là một kiệt tác duy nhất và độc nhất của Thượng Đế.

Công tác cuối cùng của Thượng Đế trong tiến trình tạo dựng con người là lựa chọn màu da. Ngài bỏ con người lên lò nướng. Mẻ đầu, Ngài để non lửa và lấy ra sớm quá, nên màu da hơi trắng. Lớp da trắng chịu phong sương, vất vả, cực nhọc không được dai bền, nhưng đã có cái đầu thay thế tay chân. Người da trắng chơi những môn thể thao cần sức mạnh như đánh bốc hay banh chầy thì không được sung sức cho lắm, nhưng làm việc trí tuệ thì thành công vượt bực. Đầu óc thế tay chân là vậy!

Đến mẻ nướng thứ nhì, Thượng Đế để lửa già và nướng lâu hơn một tí. Có mùi khen khét! Hóa ra nước da bị cháy đen thui lui. Nhưng cũng nhờ nước da đen mà sương gió, nắng mưa chẳng nhằm nhò gì. Việc tay chân nặng nhọc người da đen chẳng xá kể chi, nhưng việc trí óc thì lại có vẻ hơi lơ là một tí.

Rút kinh nghiệm cho lần nướng thứ ba, Thượng Đế phải vất vả hơn. Ngài thổi, Ngài quạt, Ngài căn giờ, Ngài vật lên, lộn xuống, xoay qua, xoay lại. Khi bỏ ra thì nước da không trắng quá, cũng không đen quá. Đó là da vàng. Người da vàng sức khoẻ và trí tuệ được chấm điểm là quân bình: Sức mạnh không kém người da đen, mà trí tuệ cũng không thua người da trắng.

Tóm lại, Đen, Trắng, Vàng đều là tuyệt tác phẩm của Thượng Đế. Ngài đã trao cho con người - bất luận mầu da - được cai trị mọi loài thụ tạo khác trên trái đất này. Nhân loại không thể kỳ thị nhau vì màu da, mà phải sống hài hòa, bổ túc lẫn cho nhau, để đưa thế giới đến cuộc sống hòa bình và thịnh vượng.

Ấy, đại loại những suy tư của Đốc Gàn thuộc loại tưng tửng, man mát như vậy.

Người đời cười tớ là điên thật,
Tớ lại cười ai giả thánh hiền.
(thơ Nguyễn Trọng Cẩn)

 _____________________________________

(4) Toan Ánh, "Phong Tục Việt Nam - Từ bản thân đến gia đình", Khai Trí 1968, tr. 150

   
 Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua
Hình:  Trung Tâm Mimosa
(Bìa CD Hương Cố Nhân)

Gàn (2)

Trên chiếc xe bò của Đốc Gàn còn có một bình ấm tích đựng NƯỚC TRÀ nóng. Đốc ghiền uống trà và thường nhắc các đệ tử rằng:

- Uống trà là cả một nghệ thuật, một thú chơi trang nhã, lại ích lợi cho trí nhớ do chất vị của lá trà đem lại. Không biết uống trà là mất hẳn đi một trong ba cái thú trên đời:


 

    Độc ẩm       (Hình:  Nguyễn Đức Cung)

Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta,
Chừa được thứ nào hay thứ ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà!
          
              (Tú Xương)

Tuy nhiên, uống trà không đúng cách có thể đem đến nhiều tai hại. Uống trà nóng quá cũng không tốt, mà nguội quá cũng không hay. Không nên uống trà lúc bụng đói, vì chất chát trong trà sẽ làm cho bao tử cồn cào, gây nên chóng mặt, hoa mắt, nôn nao trong người. Cũng không nên uống trà trong vòng 15 phút sau bữa ăn, vì trà sẽ làm dạ dày tiết ra chất chua, khiến cơ thể giảm sức tiêu thụ thức ăn. Uống trà thiu để qua đêm rất ư là nguy hiểm, vì trà ngâm lâu trong nước sẽ sinh ra vi trùng hay nấm mốc, có hại cho sức khỏe.      

 
        Quan Việt Nam uống trà   (Hình sưu tầm: Nguyễn Tấn Lộc)

                                

 

 

 

 

 

 

 

Đốc Gàn lại còn có thói ĂN TRẦU, một phong tục cổ truyền Việt Nam. Gọi là ăn trầu, nhưng không phải ăn bằng cách nuốt, nhưng ăn để nhổ nước và nhả bã.

Thời Hùng Vương lập quốc, dân gian đã truyền tụng câu chuyện cổ tích Trầu Cau:

Thuở ấy, có một ông quan họ Cao, sinh được hai cậu con trai vừa đẹp lại vừa hiền. Anh em cách nhau một tuổi, nhưng giống nhau như đúc, người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Cha mẹ mất sớm, hai anh em khắng khít thương yêu đùm bọc nhau. Họ được một đạo sĩ thương tình đem về nuôi. Ông này có một cô con gái rất xinh đẹp, sắc nước hương trời. Cô quý mến cả hai anh em, nhưng chỉ muốn kết duyên với người anh, để được làm chị. Con gái Việt khôn ngoan đáo để như thế đó! Ngặt một nỗi, cô không biết ai là anh nên mới nghĩ ra một kế: Ngày kia, cô nấu nồi cháo và chỉ múc một bát và dùng một cái thìa mời hai cậu ăn. Người em mời anh xơi trước, nhờ đó cô nhận ra được người anh và xin phép cha mẹ cho cô lấy người anh làm chồng. Kể từ đó, người anh chỉ biết hú hí với vợ mà hờ hững với em. Người em cảm thấy cô đơn và buồn tủi. Rồi một ngày kia, hai anh em đi làm ruộng về lúc trời nhá nhem tối. Người em vừa bước vào nhà thì bà chị dâu tưởng là chồng mình, ôm chầm lấy nũng nịu. Người anh nổi máu ghen và từ đó tình anh em kể như tàn lụi!

 
            Truyện Tích Trầu Cau        (Bùi Văn Bào)

Vào một buổi chiều thu, người em thất thểu đi theo con đường mòn vào một khu rừng âm u. Chàng cứ đi, đi mãi. Bóng tối đổ sập xuống. Khi tới một con suối dài và rộng, chàng mệt quá, đành ngồi nghỉ bên bờ. Nỗi đau khổ uất nghẹn trào dâng ngút trời. Chàng bật khóc và gào lên giữa tiếng suối reo, gió hú của rừng thẳm. Càng về khuya, sương xuống càng nhiều. Thân thể bị thấm lạnh, chàng ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trong thế ngồi. Xác biến thành một tảng đá mầu trắng rất đẹp.

Người anh thấy mất em, liền vào rừng đi tìm. Lúc đó, chàng mới cảm thông được nỗi lòng cay đắng và oan khiên của em mình. Chàng đi rất xa, đi đi mãi, cho tới khi bóng đêm ập xuống mà cũng chẳng thấy em đâu. Khi gặp một con suối chặn ngang đường, chàng đi không được nữa, liền ngồi tựa lưng vào tảng đá bên bờ suối mà không biết tảng đá chính là em mình. Chàng kêu khóc thảm thiết, rồi ngất đi và chết cứng. Thân chàng biến thành một cây không cành, mọc thẳng vút lên trời, gốc tỳ vào tảng đá. Sau này người đời đặt tên cho nó là cây cau.

Người vợ ở nhà chờ chồng mãi không thấy về, liền khóc lóc đi tìm. Nàng cũng đi trên cùng một con đường mòn định mệnh ấy. Khi đến tảng đá và cây cau, nàng mệt lả, ngồi nghỉ tại đây. Giữa đêm khuya tĩnh mịch và làn sương lạnh, nàng cũng trút hơi thở cuối cùng và biến thành một loài cây leo, quấn chặt vào cây cau. Người đời gọi đó là cây trầu.

Câu chuyện Trầu Cau được truyền miệng đi khắp nơi. Ai ai cũng cảm động mủi lòng và ca ngợi tình anh em, nghĩa vợ chồng của hai chàng họ Cao. Vua Hùng Vương nghe chuyện , liền đích thân tới thăm địa danh này. Vua truyền hái lá trầu rồi bỏ vào miệng nhai chung với miếng cau thì thấy mùi vị cay cay và rất thơm. Khi vua nhổ nước miếng xuống tảng đá thì nó biến thành mầu đỏ. Từ đó, tục ăn trầu được thịnh hành trong dân gian. Người ăn trầu miệng vừa thơm, môi lại đỏ mọng như tô son. Nhai trầu còn gây tác dụng hạ tính nóng, tiêu cơm, sạch miệng và làm cho hàm răng cứng cát. Vào mùa đông, ăn trầu gây ấm áp cho toàn cơ thể.

Lá trầu cay và thơm, hình to và tròn trĩnh như má những nàng thôn nữ "khuôn trăng đầy đặn". Lá trầu chữa được một ít bệnh tật. Khi con nít bị nấc cụt, người ta cấu một tí lá trầu, nhấm nước bọt rồi dán lên trán đứa bé. Hết nấc ngay! Khi mắt bị cộm, lấy cuống lá trầu, tước vỏ ra, chấm một tí sạ rồi quệt vào mắt. Dễ chịu liền! Khi có chiếc mụn mâng mủ thì nhai dập lá trầu ra, đắp vào mụn. Vài ngày sau, mụn mềm lại và vỡ mủ ra. Giảm đau lập tức!
Trải dài theo dòng lịch sử, tục lệ ăn trầu đã trở thành nét độc đáo trong phong tục và văn hóa Việt Nam. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Mỗi khi khách đến nhà hay trong các buổi hội họp, cơi trầu vẫn là chiếc gạch nối để mở đầu các câu chuyện bàn tính.

Tiện đây ăn một miếng trầu,
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là.

hoặc:

Khi xưa ai biết ai đâu,
Chỉ vì điếu thuốc miếng trầu nên quen.

Cụ Nguyễn Khuyến Tam Nguyên Yên Đổ (1835-1909), sau khi từ quan về quê sống trong cảnh thanh bạch, đến nỗi thiếu cả miếng trầu mời khách, nên ông đã phải thốt ra lời xin lỗi:

Đã bấy lâu nay bác tới nhà

 
 Vòng Trầu Của Mẹ  (Hình: Cao Tường)


Trẻ thì đi vắng, chợ thì xa
...

Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta.

Những mối tình, hò hẹn giữa trai gái cũng đều bắt đầu bằng hình ảnh trầu cau:

Trầu này trầu quế, trầu hồi,
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình
Trầu này trầu tính, trầu tình,
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình lấy ta.

Miếng trầu kết tóc xe tơ, nên vợ nên chồng là vậy!

Trầu cau còn được dùng làm đồ sính lễ trong đám hỏi, đám cưới hoặc cúng lễ gia tiên.  ..."Cũng bởi toàn dân không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, trai gái, già trẻ, ai cũng quý miếng trầu, nên trầu đã được dùng làm một lễ vật dâng cúng. Dâng cúng cha mẹ, tổ tiên đã đành rồi, mà dâng cúng cả thần thánh, cả Trời, cả Phật nữa".  (2)

Trầu thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ. "Bao giờ cô cho tôi ăn trầu đây?" Có nghĩa là khi nào cô đi lấy chồng đây? Cô đi lấy chồng thì thế nào tôi cũng được báo bằng đĩa trầu cau.

 Trong các buổi tang chế, người ta cũng ăn trầu để vơi bớt sự tiếc thương.

Trầu cau còn là món quà tặng các bậc trưởng thượng:

Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ,
Xin đôi câu đối để mừng ông.
(Thơ Nguyễn Khuyến)

Rồi những lời ru êm ái hòa theo tiếng võng kẽo kẹt đu đưa giữa buổi trưa hè:

Ru em cho thét (3), cho mùi, 
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Rinh.

Nhà văn Trần Quốc Bảo, trong bài khảo luận "Miếng Trầu Quê Mẹ", đã viết:

"Miếng Trầu gắn bó với dòng sinh mệnh của dân tộc ta suốt hơn 46 thế kỷ. Từ khoảng 1950 trở về sau, nhiều người Việt đã bỏ tục ăn trầu, nhưng chưa phải hết hẳn; tại quê hương mình hiện nay còn người ăn trầu, nghiện trầu, việc thờ cúng, việc cưới gả... vẫn giữ tục xưa. "Bà Già Trầu", vẫn là hình ảnh chơn chất đôn hậu, đảm đang của một Bà Mẹ Việt Nam.

"Có người xa quê ít năm, nay lại chê chuyện ăn trầu là cổ hủ. Tôi xin thưa rằng việc ăn trầu "cổ " thì rất cổ nhưng không "hủ", nghĩa là người Việt mình ăn Trầu hoàn toàn không gì xấu xa, tồi bại, hủ lậu cả. Hãy so sánh hình ảnh của cô gái Tây phương đang nhai kẹo "chewing gum" với cô thôn nữ Việt, tóc bỏ đuôi gà, yếm đào, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen... miệng nhai trầu cho má thắm môi hồng, thực khó định được hơn kém về duyên dáng và nét xinh đẹp giữa Tân và Cổ, giữa Đông và Tây. Vả "cái đẹp" thường quan niệm và đánh giá thiên lệch bởi sự quen mắt của thời điểm và ước lệ chung của môi trường xã hội. "Nay xét về phương diện khoa học thì ăn trầu chẳng những không hủ lậu mà rất bổ ích. Theo Bác sĩ Trần Văn Ký: "Tục lệ ăn Trầu đã đóng góp nhiều điều lợi ích không chối cãi được, đã bảo tồn cho bao thế hệ dân Việt được khỏe mạnh... Việc nhai cho 'dập bã trầu'đã làm cho hàm răng thêm rắn chắc, sự cọ xát và tính chất sát trùng của Trầu giữ cho răng được sạch và tránh được nhiều bệnh ở nướu răng và miệng. Ngoài ra, Cau Trầu còn giúp tăng tiết dịch tiêu hóa tiêu thực và ăn ngon, đồng thời còn giúp tẩy được giun sán. Lại nữa, chất vôi trong món Cau Trầu đã nâng cao mức Calcium cần thiết hàng ngày, biết đâu đã tăng tuổi thọ và xương cốt được cứng cáp vào lúc tuổi già. Ngoài ra, theo những cuộc nghiên cứu y khoa ở Hoa Kỳ thì tục ăn trầu có lẽ ở một khía cạnh nào đó đã giúp cho bệnh cao huyết áp không trở thành chứng thông thường như chúng ta thường hay nghe ở nước Mỹ văn minh này."

Trong phần kết luận bài khảo luận, nhà văn Trần Quốc Bảo còn linh thiêng hóa cơi trầu như một lễ vật đền ơn báo hiếu dâng lên hương hồn người Mẹ ngàn đời thương nhớ:

"Mẹ, - con ước mong sẽ có một ngày trở lại Quê Hương, dâng đĩa Trầu trên mộ Mẹ, tạ tội đã để Mẹ

Một thương hai nhớ ba sầu,
Ăn cơm chẳng đặng, ăn trầu cầm hơi".

Trong chiếc cơi trầu của Đốc Gàn, ngoài bó lá trầu, vài quả cau, người ta thấy có một con dao nhỏ bổ cau rất sắc, một ống vôi và chiếc bình vôi. Trái cau thường được bổ nhỏ ra làm tư hay làm sáu. Để ăn trầu, Đốc mở chiếc lá trầu ra, quệt vào đó một ít vôi trắng, cuộn tròn lại, như thế gọi là têm trầu, rồi lấy một miếng cau, đôi khi còn thêm một chút quế thơm, rồi bỏ vào miệng nhai bỏm bẻm. Khi nhai trầu, nước miếng ra nhiều và mầu đỏ lòm. Đốc nhổ nước đó vào chiếc bình vôi. Những người già, răng yếu phải dùng chiếc cối nhỏ, giã trầu cho nát ra, rồi mới ăn được.

***


 

 
                 Cháu nhìn ông hút thuốc lào    (Hình:  Diệp Hải Dung)


Trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam, có rất nhiều câu đố bằng thơ được truyền khẩu khắp dân gian từ đời này đến đời khác:

Mặt tròn vành vạnh, đít phổng phao,
Mân mân, mó mó, đút ngay vào.
Thủy hỏa tương giao sôi sùng sục,
Âm dương hòa khí, sướng làm sao!

Đố là cái gì?

Thưa, đó là cái điếu THUỐC LÀO.

Dân chúng Việt Nam hút thuốc bằng hai loại điếu. Những lúc ở nhà, người ta dùng điếu bát, làm bằng gốm sứ hình tròn, to bằng hai chiếc bát ăn cơm úp vào nhau, bên trong đựng nước. Trên cùng có chiếc lỗ tròn gọi là nõ điếu dùng để bỏ lá thuốc cắt nhỏ vo tròn vào đó. Bên cạnh đó là một lỗ nhỏ khác, để cắm một đầu của chiếc ống tre, còn đầu kia dùng miệng để hút. Ống đó gọi là xe điếu. Vì chiếc điếu bát này có nhiều bộ phận rời và dễ vỡ, nên những khi đi xa, người ta dùng một loại điếu khác, gọi là điều cày. Đó chỉ là một khúc tre dài khoảng 40 phân, một đầu rỗng dùng để miệng vào đó hút, còn đầu kia bịt kín bởi mắt tre và chứa ít nước để lọc khói thuốc. Ở phía đầu này, có một lỗ nhỏ. Khi hút thuốc, người ta viên tròn lá thuốc lào, nhét vào lỗ này, rồi bật lửa châm thuốc. Nước ở dưới bốc lên hòa cùng lửa đốt cháy sợi thuốc. Hương vị hai luồng âm - dương của thuốc lào hòa vào nhau. Khi hít mạnh, nước ở trong chiếc điếu phát ra những tiếng kêu lọc xọc đều đặn, nhịp nhàng và lớn. Hút xong, ngửa người ra, nuốt khói thuốc, rồi từ từ nhả khói qua hai lỗ mũi và miệng. Tâm thần người hút lâng lâng, đê mê, đầy sảng khoái...

Đốc Gàn làm bạn với thuốc lào từ hồi còn nhỏ. Đã nhiều lần các bác sĩ khuyên lão bỏ thuốc để sống trường thọ, nhưng mấy ông thày thuốc này chết hết cả rồi, chỉ còn mình lão, buồn quá nên Đốc lại hút thuốc dữ hơn nữa. Trời cho sống đến tuổi này, bỏ làm chi cho uổng và dù có muốn bỏ cũng không được:

Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống, lại đào điếu lên.

Đàn bà Việt Nam hút thuốc lào  (Hình sưu tầm: Nguyễn Tấn Lộc)

___________________________________________ 

(2) Cửu Long Giang-Toan Ánh, "Người Việt Đất Việt",
     Nam Chi Tùng Thư 1967, tr. 447

(3) Thét: nhiều, lâu.  Mùi: êm ái, du dương

Gàn (1)

"Gàn mà lên tới Đốc là quá cỡ rồi!"

Thung lũng San Hô, Bang Cali, xứ Hoa Kỳ, đất lành mang tên Thánh, là nơi an cư lạc nghiệp của rất đông người Việt tỵ nạn bỏ nước ra đi sau biến cố chính trị năm 1975.

Trên đỉnh một ngọn núi cao nhìn ra biển Thái Bình Dương, một lão già râu tóc bạc phơ, óng ánh như kim cương, từ trong hang núi bò ra. Lão múa một đường quyền phi mã: hai chân nhún lên, thoăn thoắt phóng người bay trong gió và hai cánh tay vung mạnh, quay tít trên không gian, tạo nên những luồng gió cuốn vù vù.

Bỗng nhiên, những cơn mây đen vần vũ kéo đến, che kín bầu trời đang chiếu nắng chói chang. Đây là một hiện tượng chưa hề xảy ra trên đất Cali của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào giữa mùa Hạ. Cơn mưa đá ầm ầm trút xuống. Chợt một tia sáng khổng lồ toé sáng trên bầu trời và tiếp theo là tiếng sét rùng rợn như xé nát không trung ra từng trăm mảnh vụn. Toàn thân lão già gân ấy đỏ rực như một khối than lửa. Lão ngã lăn ra bất tỉnh. Bỗng có tiếng phán xuống từ trời cao:

- Đây là môn đệ của Ta. Ta đặt tên cho ngươi là ĐỐC GÀN. Cái gàn của ngươi làm nhiều người nhột nhạt khó chịu, nhưng cũng làm cho nhiều người khoan khoái hả hê. Cái gàn của ngươi có gang có thép, có thang có bậc, có căn có cơ, có thứ có hạng, có bằng có cấp. Ta phong hiệu "Đốc" cho cái "Gàn" của ngươi. Gàn mà lên tới Đốc là quá cỡ rồi. Hơn nữa, từ khi lọt lòng mẹ, số phận nhà ngươi đã được an bài,  tính nết hiền lành nhưng phải làm việc hung dữ, thích hòa bình nhưng phải sống trong chiến tranh, cây muốn lặng, gió chẳng muốn đừng, sống mộng bình thường nhưng cuộc đời xô đẩy, nên mới "đốc" ra cái tính gàn gàn, dở dở, ương ương!

Lão già lồm ngồm bò dậy và từ đó mang biệt danh ĐỐC GÀN.

Đốc Gàn tỉnh dậy, nghiêm trang quỳ lên một tảng đá, giơ hai cánh tay thẳng lên trời, mắt ngước nhìn về cõi xa xăm và bắt đầu cầu nguyện. Lời cầu của Đốc Gàn như một làn phong ba cuồn cuộn bay vút lên chín tầng không gian:

- Tấu lạy Thượng Đế ! Trái đất tràn ngập cảnh nhiễu nhương. Lòng người chấp chứa đầy thù hận. Cả cuộc đời con lênh đênh chìm nổi với vận nước và tình đời. Nay vâng lệnh Ngài, con xin xuống núi để sưởi ấm tình người và gây niềm vui cho nhân thế !

Viết hồi ký bên giòng lịch sử,
Gửi tâm sự gàn tếu cho đời.

Chiếc xe bò sơn son thiếp vàng chở Đốc Gàn lạch cạch lăn bánh từ trên đỉnh núi xuống, lần theo những con đường đất mấp mô. Chiếc xe này lão đưa từ quê hương Việt Nam qua. Con bò trông cũng có vẻ già nua như lão, hai chiếc sừng cuộn tròn chấm sát vào hai mắt.

Từ năm 1975 đến nay, Đốc chưa hề tắm rửa, nên mùi xú uế từ thân thể xông ra rất nồng nặc, làm những người đến gần phải bịt mũi, nín thở. Mất vệ sinh quá sức! Có ai phàn nàn thì Đốc chỉ chặc lưỡi cười xòa: "Còn Nước đâu mà tắm với rửa!"

Đã vậy, lão lại thích ăn MẮM TÔM, một đặc sản Việt Nam có mùi thum thủm, nồng nặc đến điếc cả mũi. Mắm này được làm bằng tôm tép, ngâm trong chum nước muối cho đến khi rữa thối ra. Món phó mát Camembert của Pháp, món mắm Bò Hóc của Campuchia và món Blue Cheese của Mỹ đã khó ngửi nhưng còn thua xa cái thối của mùi Mắm Tôm Việt Nam! Ấy thế mà mắm tôm lại là một món ăn "phải có" trong hầu hết các bữa ăn của người Việt Nam, cũng như nước mắm vậy. Ăn măng tươi luộc, cà ghém, dồi chó hay lòng lợn thì bắt buộc phải chấm với mắm tôm. Nấu giả cầy hay canh cua mà không pha mắm tôm thì lạt nhách vô duyên làm sao!

Nhắc đến món cầy tơ rựa mận, xin đừng ai bảo Đốc là hủ lậu nhá. Tháng  Giêng 1990, Tiểu Bang Cali ra luật cấm giết và ăn thịt chó. Một phóng viên báo San Jose Mercury News biết Đốc thích chào "Cờ Tây", bèn làm một cuộc phỏng vấn. Đốc trả lời rằng: Đạo luật cấm ăn thịt chó của Bang Cali không phải là hậu quả về sự kỳ thị người da vàng, mà là phản ảnh sự khác biệt văn hóa. Chúng tôi thiểu số xin tôn trọng ý kiến đa số. Nếu đa số trong xã hội này không muốn ăn thịt chó thì chúng tôi không ăn nữa. Điều quan trọng là người Mỹ và người di dân nên tìm hiểu văn hóa của nhau. Như chúng tôi đây đã từng nghiên cứu mà vẫn chưa hiểu được sự kiện này: Tại sao Tiểu Bang Cali ra luật cấm ăn thịt chó mà lại cho phép phá thai, giết bao nhiêu bào thai vô tội không có phương tiện tự vệ? Như thế, khác nào Cali coi sinh mạng con người không bằng mạng sống một con chó? Theo thống kê, chỉ riêng năm 1997, dân Cali giết 275.700 bào thai, trong tổng số 850.000 vụ phá thai trên toàn nước Mỹ.

Nhưng luật gì thì luật, nói gì thì nói, Đốc vẫn khoái món cầy tơ và nôn mửa món phá thai. Dù sao, người Mỹ cấm ăn thịt chó thì ta cũng vẫn còn món giả cầy nấu với mắm tôm. Ăn cũng mùi ra phết!

Mắm tôm thông dụng đến nỗi đã thẩm thấu vào nền văn học bình dân Việt Nam, như câu chuyện dưới đây:

Có hai ông đồ rủ nhau vào quán nhậu. Nhìn thấy đĩa đậu phụ trên mâm, một ông nói:

- Tôi ra một câu đối, nếu ông đối được thì tôi trả tiền nhậu. Còn không thì ông trả. Chịu không?

- Chịu! Chịu quá đi chứ! Ông bắt đầu đi!

Người ra câu đối đọc:

- Nướng đậu phụ cho cha ăn.

Suy nghĩ một lát, ông kia đáp:

- Sắc ích mẫu cho mẹ uống.  (1) 

Ông ra câu đối tấm tắc khen:

- Vế đối của ông hay đấy. Đậu phụ đối với ích mẫu. Phụcha, đối với mẫumẹ. Nướng đối với sắc. Ăn đối với uống. Tuyệt! Nhưng xem ra câu đối không được thông cho lắm.

Ông kia cãi lại:

- Không thông ở chỗ nào?

Người ra câu đối ôn tồn đáp:

- Ông cứ bình tĩnh. Này nhá! Đậu phụ thì bắt buộc phải ăn với mắm tôm mới đúng khẩu vị. Có ai ăn đậu phụ với ích mẫu bao giờ? Vì thế, phải đối thế này mới thông: "Lấy mắm tôm cho mẹ chấm".

Ông bạn vẫn chưa chịu:

- Mắm tôm tuy cặp kè với đậu phụ, nhưng chữ tôm đối với chữ phụ không hay bằng chữ mẫu đối với chữ phụ.

Nghe ra thì cả hai bên đều có lý cả. Chẳng biết câu chuyện văn chương bình dân này được kết thúc với màn ai trả tiền cho bữa nhậu?

Đốc Gàn có vẻ đắc ý với câu chuyện này lắm. Lão liền mở hũ mắm tôm ra, lấy ngón tay trỏ quệt một chút mắm tôm và đưa lên miệng nhấm nháp, rồi gật gù thú vị ra mặt. Đốc vừa chép miệng vừa lẩm bẩm:

- Chưa hết đâu! Mắm tôm còn xâm nhập cả vào kho tàng truyện tiếu lâm Việt Nam nữa. Truyện "Cô Hàng Mắm Tôm Chợ Đồng Xuân" ấy mà! Nghe đã lắm!

Có một cô hàng bán mắm tôm ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội, tính nết đanh đá, chua ngoa quá sức. Khách hàng ai cũng ghét cô, nhưng lại chịu mắm tôm của cô, vì nó đậm đà kích thích khẩu vị. Chàng Ba Giai nhất định lập mưu kế dằn mặt và sửa sai cô này một trận.

Ba Giai lấy bùn bôi khắp người, rồi thoát y tồng ngồng, chỉ mặc một chiếc quần không giây lưng và vặn túm lại với nhau thôi. Anh chàng bỏ vài đồng tiền vào chiếc cạp quần, rồi lững thững đến gian hàng cô bán mắm tôm vào giữa lúc chợ rất đông người. Gã cười tình nói với cô hàng:

- Này đằng ấy ơi! Bán cho tớ hai đồng mắm tôm đi!

Cô hàng chép miệng, đanh đá nói:

- Rõ gớm! người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Hình hài da bọc xương, giơ cả một đống xương sườn ra. Đâu, đưa đồ đựng mắm ra đây, chị bán cho!

Ba Giai đưa hai bàn tay ra chụm vào nhau:

- Tớ chẳng có gì đựng cả. Đằng ấy đổ vào đây cho tớ!

Cô hàng ngạc nhiên, nhưng gặp khách hàng cà chớn thì cô cũng cho cà chớn luôn. Cô múc mắm tôm đổ vào hai bàn tay khách hàng, nói nhanh:

- Đó, mắm đó. Tiền đâu, trả ngay!

Ba Giai tiến sát đến gần cô hàng:

- Tiền tớ cuốn vào cạp quần, bên phải chỗ này này. Đằng ấy mở ra lấy giùm đi. Tay tớ đang bận.

Cô hàng hơi ngần ngại, nhưng thấy anh chàng quê mùa, chất phác, nên theo lời, cô đưa tay sờ vào cạp quần lấy tiền. Ba Giai liền thót bụng lại, chiếc cạp quần bung ra và quần tụt ngay xuống đất. Anh la thật lớn:

- Bớ người ta, cô hàng này tụt quần tôi giữa chợ búa đông người thế này. "Của" tôi cũng giống như "của" người khác. Có gì lạ đâu?

Cô hàng mắm tôm xấu hổ quá, đỏ mặt tía tai, vội kéo quần Ba Giai lên và vặn lại cạp quần cho gã. Nhưng gã thót bụng lần nữa và chiếc quần lại tụt xuống. Ba Giai càng gào to hơn:

- Tớ đã bảo "của" tớ chẳng có gì lạ sất cả. Sao đằng ấy cứ tụt quần tớ hoài vậy?

Thiên hạ đổ xô đến mỗi lúc một đông, có người cười bò lê bò lết, làm cô hàng mắm xấu hổ quá. Cô lấy nước rửa tay cho Ba Giai, trả tiền lại, rồi để gã tự vặn lấy quần ra đi.

Kể từ đó, cô hàng mắm tôm cũng bỏ luôn cái thói chua ngoa, đanh đá. Thế mới biết, vỏ quít dầy móng tay nhọn là đây!

__________________________________

(1) Ích mẫu là tên một vị thuốc.

Nhớ Về Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Đức

Tạp ghi của TS Trần An Bài để kỷ niệm 40 năm thành lập Học Viện CSQG Thủ Đức.

 

 Cụ Nguyễn Công Trứ lấy vợ lẽ thứ 10 vào năm 73 tuổi. Sau đêm tân hôn, cụ còn sảng khoái cảm tác bằng hai câu thơ:

 

Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ?
- Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam.

 

Dịch nghĩa:

 

Nàng muốn hỏi anh: Bao nhiêu tuổi?
- Năm mươi năm trước, mới hăm ba.

 

Tôi phục tài cụ Nguyễn Công Trứ thật! 73 tuổi đầu mà cụ còn đủ gân đủ cốt hăng hái động phòng với người tình thứ 10. Chắc cụ làm ăn cũng chẳng khấm khá gì nên khi bị người tình hạch hỏi, cụ mới trả lời kiểu đánh trống lảng chữa thẹn: "50 năm trước, mới 23!" Còn tôi, năm nay mới 6 "bó" lẻ 6 , thế mà đã ủ rũ buồn thiu ngồi một mình lẩm bẩm than rằng: "40 năm trước, lão mới 26 tuổi và cũng có đủ 10 mối tình: 9 mối tình đầu với Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG) từ Khóa 4 đến Khoá 12, nhưng nay tất cả đều dang dở phân ly: kẻ theo Mẹ Âu Cơ lên núi, người theo Bố Lạc Long Quân ra biển. Còn lại có một mối tình đu đưa tới giờ này, bỏ thì thương, vương thì nhớ. Mắc mớ gì mà bỏ? Đó là mối tình với lão bà nhà tôi!"

 

Năm nay, 2006, kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Học Viện CSQG, tôi đang phiêu bạt nơi đất khách quê người, xin lưu luyến ghi lại một vài kỷ niệm khó quên về mối tình của tôi đối với ngôi Học Viện thân thương này.

 

Tôi quen biết Đại Tá Trần Minh Công tại Đại Học Luật Khoa Saigon. Khi gặp nhau, Đại Tá Công đang là Viện Trưởng Học Viện CSQG, còn tôi đang là Dự Thẩm Toà Án Saigon. Chúng tôi tuy đã có nghề nghiệp, chức vụ vững chắc trong xã hội, nhưng vẫn quyết tâm trở lại nhà trường trau dồi thêm kiến thức để có thể phục vụ quốc gia hữu hiệu hơn. Đại Tá Công tiếp tục bậc Cao Học Kinh Tế, còn tôi tiếp tục bậc Cao Học Tư Pháp để lấy bằng Tiến Sĩ. Và từ sự quen biết này, Đại Tá Công đã mời tôi làm giảng viên môn Hình Sự Tố Tụng từ lúc ông nhận chức Viện Trưởng Học Viện CSQG. Đúng ra, tôi đã bắt đầu giảng dạy ngay khi Học Viện còn đặt trụ sở tại Trại Lê Văn Duyệt, Saigon, nhưng việc xin phép Bộ Tư Pháp để có thể bỏ một số giờ ở Toà Án, đi dạy học là một trường hợp hết sức khó khăn. Nhưng sau cùng nhờ văn thư thỉnh cầu đặc biệt của Bộ Tư Lệnh CSQG, tôi đã được phép đi dạy mỗi tuần một lần, bắt đầu lúc Học Viện CSQG được khánh thành tại Thủ Đức vào năm 1969.

 

Như vậy là qua sự mai mối của Đại Tá Trần Minh Công, mối tình đầu giữa Học Viện và tôi đã chớm nở từ năm 1969 và tiếp tục mặn nồng cho đến ngày miền Nam bị bức tử. Những năm tháng ấy chất chứa biết bao nhiêu là kỷ niệm êm đẹp, khó quên. Làm sao mà quên được ngày mãn Khóa 4, khi các anh em sinh viên công kênh tôi chạy vòng sân vận động. Làm sao mà quên được khi đưa các sinh viên Khoá 6 đi dự phiên toà xử tướng cướp Điền Khắc Kim nổi tiếng về các tội cướp của, hãm hiếp và vượt ngục khỏi Khám Chí Hòa, khiến báo chí bàn tán xôn xao một thời! Làm sao mà quên được buổi dẫn anh em Khóa 8 đi thăm Khám Chí Hòa, nơi có Con Ma Vú Dài đêm đêm xuất hiện. Làm sao mà quên được những buổi trưa hè ngồi ăn cơm chung với các anh em Khóa 11 và 12 ở Câu Lạc Bộ Học Viện!

 

Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson (1856-1924) một ngày kia đang lúc thăm viếng Tiểu Bang Montana thì có một em bé cố gắng chen đến gần. Em muốn tặng Tổng Thống một món quà nhưng vì bất ngờ, nên em không kiếm ra thứ gì đáng giá. Lục lọi mãi, em mới tìm thấy một đồng xu trong túi. Em lấy ra tặng Tổng Thống. Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, phu nhân tìm thấy trong chiếc ví của ông có đồng xu gói trong một miếng giấy. Thì ra Tổng Thống Wilson đã trân quý kỷ vật của em bé đó và giữ luôn mãi trong người.

 

Tôi cũng có một kỷ vật đang giữ trong trái tim từ bao nhiêu năm nay, đó là hình ảnh Học Viện CSQG mà trong đó in hình hàng ngàn nét mặt Khóa Sinh CSQG và các bạn hữu Cảnh Sát thân thương của tôi.

 

Từ chỗ quen biết với Đại Tá Công, tôi lại được gặp gỡ Trung Tá Phạm Công Bạch, Phó Viện Trưởng Học Viện CSQG, cũng tốt nghiệp từ trường Đại Học Luật Saigon, nhưng ông là khóa đàn anh vì ra trường trước tôi một năm. Theo nhận xét riêng của tôi, đây là hai vị sĩ quan Cảnh Sát trẻ tuổi, nhiều tài năng, đầy nhiệt huyết và là cặp bài trùng có nhiều triển vọng lãnh đạo ngành CSQG, nếu chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) còn tồn tại.

 

Đại Tá Công hiện nay sống tại Nam Cali nên thỉnh thoảng tôi mới có dịp gặp, nhưng Trung Tá Bạch thì ở ngay tỉnh San Jose với tôi, nên chúng tôi thường gặp nhau, nhất là lại ghi tên tập thể thao trong cùng một câu lạc bộ để kéo gân lấy sức lúc tuổi già. Chúng tôi có thể theo dõi rất sát những nét nhăn tuổi đời trên gương mặt của nhau. Trung Tá Bạch may mắn lại có hiền thê vừa trẻ lại vừa đẹp. Chàng và nàng thuở ấy học cùng trường Đại Học Luật và con đường Duy Tân mòn gót giầy của đôi tình nhân mặn nồng nhất trường. Ấy vậy mà cho tới giờ này, đã trên 40 năm rồi, đàn con cháu thỉnh thoảng vẫn bắt gặp bà tình tứ ngồi tựa vai ông, nghe ông ca: "Trả lại em yêu khung trời đại học. Con đường Duy Tân cây dài bóng mát..." Rồi mỗi ngày lần theo năm tháng, chàng xem ra mắt mờ chân chậm thì nàng lại có vẻ xuân nồng phơi phới.

 

Bây giờ tôi mới thấy cái khôn của những anh chàng lấy vợ trẻ. Ai về già mà có cô vợ trẻ thì như vớ được cây khế vàng, muốn gì được nấy, vì có vợ là có tất cả:

 

Ngày ngày vợ là quản gia
Đi chơi đi hội, vợ là tình nhân
Khi nào lỡ bước sa chân
Vợ như là mẹ, ân cần sớm hôm
Khi nào ốm yếu gầy còm
Vợ là bác sĩ chăm nom hết lòng
Khi nào vất vả long đong
Vợ như bà chị lau dòng lệ em
Khi nào trong dạ đói mèm
Vợ là em gái dịu dàng cơm canh
Khi nào đeo xớ quấn manh
Vợ là người thợ vá lành áo khăn
Trăm năm chiến đấu nhọc nhằn
Vợ là đồng đội, cùng ăn cùng làm
Khi nào gây gỗ vợ can
Vợ là nhân tố trong ban giảng hoà
Mai sau trăng mật có già
Thì ai ơi
Vợ
Vẫn là
Trăng non.
Phạm Minh Giang, "Thân Thương Hai Tiếng Vợ Mình")

 

Tác giả bài thơ trên còn quên một điểm đặc biệt khác là khi cửa nhà thanh vắng thì vợ mình là chiếc radio có thể phát thanh liên tục 24 giờ một ngày mà không sợ hết pin. Chương trình phát thanh gồm đầy đủ các tiết mục: từ ca cải lương đến gỡ rối tâm tình, từ tin tức quốc tế đến tin chó cắn xe, xe cán chó, từ hài kịch với giọng cười the thé, đến bi kịch với tiếng khóc tỉ tê não nề. Ngày xưa, các cụ mình truyền kinh nghiệm rằng đàn bà chóng già hơn đàn ông, nên phải lấy vợ trẻ để bù trừ:

 

Giai ba mươi tuổi đương xoan,
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.

 

Tôi cũng biết được cái mánh khóe này, nên đã chọn cô vợ trẻ hơn tôi 10 tuổi. Khi đó, có người lại còn xúi dại bảo tôi chọn một cô trẻ hơn những 15 tuổi, nhưng tôi hổng dám, vì lấy vợ trẻ quá, sợ rằng cưới về mất công mua ô mai thí dỗ suốt ngày đêm thì cũng phát mệt! Vậy mà sau này em vẫn còn hậm hực trách móc:

 

Ngày xưa bé nói yêu anh,
Anh chê bé nhỏ, bé không biết gì.
Ngày nay bé đã dzậy thì,
Anh khen bé đẹp, bé chê anh... già!

 

Ấy là tôi nói chuyện đàn ông có vợ trẻ thì nó sung sướng hạnh phúc như thế đấy! Nhưng các bà thì không hẳn như vậy đâu. Đừng có bà già nào dại dột đi lấy chồng trẻ nhá! Các cụ ta đã dạy rằng:

 

Chồng già vợ trẻ là tiên,

 

Vợ già chồng trẻ là duyên con bò.

 

Con bò mà duyên dáng cái nỗi gì. Ta thường nghe nói: "Ngu như bò!" Đã ngu thì làm sao mà có duyên được. Thành ra cái con bò được xếp vào loại vừa ngu vừa vô duyên. Ai muốn biết duyên con bò nó ra làm sao thì cứ nhìn vào Hoàng Tử Charles của nước Anh là thấy liền. Ông Hoàng đang có vợ trẻ Diana xinh như mộng, đẹp như mơ, thế mà lại sinh chứng, hất hủi nàng, để rồi tằng tiu lấy phải ngay mụ già Camilla đã có chồng hai con. Thế chẳng phải là ngu, giống như duyên con bò là gì?

 

Hiền thê của Trung Tá Bạch còn rủ vợ chồng tôi gia nhập câu lạc bộ Cao Niên để mỗi ngày đến đó tập tài chi, ăn trưa và kể chuyện đời với mấy lão ông và lão bà. Nhưng vì mỗi tuần tôi vẫn thường vào Viện Dưỡng Lão thăm ông già tôi, nên không còn giờ để hưởng thêm không khí già nữa! Bố tôi tuổi Bính Thìn, sinh năm 1916, tức năm nay vừa tròn 90 tuổi. Ông cũng là một Sĩ Quan Cảnh Sát và năm 1975, ông không muốn bỏ quê hương đi theo các con, nên cũng bị đưa vào nhà tù cải tạo của Việt Cộng, đọc đủ 5 cuốn lịch, đến nỗi đui luôn một con mắt, còn con kia chỉ còn thấy được 2/10. Mỗi lần vào thăm ông, tôi cảm nghiệm thấy hình ảnh tương lai gần kề của đời mình. Lòng tôi tự nhiên chùng xuống! Ai công hầu, ai khanh tướng? Ưu tư, phiền muộn, công danh, sự nghiệp, tiền tài, sắc dục, nhà cao cửa rộng, xe hơi sang trọng... kể cũng bằng không! Con người khi càng về già thì càng giống con nít, từ tính nết cho đến cách sinh sống như đi đứng, vệ sinh... Các cụ già lẩm cẩm được gửi vào trong khu cấm, nghĩa là vào dễ mà khó ra. Một hôm khi tôi mở cửa vào khu cấm thì đã thấy một cụ bà chờ sẵn. Bà định lợi dụng lúc tôi mở cửa để trốn ra, nhưng tôi cản lại. Bà cụ năn nỉ:

 

- Ông ơi, ông làm ơn cho tôi về nhà để đóng chuồng bò lại. Nhà tôi có tới bẩy con bò lận!

 

Bẩy con bò cụ muốn nói là bẩy đứa con của cụ đấy!

 

Hôm khác, tôi đi ngang qua một cụ ông - chưa một lần quen biết - ngồi xe lăn ở hành lang Viện Dưỡng Lão. Vừa thấy tôi, cụ liền mắng xối xả:

 

- Đi đâu mà đi như ăn cướp vậy?

 

Lúc trở ra, tôi lại gặp cụ còn ngồi đó. Tôi đi chậm lại, mỉm cười chào thăm cụ, nhưng cụ vẫn chưa hài lòng:

 

- Ơ, cái thằng này! Ai quen biết hồi nào mà chào với hỏi? Lại còn cười nhăn răng ra nữa!

 

Tôi tự hỏi không biết sau này khi tới tuổi già như cụ, tôi có được "vui tính" giống cụ hay không? Ấy đó, chưa già mà tôi đã bắt đầu ăn nói lan man lạc đề rồi.

 

Xin được trở về với những kỷ niệm tại Học Viện CSQG. Vị Sĩ Quan Giảng Sư mà tôi thương mến nhiều nhất là cố Đại Tá Đàm Trung Mộc. Tôi được biết ông là một trong những luật gia kỳ cựu của VNCH. Ông xuất thân từ trường Đại Học Luật Hà Nội, cùng thời với các vị thẩm phán trưởng thượng và giáo sư của tôi. Hầu như tuần nào tôi cũng có dịp gặp và nói chuyện với ông. Học Viện tọa lạc tại Thủ Đức, còn chúng tôi ở Saigon, nên thường phải đi sớm để có mặt tại Học Viện trước giờ dạy học cả nửa tiếng đồng hồ, vì giảng sư bắt sinh viên ngồi chờ là điều tối kỵ. Trong thời gian chờ đợi ấy, tôi thường sang xe ông, ngồi nói chuyện. Điều làm tôi rất ngạc nhiên là khi nhắc đến các vụ án quan trọng đăng trên báo chí Saigon, ông đều chỉ trích các thẩm phán xử án, rồi ông tiết lộ: Đó là lý do ông không muốn gia nhập ngành thẩm phán, đành chọn phục vụ ngành Cảnh Sát!

 

Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi ông lại thích nói chuyện với tôi. Lúc đó, tôi chưa đầy 30 tuổi, đáng tuổi con ông và học trò của ông. Tôi đem đề tài luận án Tiến sĩ Tư Pháp viết về Vai Trò Cảnh Sát Tư Pháp để tham khảo với ông. Ông chỉ bảo tôi rất tận tình. Ông đề tặng tôi những sách luật ông viết và gọi tôi là "đồng nghiệp", nghĩa là cùng nghề dạy học! Tôi xấu hổ vô cùng, vì làm sao tôi xứng đáng là "đồng nghiệp" với ông! Trong luận án đó, tôi đã phản ảnh rất nhiều quan điểm của Đại Tá Đàm Trung Mộc. Nhưng một tâm tình độc đáo của ông đã gieo vào đầu óc tôi và thay đổi cả cuộc đời tôi sau này. Đó là lời ông căn dặn: "Xử án cũng như thể giết người. Giết lầm người thì bao nhiêu tội của phạm nhân đổ hết lên đầu mình!" Thế là tôi bắt đầu sợ nghề xử án từ đó!

 

Thêm nữa, chuyện Con Ma Vú Dài trong Khám Chí Hòa làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Hồi đó, báo chí Saigon viết nhiều bài phóng sự về vụ này. Bộ Tư Pháp cử tôi mở cuộc điều tra để nếu cần sẽ truy tố ký giả và báo chí đã dùng cơ sở của chính phủ để dựng chuyện mê tín gây hoang mang dư luận. Con Ma Vú Dài xuất hiện tại khu giam tử tội chờ ngày bị hành quyết. Nơi này có nhiều tầng lầu và được rào bằng những hàng song sắt. Tôi lấy lời khai của rất nhiều nhân chứng, từ các viên chức coi khám đến các tử tội. Họ đều xác nhận vào lúc đêm khuya thường có một thiếu nữ thân hình khêu gợi với cặp vú to hiện về làm tình các tử tội. Ngay ban ngày vào lúc vắng người đi lại thì có tiếng lắc chùm chìa khóa nghe chát chúa và rùng rợn. Vào một đêm, chúng tôi cho di chuyển một tu sĩ đang bị giam ở khu khác về khu tử tội này để trắc nghiệm. Sáng hôm sau, tu sĩ đó vẻ mặt ngượng ngùng, xấu hổ nói: "Tôi là kẻ tu hành, sao các ông lại đưa tôi về chỗ này. Kỳ quá!" Quần của ông ta ướt nhèm vì xuất tinh! Tôi kết thúc cuộc điều tra với đề nghị Bộ Tư Pháp xếp hồ sơ, không nên truy tố ai trong vụ này. Riêng cá nhân tôi, tôi vẫn nghĩ rằng trong số các tử tội, có nhiều người bị xử oan. Người tử tội nổi tiếng nhất vào thời đó mà tôi nghĩ là không đáng bị chết, đó là ông Ngô Đình Cẩn, bào huynh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cho nên, cố Đại Tá Đàm Trung Mộc có lý để nhắc nhở tôi thận trọng khi xử án là vậy.

 

Sau ngày 30-4-1975, khi thấy không có tên Đại Tá Đàm Trung Mộc trong đoàn người tỵ nạn chạy ra nước ngoài, tôi đoán ngay những gì sẽ xảy đến cho vị sĩ quan khí phách ngang tàng này. Quả đúng như vậy! Trước khi trút hơi thở cuối cùng trong trại tù cải tạo, ông đã nhắn lại cho các bạn bè thân hữu, trong đó chắc chắn phải có các chiến hữu CSQG thương mến của ông: “Tôi trót sinh ra là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam và ước nguyện được chết trên quê hương Việt Nam. Trước sau, tôi không bao giờ tìm đường thoát thân ra nước ngoài”. Mắt tôi ngấn lệ thương nhớ và kính phục người Anh Hùng thuộc ngành CSQG: Đại Tá ĐÀM TRUNG MỘC!

 

Tính đến ngày VNCH sụp đổ, tôi vào ngành Thẩm Phán được 11 năm, nghĩa là tôi đậu kỳ thi tuyển chọn 15 Thẩm Phán lúc tôi 24 tuổi. Là một Thẩm Phán trẻ nhất của VNCH, tôi muốn dành thêm thời gian để học hành và chuẩn bị bước vào chính trường. Tôi không muốn giấu diếm để phải thú nhận điều này là khi bước chân vào Học Viện CSQG, tôi có ngay một dự tính dùng lực lượng Cảnh Sát làm nền móng cho việc trong-sạch-hóa chế độ VNCH.

 

Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 xảy ra lúc tôi đang chờ thi năm cuối cùng Cử Nhân Luật. Vì bất đồng quan điểm về đường lối chống Cộng của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ đã bật đèn xanh cho một số tướng tá lật đổ chính quyền họ Ngô. Giết anh em ông Ngô Đình Diệm đã là sai lầm, mà việc dùng những tướng tá đảo chánh này để điều khiển guồng máy chính trị quốc gia, lại còn sai lầm hơn nữa. Các tướng tá Việt Nam hầu hết chỉ tốt nghiệp trường huấn luyện quân sự, chứ không học cách làm chính trị và điều khiển quốc gia, cho nên chính trường miền Nam sau ngày đảo chánh trở nên bất ổn và đi đến chỗ suy sụp là chuyện đương nhiên.

 

Sau biến cố nổi dậy của Phật Giáo miền Trung năm 1966, tôi trở về làm việc tại Bộ Tư Pháp và tham gia Ủy Ban tổ chức đại hội Thẩm Phán toàn quốc. Theo chương trình, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đến chào mừng đại hội. Bộ Tư Pháp soạn sẵn bài diễn văn đệ nạp cho văn phòng Chủ Tịch. Đến ngày đại hội, tôi hết sức ngạc nhiên vì Tướng Kỳ không dùng bài diễn văn soạn sẵn của Bộ Tư Pháp, mà ông lại nói theo ý ông. Một ông Tướng không hề có kiến thức gì về luật pháp mà dám đứng trước cả trăm thẩm phán để nói truyện buông về pháp luật thì quả là một điều hết sức khôi hài. Hôm đó, Tướng Kỳ đúng là một "tên hề múa rối luật pháp". Một sinh viên sĩ quan Học Viện CSQG chắc chắn nói về luật còn hay hơn ông. Sau đại hội, các thẩm phán lắc đầu ngao ngán, coi là bị nhục mạ khi phải ngồi nghe tuồng "Tướng Râu Kẽm múa rìu qua mắt thợ"!

 

Từ ngày đó, tôi trông chờ các tướng lãnh sớm nhận ra khuyết điểm của mình và trả lại chính trường cho hàng ngũ dân sự, để may ra còn cứu vãn được tình trạng suy sụp của đất nước chăng?

 

Người Trung Hoa có câu: "Nhất niên chi kế, mạc như thọ cốc; thập niên chi kế, mạc như thọ mộc; bách niên chi kế, mạc như thọ nhân", nghĩa là: "Kế hoạch cho một năm, không gì bằng trồng lúa; kế hoạch cho mười năm, không gì bằng trồng cây; kế hoạch cho trăm năm, không gì bằng trồng người". Tôi cố gắng trồng những cán bộ tốt là những sĩ quan Cảnh Sát đa năng đa hiệu với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, để làm những cột trụ xây dựng ngôi nhà Việt Nam.

 

Tôi mơ một ngày VNCH có được một vị Tổng Thống đức độ, trong sạch. Lúc đó, Lực lượng Cảnh Sát chỉ cần cung cấp cho Tổng Thống 50 Sĩ Quan Cảnh Sát thanh liêm, trí thức để điều khiển 50 Ty CSQG thuộc 50 tỉnh của Miền Nam. Cùng sát cánh với các Trưởng Ty CS, còn có các Trưởng Cuộc Cảnh Sát là những sinh viên ưu tú xuất thân từ Học Viện gửi về phục vụ tại các làng xã là đơn vị nhỏ nhất của guồng máy chính trị quốc gia. Bước đầu được như vậy là kể như con ma tham nhũng đã bị đâm trúng huyệt, để rồi sẽ chết dần dần. Tham nhũng là quốc nạn đã làm suy yếu mọi tiềm năng hoạt động của VNCH. Từ sau ngày đảo chánh, con ma tham nhũng ấy có đầu giấu ở Dinh Độc Lập và mình mẩy tứ chi trải dài khắp các quân khu, bộ phủ, rồi lại được các phu nhân bú mớm cho thì hỏi rằng đất nước hơi sức đâu mà trị trong dẹp ngoài? Mất nước về tay Cộng Sản Bắc Việt là điều không thể tránh khỏi.

 

Lực lượng Cảnh Sát ở nước nào cũng vậy. Khi có chuyện thì dân nhờ cậy và coi là "Bạn", nhưng xong việc rồi, người ta lại ghét Cảnh Sát và mắng mỏ đủ điều, coi như "Thù". Tác giả viết tuồng cải lương "Ông Cò Quận 9" dựng ngay chuyện thê thiếp bê bối, con rơi con rớt gán cho ông Cò Quận 9. Tuy rằng lúc viết chuyện, Saigon chỉ có 8 quận, nên tác giả đặt tên là ông Cò Quận 9, có ý muốn nói đây chỉ là chuyện giả tưởng. Nhưng sau này Saigon có tới 11 Quận và các ông Cò mới này biết đâu lại chẳng dữ dằn hơn ông Cò Quận 9 nữa. Nhắc lại câu chuyện văn nghệ này để chứng minh rằng nghề Cảnh Sát vinh ít nhục nhiều.

 

Trong lớp học, tôi trình bày rất kỹ cho các khóa sinh nguyên tắc luật pháp về quyền tự vệ chính đáng. Mỗi khi mặc vào người sắc phục Cảnh Sát tức là bước ra chiến trường, nơi người Cảnh Sát trở nên mục tiêu cho gian nhân, tội phạm rình rập tấn công. Khi bị tấn công nguy hiểm đến tính mạng, người Cảnh Sát được quyền tự vệ. Một Cảnh Sát bị kẻ phạm pháp bắn gục tức là một phần thân thể tổ quốc bị tổn thương, và xã hội bị rối loạn. Khi nào Cảnh Sát phải nổ súng tự vệ thì kẻ phạm pháp phải chết và chết liền, vì nếu không, Cảnh Sát cũng bị đối phương giết chết. Có nhiều lần dân chúng hạch hỏi: Tại sao Cảnh Sát không bắn kẻ tình nghi bị thương thôi, mà lại phải bắn chết? Không, không có trường hợp nào Cảnh Sát được dạy chỉ bắn bị thương. Bắn bị thương là chưa đến mức nguy kịch, mà chưa nguy kịch thì không được bắn. Đã bắn là có nguy kịch. Và đã bắn là đối phương phải chết ngay tức khắc. Lý thuyết là như vậy, nhưng thực tế, người Cảnh Sát nhiều khi chỉ có một giây để quyết định bắn hay không bắn. Vì thế nhiệm vụ người Cảnh Sát thật là khó khăn và thường bị ghét nhiều là vậy!

 

Truyện kể rằng ngày kia Đức Phật đứng trước cửa Niết Bàn để tiếp đón chúng sinh vừa lìa đời.

 

Một Đại Đức đến gần Đức Phật, quỳ gối xá lia lịa:

 

- Mô Phật, xin Ngài mở cửa Niết Bàn cho con vào.

 

Đức Phật hỏi:

 

- Căn cứ vào đâu mà con xin Ta nhận vào Niết Bàn?

 

- Bạch Thế Tôn! Cả cuộc đời con đã cúng dường Tam Bảo. Con ăn chay, tụng niệm suốt 50 năm trường và không hề sát sinh từ hồi quy y.

 

Đức Phật mỉm cười:

 

- Con ơi, đó là con mới chỉ tu cho con thôi. Tu hành đắc đạo không những là biết giải thoát cho chính mình mà còn phải cứu khổ chúng sinh nữa. Con có biết không? Những lúc con thuyết pháp thì Phật tử ngồi ngủ gà ngủ gật, tâm họ không giác ngộ và trí họ cũng không tìm đến cõi Phật. Điều đó chứng tỏ con chưa hoàn tất nhiệm vụ hoằng pháp. Vì thế, con chưa thể vào Niết Bàn được. Ta sẽ cho con đầu thai kiếp khác nhá!

 

Đến lượt một ông Tướng mặc quân phục trắng, đeo găng tay trắng, ngực gắn đầy huy chương, tiến đến kể công với Đức Phật:

 

- Mô Phật! Hồi còn ở trần gian, con mang cấp bậc Thiếu Tướng. Con vào sinh ra tử để bảo vệ quê hương xứ sở và đồng bào con. Con là con của Phật. Vậy xin cho con được vào Niết Bàn với Ngài.

 

Đức Phật cũng ôn tồn trả lời:

 

- Con ơi, không phải hễ cứ xưng mình là con Phật tức là được Phật nhận làm con ngay đâu. Con còn phải sống sao cho đúng là con Phật. Bao lâu con ăn nói vung vít, con chơi bời trác táng, gây phiền lụy khổ đau cho nhiều người thì bấy lâu con chưa xứng đáng làm con Ta đâu. Hãy đầu thai làm kiếp người lần nữa xem công phúc của con ra sao, rồi hãy tính!

 

Từ nãy đến giờ, ông Cò Quận 9 nghe hết câu chuyện của Đại Đức và ông Tướng, nên sợ run cầm cập. Ông nghĩ rằng vị Đại Đức tu đã thành quả, còn ông Tướng nhiều công trạng như vậy mà còn bị từ chối vào Niết Bàn, thế thì làm sao ông ta có thể lọt vào được? Ông sợ hãi rón rén đến phủ phục dưới chân Đức Phật, không dám thưa thốt lời nào.  Đức Phật hỏi:

 

- Con là ai, làm nghề gì dưới trần thế ?

 

- Nam mô a di đà Phật. Con là Cò Quận 9, bến Saigon, nước An Nam. Con biết mình tội lỗi, xin Đức Phật thương độ trì cho con.

 

Đức Phật dìu ông Cò đứng lên, an ủi:

 

- Ta biết rằng ông Cò có số đào hoa, năm thê bẩy thiếp ở cõi trần, nhưng ân đức cứu khổ chúng sinh của con cũng khá nhiều. Nguyên cái việc con giúp đỡ dân mà còn bị dân mắng mỏ là con đã đáng được ân thưởng rồi. Chưa hết! Người nào ngồi lên xe Cảnh Sát của con cũng biết sợ, liền đấm ngực ăn năn xám hối và đọc kinh cầu Phật. Vậy nợ trần gian con đã trả xong. Con đã thành Phật. Hãy vào Niết Bàn để được tiêu diêu miền cực lạc với Ta!

 

- Mô Phật!

Kỷ niệm 40 năm thành lập Học Viện CSQG.

Atlanta Du Ký

Kỷ niệm chuyến đi từ ngày 8 đến 12-6-2006

  * Thăm Hội Ái Hữu Cựu CSQG Georgia

Đáp lời mời của Hội Ái Hữu Cựu Cảnh Sát QG Georgia, mình đến thành phố Atlanta rừng núi um tùm, để thuyết trình về “Chuyện Một Tấm Hình Oan Nghiệt”, tức tấm hình lịch sử Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG/VNCH bắn Đại Úy đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Lém. Lúc đầu, mình cứ tưởng phi trường Atlanta đại khái cũng nhỏ nhắn, dễ tìm giống như San Jose này, nhưng lầm to! Xuống phi cơ rồi mới tá hỏa tâm thần, sao mà nó mênh mông bát ngát thế này. Làm sao biết anh em Cảnh Sát phe ta đi đón ở phương trời nào đây? Thân già lọm khọm kéo chiếc vali giữa đoàn hành khách đông nghẹt và vội vã. Càng đi càng thấy như xa cửa... Thiên Đàng. Đi bộ mất gần nửa tiếng. Lúc đầu còn hăng hái vừa đi vừa hát theo nhịp quân hành: “Đường trường xa... Ta kéo vali lên rừng!” Nhưng rồi mồ hôi bắt đầu lã chã trên trán. Lo lắng! Tìm chỗ gọi điện thoại công cộng, nhưng đi hoài mà chưa thấy. Bỗng dưng từ đàng xa hiện lên một biểu ngữ nền vàng chữ xanh vĩ đại: “Hội Cựu Cảnh Sát Quốc Gia Georgia Chào Mừng Thầy Trần An Bài”. Thấy chưa? Trời đâu có phụ người tình xa! Nghe đâu, đứng chờ lâu đã có người mất kiên nhẫn định chia nhau tan hàng đi tìm “ông già lạc”, nhưng Cò Trần Quang Sang ngăn cản: “Đừng có lo! Tôi biết Thầy tôi mà! Thả ông vào rừng ông cũng biết tìm đường ra!”


 Tay bắt mặt mừng tại Phi Trường Atlanta

 

Cò đầu đàn Nguyễn Văn Nhì thật là chu đáo trong việc tiếp đón: Nào là biểu ngữ, tặng hoa, quay phim, chụp hình. Trong số những người có mặt tại phi trường trong ngày làm việc, một số mình biết, nhưng số đông thì chưa biết: Cò lớn: Nhì, Nhàn, Lòng, Lai, Hưởng. Các Cò non K6: Mãng, Sang, Việt, Ninh. Lại còn có thêm ba Cò nữ: Nhì, Nhàn và Phượng! Khi về tới tiệm ăn của nhà văn Dương Thanh thì có thêm Cò Niệm, Cò Trọng Võ và Cò Thanh K6.

Ngày hôm sau, thứ Sáu, buổi sáng, cò Mãng dẫn đi xem trụ sở đài truyền hình CNN và Công Viên Thế Vận Hội Quốc Tế Atlanta.

 

Thăm tổng Đài CNN

 

Đến tối, được tham dự bữa tiệc thân mật để chào mừng anh em và đặc biệt cũng là để chúc mừng một con em gia đình Cảnh Sát đã thành tài. Đó là cô Nguyễn Thị Vân Chi, con gái của Cò Nguyễn Trọng Việt Khóa 6 vừa đậu bằng Dược Khoa và Cao Học Kinh Doanh. Đây là những công dân Việt trẻ tuổi, đang sinh sống và lập nghiệp tại Kỳ thứ tư của Việt Nam. (Nên nhớ nước Việt Nam hiện nay có 4 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Hoa Kỳ). Trong bữa tiệc này, ngoài một số những ông Cò đã gặp tối hôm qua tại phi trường, lại có thêm một số thân hữu khác nữa: Cò lớn Thủy, Cò lớn Phùng và phu nhân, Dược sĩ Bích, Cò Bành Kim Hoàng, Lê Văn Hoàng và Võ Hữu Tòng.

 

Tiệc Mừng tối thứ Sáu, 9-6-06

Trong bữa tiệc này, Cò Nhì tặng mình chiếc bút có khắc chữ “Hội Cảnh Sát QG Atlanta”. Mình hứa giữ kỹ kẻo viết nhiều hết mực. Cò Mãng quả quyết: “Mực Cảnh Sát lúc nào cũng dồi dào. Viết hoài còn hoài”. Nhưng Cò Nhì lại có vẻ hơi bi quan: “Có đôi khi viết không ra mực đấy!”

 

* Ngày Truyền Thống CSQG

Tuần trước, mình đã tham dự “Ngày Truyền Thống CSQG” tại San Jose. Thật vô cùng trang trọng và đông đảo. Lực lượng CSQG bao giờ cũng đứng hàng đầu trong việc tổ chức linh đình các ngày đại lễ. Ngày Truyền Thống tại Atlanta tuy ít người hơn, vì quân số tại đây làm sao bằng “Thủ Phủ Chính Trị” được, nhưng tình chiến hữu và lòng hăng say thì đâu cũng vậy, không thua gì San Jose. Trong khi một số các hội đoàn ở đây thiếu tình đoàn kết thì Hội CSQG vẫn đi tiên phong trong tình hợp nhất và yêu thương.

Sau phần bá cáo tình hình hoạt động của Hội trong năm qua, bài thuyết trình “Câu Chuyện Tấm Hình Oan Nghiệt” là trọng điểm. Mình vẫn có cảm tưởng rằng đứng trong hàng ngũ kẻ thất trận đã buồn rồi, nhưng lại phải nghe các cựu chức sắc VNCH cắn cấu nhau, càng buồn thêm! Lâu lâu cứ thấy các bậc đàn anh thua trận tung ra những tập nhật ký tự ca tụng mình là giỏi giang, không có trách nhiệm gì trong việc làm mất nước, rồi đổ hết trách nhiệm cho người khác... Thậm chí còn có những cấp chỉ huy đổ lỗi cho cả thuộc cấp, rồi đòi trả cái này hay trả cái kia cho mình nữa... Coi chẳng giống con giáp nào cả! Riêng mình chủ trương rằng hãy đứng thẳng, nhìn thẳng vào mặt quân thắng trận và cho họ biết rằng những tên đặc công vô kỷ luật, tàn ác, giết hại đàn bà con nít thì phải bắn thôi!

 

Thuyết trình “Chuyện một tấm hình oan nghiệt”

 

Điều làm mình băn khoăn nhất là không biết các thính giả có chấp nhận và hiểu rõ ý nghĩa hình ảnh và việc làm của Tướng Loan khi hành quyết tên đặc công Cộng Sản ngay tại đường phố hay không. Nhưng thật lạ lùng! Sau khi xem khúc phim Tướng Loan nổ súng và tên đặc công nằm dãy chết trên đường, bà con vỗ tay rầm rầm. Họ tán thưởng việc làm của Tướng Loan như một hiệp sĩ đã hạ sát một tên tội đồ để cứu sống bao nhiêu dân lành vô tội. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là chính các quý phu nhân, như bà Phán, bà Nhàn, bà Phượng, bà Việt... còn hăng hơn nữa! Bà Phán nói: “Không phải một tên Bảy Lốp đó, mà 10 tên như vậy, tôi cũng bắn bỏ! Giết một tên hung bạo để cứu sống bao nhiêu người hiền lành thì tại sao không giết?” Nghe các bà nói, mình khấp khởi mừng thầm. Đúng là các bậc anh thư, con cháu Bà Trưng, Bà Triệu!

 

Những bông hoa Tri Ân tặng Hậu Duệ Bà Trưng, Bà Triệu

Ai cũng tưởng các bà vợ ông Cò hiền thục, nhu mì, không biết chuyện chính chị chính em, mà chỉ biết thờ chồng nuôi con. Nhưng sau những năm tháng gánh gạo nuôi Cò, bây giờ mà nói tới Cộng Sản là biết tay các bà liền:

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Anh đi cải tạo nước non Cao Bằng

Một phu nhân tâm sự: “Em lấy chồng năm 20 tuổi. Ở với chồng mới được 5 năm và có 3 mụn con thì phải xa chồng tới 13 năm. Chồng ở tù về, lại lo cho đi vượt biên, mãi 7 năm sau mới được đoàn tụ. Tới lúc đó, em vừa chẵn 45 tuổi. Đời con gái đã xế chiều rồi còn gì. Gần chồng mới thực sự chỉ có 5 năm mà phải mừng Ngân Khánh Hôn Nhân tới 25 năm.” Hèn chi mà các bà không hận Cộng Sản! Có điều đặc biệt là khi được hỏi nếu bây giờ chồng bị đi tù cải tạo một lần nữa thì các bà có chịu quang gánh nuôi Cò lần hai không thì tất cả các bà đều dãy đành đạch, nhất định em chả, em chả:

- Bây giờ mà anh ấy đi tù thì em cho chết luôn ở trong đó cho chừa!

Bèn có tiếng trả lời đâu đó rằng:

- Nói dzậy mà không phải dzậy đâu! Ai ngu gì mà đi tù lần nữa! Không nuôi chàng thì em ở với ai?

                         Mỹ đen, Mễ lậu, Hát Ô
             Trong ba chàng ấy, em ô kê chàng nào?

 

Niên Trưởng Nguyễn Văn Nhì tặng quà lưu niệm

 

Hoa Đẹp - Người Đẹp

Cò Mãng phụ trách phần chiếu phim trong bài thuyết trình kể rằng: Hương hồn Tướng Loan linh thiêng lắm. Rõ ràng anh bỏ vào trong chiếc máy DVD hai chiếc đĩa, mà khi gần đến giờ thuyết trình, mở ra chỉ còn một. May mà còn có đĩa phòng hờ. Đến sau về nhà, anh mở tung máy ra thì có tới mấy chiếc đĩa bị kẹt trong đó. Anh không hiểu sao máy vẫn chạy được. Nếu mà phần chiếu phim bị trục trặc thì bài thuyết trình kém hào hứng rất nhiều.

 

Ban Tổ Chức Ngày Truyền Thống CSQG – Atlanta

 

Đến chiều, mình được cò Lòng dẫn đi ngoạn cảnh “Stone Mountain”. Từ đỉnh núi nhìn xuống, mình cứ tưởng như sắp sửa được tới cửa Thiên Đàng!

 

Trông vậy mà đầu gối đang run đấy!

 

* Họp Mặt Khoá 6 Cảnh Sát

Nhân chuyến thăm Atlanta, các chú Cò trẻ thuộc Khóa 6, trung bình tuổi mới 5 bó, tổ chức buổi họp mặt tại nhà cò Mãng. Khóa 6 ở đâu cũng vậy. Gặp nhau là ồn ào, lắm chuyện, dứt nhau không ra. Đúng như phu nhân Cò Trần Xuân Thái đã nói một câu bất hủ để đời: “Em biết anh có thể bỏ em được, nhưng các anh không bao giờ bỏ nhau đâu!” Điểm lạ kỳ là làm sao các phu nhân K6 chỗ nào cũng đều công dung ngôn hạnh mười phân vẹn mười. Thành ra hễ họp nhau là vui như Tết!

Mình chúc mừng anh em họ Trần ở Atlanta đã làm ăn khấm khá, vì khi đến phi trường mình thấy có nhiều máy bay mang hiệu “AirTran”. Mình hỏi bao giờ mới được đi máy bay hãng Trần “free”. Anh em nói, phải chờ để hoàn tất thủ tục sang tên.

 

Trần Quang Sang khui rượu mừng

 

Cò Sang và phu nhân

Bắt đầu buổi họp mặt, cò Trần Quang Sang - lúc bình thường trông rất đạo mạo, nhưng đến chuyện cũng tếu dễ sợ - đứng nghiêm bắt tay chào mình theo kiểu nhà binh: “Xin chào Sư Phụ”. Xong, cò Sang liền kể chuyện có một Sĩ Quan nọ, gặp đoàn dê đi ngang, bèn dơ tay chào kính chú dê đực rất nghiêm chỉnh: “Chào Sư Phụ!” Một bạn đồng nghiệp hỏi viên Sĩ Quan: “Khi không mà lại đi giơ tay chào con dê như vậy?” Sĩ Quan liền nghiêm nghị giải thích: “Trên đời, tớ chưa thấy ai ngon lành như chú dê đực này. Mỗi sáng, chú đứng trước cửa chuồng, mỗi nàng dê cái ra khỏi chuồng là chú dê đực tặng cho một quả. Đàn dê cái đông như vậy mà chú chẳng thấy mệt, chẳng bỏ sót một con dê cái nào, cũng chẳng thốt ra một lời than van. Lại còn lăng xăng chạy lên chạy xuống ra cái vẻ ta đây còn sung sức lắm. Thế chẳng đáng là Sư Phụ thì là cái gì?” Mình nghĩ bụng: “Cái ông cò Sang này có lý lắm chứ! Phải chi mình được như “Sư Phụ Dê” thì phê biết mấy!”

 

Cò Hưởng trích dẫn Chinh Phụ Ngâm

Tiệc bắt đầu. Rượu được khui. Chai rượu quý Royal Crown do vợ chồng Cò Trần Thế Duy cung cấp. Cò Duy là chủ tiệm rượu to vào bậc nhất nhì ở Atlanta. Loại rượu này ngày xưa Tổng Thống Thiệu rất thích. Phải công nhận rượu ngon thật. Uống rất đầm và không nhức đầu. Cò Sang rót ra đầy ly và chuyền cho bàn các Cò nữ, bắt phải luân phiên uống cho hết. Ấy thế mà hết thật. Tiếng vỗ tay vang dội. Cò lớn Hưởng (K3) bèn lên tiếng ca tụng các bà đã có thời đi thăm nuôi chồng trong trại cải tạo bằng những vần thơ trong Chinh Phụ Ngâm:

Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thấm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.

 

 

 Rượu nào là rượu chẳng say

 

Cò Mãng kể chuyện “Bắt Cá Ông Công”. Số là một Sinh Viên Khóa 6 gác ban đêm gần hồ cá. Anh chàng này “điên” hay sao mà đêm đó lại dám bắt hai con cá kiểng của Đại Tá Viện Trưởng Trần Minh Công để nướng ăn. Dĩ nhiên, chuyện gì phải tới sẽ tới khi Đại Tá thấy mất hai con cá quý của mình. Mới đây khi gặp lại Đại Tá, anh xum xoe:

- Chào Đại Tá! Đại Tá còn nhớ em không?
Đại Tá Công ngần ngừ:
- Ừ, trông quen quen, nhưng lâu ngày quá, chưa nhớ ra!
- Em là Sinh viên Khóa 6 đây mà. Em là người bắt hai con cá của Đại Tá ăn thịt và bị Đại Tá cho lãnh mấy củ đó!

Đại Tá Công cười khoái chí, ra vẻ mừng rỡ lắm:
            - À! Vậy hả? Nhớ rồi!

 

Cò Mãng kể chuyện “Bắt Cá Ông Công”

Cò Phùng Khắc Sinh sau khi xổ một “tràng thơ”, bèn nói nhỏ với mình: “Em nhớ buổi học cuối cùng, thày trò mình trao đổi địa chỉ hẹn hò mà! Nhà thày ở đường Thánh Mẫu.” Mình phục tài ông Cò này có trí nhớ lạ lùng. Anh em K6 kể nhiều kỷ niệm, nhưng chưa thấy ai nhớ địa chỉ của mình. Cò Sinh này khôn thật. Không thuộc địa chỉ mình thì khi hữu sự, biết làm sao tìm được mình.

 

Gia đình Phùng Khắc Sinh

Anh em chĩa mũi dùi vào Cò lớn Thủy, Tiểu Đoàn Trưởng khóa sinh. Chuyện kể rằng: Cái vui nhất của cuộc đời sinh viên trong quân trường là tấm giấy phép. Vậy mà cứ cuối tuần, Cò Thủy mới bắt đầu ra tay kiếm chuyện. Có lần Cò Thủy quệt tay lên cánh quạt trần, ngón tay đen ngòm, thế là cả đại đội bị cúp phép vì ở dơ. Buồn như trời sụp! Cò Thủy bèn thanh minh: “Thì chỉ giam phép vài tiếng thôi, chứ đâu có cúp phép luôn cuối tuần đâu mà sợ! Còn khoan hồng chán!” Anh em thông cảm. Quân trường mà không phạt thì đâu phải là quân trường!

 

Cò Thủy: “Giam phép vài tiếng cho vui ấy mà!”

Cò Nguyễn An Ninh, con người nổi tiếng là thầm lặng, bị Cò nữ mét: “Thày nghĩ coi: Hồi đó, anh ấy cứ đón em ở trường và theo hoài. Anh ta chẳng nói với em được một lời, mà chỉ đi theo thôi. Em cũng không biết anh theo em để làm cái gì. Thú thực với thày em rất ghét Cảnh Sát, mà anh ta cứ theo em hoài.” Mọi người cười khoái chí, chờ câu trả lời của cò Ninh. Nhưng cóc vẫn chưa mở miệng. Mình hỏi: “Thế bây giờ chị đã biết anh ấy theo để làm gì chưa?” Chị bẽn lẽn: “Em cũng không biết nữa!” Một hồi lâu, hũ gạo mới mở nắp: “Cảnh Sát chỉ hành động chứ không nói!” Mình nghĩ bụng: “Cò Ninh nữ khôn tổ trác. Người vợ nào cũng ước mong: Giá chồng tôi chỉ nói 1/10 những gì anh nói thì sung sướng biết bao. Còn chồng thì mong ước: Giá mà mình nghễnh ngãng đi khoảng 9/10 thì cuộc đời thật hạnh phúc!” Cò Ninh nữ lấy được ông chồng nói ít làm nhiều thì như trúng số rồi, còn kêu ca gì nữa!

 

Cò Ninh: “Cảnh Sát chỉ làm chứ không nói!”

Đến lượt Cò Trần Thế Duy nữ than thở: “Ngày xưa trước khi cưới, nhà em tán tỉnh rằng: Sau khi lấy em về, em sẽ là “mẹ anh”, theo đúng bài thơ thày viết trong Đặc San kỷ niệm 40 năm thành lập Học Viện: Khi nào lỡ bước sa chân, Vợ như là mẹ, ân cần sớm hôm. Nhưng em đã lầm, khi lấy nhau rồi, anh ta là “ông nội” em.” Mình phải biện minh cho Duy rằng: “Sở dĩ Duy phải lên chức “ông nội”, vì trong nhà chắc đã có người lên chức “bà nội” rồi!”

 

Gia đình Cò Duy: “Ai là nội của ai đây?”

Cò Châu thì nhắc mọi người vui chơi, nhưng đừng quên các đồng bạn còn kẹt nơi quê nhà: “Rau răm ở lại chịu nhiều đắng cay!” Quả thực, đây là mẫu người đáng yêu, lúc nào cũng nghĩ tới anh em. Mình biết K6 hàng năm vẫn có những chương trình quyên góp để giúp đỡ các bạn cùng khóa bên Việt Nam. Họ còn lập ra một diễn đàn “K6 Việt Nam” để liên lạc thường xuyên với nhau mà!

Nghe nói cò Châu có trại gà lớn lắm ở Atlanta. Chuyến sau nhất định phải đi coi. Nhắc đến trại gà, mình chợt nhớ đến câu chuyện vị Tổng Thống thứ 30 của Hoa Kỳ, ông Calvin Coolidge (1872-1933). Một lần kia ông và phu nhân đi thăm một trại gà. Chủ trại chỉ vào một chuồng và nói nhỏ với phu nhân: “Thưa bà, chuồng này nhiều gà mái, nhưng chỉ có một con trống. Bà thấy con trống nhỏ nhỏ vậy mà dữ tợn lắm đó. Mỗi ngày nó có thể đạp mái một hơi tới mười lần.” Phu nhân ngạc nhiên, ra vẻ đăm chiêu, rồi nói nhỏ với chủ trại: “Anh phải đến gặp ngay Tổng Thống và kể cho ông ta nghe chuyện này nhá!” Viên chủ trại vâng lời, nhanh nhẹn tiến đến gần TT. và giới thiệu con gà trống. Anh còn thật thà thưa với TT. là phu nhân bảo anh kể chuyện này cho ông. TT. Coolidge nghe xong, gật gù có vẻ khoái chí lắm. Ông hỏi chủ trại:

- Thế, nó đạp mái mười lần với cùng một con hay với mười con khác nhau?
            - Dạ, mười con khác nhau.

TT. Coolidge hóm hỉnh vỗ vai chủ trại:

- Anh hãy gặp vợ tôi và cho bà ta biết cái chi tiết khá quan trọng này!

Câu chuyện “Trống Đạp Mái” nhằm bổ túc câu chuyện “Chào Sư Phụ” của cò Sang đấy nhá!

 

Cò Châu: “Rau răm ở lại chịu nhiều đắng cay”

Cò Mừng dáng người phong nhã thư sinh, nổi tiếng là hiếu đễ. Đi tù cải tạo mà lại bị giam chung cùng một phòng với bố. Nhìn thấy cảnh cha bị biệt giam, cò Mừng đứt từng khúc ruột. Cha mình bị tù đã là đau khổ, nhưng chính mắt mình phải nhìn thấy cảnh cha bị xiềng xích biệt giam, nỗi khổ trở nên lũy thừa.

 

Cò Mừng, người con hiếu thảo

Nhìn thấy đám Cò em vui đùa thoải mái, Cò lớn Nhì khuyến khích: “Hãy cứ vui đi! Năm năm, sáu tháng, bẩy ngày”. Suy nghĩ mãi mới hiểu được ý nghĩa thâm thúy của câu nói. Tuổi 5 bó thì có thể tính chuyện bằng năm. Tuổi 6 bó thì mỗi tháng cuộc đời có thể đổi thay. Còn tuổi 7 bó thì ngày trước ngày sau có thể ra khác rồi! Ôi, cuộc đời vắn vỏi là thế đó! Mình cố níu kéo thời gian và xin sửa lại: “Bẩy năm, tám tháng, chín ngày” cho đời dài thêm và hy vọng thêm một tí nữa!

 

Cò Nhì (phu nhân ngồi bên phải): “Năm năm, sáu tháng, bẩy ngày”

Ngày họp mặt được kết thúc bằng màn cắt bánh. Chiếc bánh này do bàn tay nội trợ khéo léo của Cò nữ Nguyễn Trọng Việt trang trí, với hàng chữ “Kính Mừng Thày Bài - CSQG K. 6 - ATL”. Quả là đúng ý mình quá chừng chừng! Đã từ lâu, mình đến sinh hoạt với K6 và đã hoà nhập, trẻ trung, để trở thành một SVSQ K6 hồi nào không hay.

 

Chiếc bánh và bó hoa hồng ân tình của gia đình Nguyễn Trọng Việt

 

Gia đình Cò Nguyễn Trọng Việt và phu nhân cò Mãng

Cuộc vui nào rồi cũng có lúc phải tàn. Anh em chia tay trong niềm luyến tiếc. Nhà cò Mãng ngổn ngang đầy bát đĩa, ghế bàn... Thế mà Cò Mãng nữ vẫn vui vẻ như không có gì: “Nhà em tiệc tùng hoài à! Nhưng chưa bữa tiệc nào vui như hôm nay!” Mô Phật! Cám ơn những tấm lòng vàng như vậy!

 

Gia đình Cò Mãng - Một kho truyện tình “Thăm tù cải tạo”

Sáng thứ Hai, ngày 12-6-2006, trước lúc ra phi trường trở về San Jose, trời bỗng dưng tối sầm. Sấm chớp nổi lên đùng đùng. Mưa nặng hột. Gió ào ào. Chợt nhớ câu thơ: “Mình về ta chẳng cho về, Ta đổ mưa bão dầm dề sân bay”. Trước khi đi Atlanta, có bạn Khóa 6 đã viết “Y meo” cảnh giác mình phải xem kỹ vé máy bay Cò Mãng mua có phải là khứ hồi không rồi hãy leo lên máy bay. Họ sợ mình bị bắt cóc ở Atlanta. Mình trả lời: Nếu bị bắt cóc thì cũng là may. Có điều khó là cần phải kiếm cho mình một bà thổi cơm nấu nước. Cò Mãng đồng ý liền: “Một bà mà nhằm nhò gì. Ba bà cũng có ngay!” Khiếp quá! Cơn bão từ Florida thổi tới. Chẳng lẽ phải ở lại luôn Atlanta chăng? Mình mở hộp nước sâm Đại Hàn do Cò Việt tặng, làm một hơi hai chai. Thấy khoẻ khoắn lại. May quá, chuyến bay chỉ chậm lại có một tiếng. Khi vào máy bay, mình được ngồi ghế giữa. Bên phải là một bà Mỹ đen, bên trái là một bà Mễ. Mỗi bà cân nặng ... chỉ khoảng 300 pounds. Tự nhiên mình lại có hai cái gối nhung dựa đầu. Bên nào cũng êm ái như nhau. Mình ngủ một giấc thoải mái. Lúc tỉnh dậy, nghe như thoang thoảng đâu đây có mùi gì ... khen khét!

Đốc Gàn TRẦN AN BÀI

Switch mode views: