Tài liệu cũ của Saigon Echo
từ 2008 - 2012
Play
 
Giám Đốc: Tiến Sĩ Trần An Bài
  • Font size:
  • Decrease
  • Reset
  • Increase

Dệt may Việt Nam bắt đầu « nóng » lên sau TPP

hanam- nhamaydet

Công nhân làm việc tại một nhà máy dệt ở Hà Nam, 07/10/2015.
REUTERS/Kham

Trong cuộc họp báo hôm nay 09/10/2015, ông Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Công thương đồng thời là trưởng đoàn đàm phán TPP (Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương) cho biết, sau quá trình phê duyệt từ 18 đến 24 tháng hiệp định này sẽ có hiệu lực.

Tất nhiên bên cạnh lợi thế cũng có nhiều khó khăn, nhưng trong điều kiện mọi yếu tố đều thuận lợi, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng 68 tỉ đô la vào năm 2026 nhờ TPP.

 

Riêng về xuất khẩu dệt may, một tỉ đô la xuất khẩu hàng năm sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm.

Trả lời RFI Việt ngữ, ông Phạm Xuân Hồng, chủ tịch Hội Dệt may Thành phố Hồ Chí Minh phân tích thêm về tác động của TPP trong lãnh vực này.

RFI:Thân chào ông Phạm Xuân Hồng. TPP vừa hoàn tất đàm phán - tất nhiên còn phải chờ Quốc hội 12 nước phê duyệt - nhưng riêng đối với ngành dệt may, theo ông triển vọng sắp tới sẽ như thế nào?

Ông Phạm Xuân Hồng: Vừa rồi các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam rất mong đợi thông qua hiệp định TPP.
Phải nói rằng cũng hơi bất ngờ vì sự kết thúc đàm phán cuối cùng đến ngoài mong đợi. Người ta nghĩ rằng còn lâu, nhưng 12 nước đã ngồi lại và kết thúc tương đối sớm.

Dĩ nhiên ai cũng biết là từ kết thúc đàm phán cuối cùng đến khi có hiệu lực vẫn còn xa – như các nguyên thủ quốc gia nói rằng phải ít nhất 18 tháng sau thì Quốc hội các nước mới có thể phê chuẩn. Tuy nhiên nó sẽ tác động rất lớn đến dệt may xuất khẩu của Việt Nam.

Như chúng ta biết, nếu TPP có hiệu lực thì thuế nhập khẩu vào Mỹ và các nước trong TPP sẽ giảm xuống bằng 0. Đây là một lợi thế rất lớn.
Trước đây thuế nhập khẩu từ 17% trở lên, bây giờ nếu có hiệu lực sẽ xuống còn 0%.

Rõ ràng đây là thuận lợi rất lớn, đòi hỏi những quy tắc, điều kiện, tiêu chuẩn khắt khe chứ không đơn giản là tất cả mọi sản phẩm nhập vào Mỹ hay các nước thành viên TPP đều hạ xuống được bằng 0.

Thí dụ, khó nhất hiện nay là xuất xứ nguyên phụ liệu phải từ Việt Nam hoặc là một trong các nước TPP thì mới được hưởng lợi thế đó.
Hiện nay Việt Nam chỉ đáp ứng được trên dưới 20%. Như vậy 80% còn lại tính toán sao đây?

Dĩ nhiên các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có bài toán theo thời gian. Thí dụ mở rộng mối quan hệ với các nhà xuất khẩu nguyên phụ liệu từ các nước TPP – nhưng chắc không nhiều.

Rồi hiện nay Nhà nước cũng chủ trương phát triển công nghiệp hỗ trợ - tức sản xuất nguyên phụ liệu, kêu gọi đầu tư nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp Việt để đẩy nhanh tốc độ phát triển nguồn cung cấp nguyên phụ liệu từ Việt Nam.

Theo tôi có thể trong ba năm, năm năm tới, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể khai thác lợi thế đó mạnh hơn và nhiều hơn trong tương lai.
 Bên cạnh đó dĩ nhiên các doanh nghiệp đang lo là thị trường nội địa sẽ phải cạnh tranh rất dữ với các loại hàng hiệu nhập từ TPP vào đây, v.v…thì cũng là một thách thức.

Các doanh nghiệp Việt Nam cũng hiểu rằng không thể nào mình hưởng lợi không mà không gặp thử thách, không bị thiệt thòi.
Nếu mình phấn đấu vượt qua được thì sẽ khai thác lợi thế được nhiều hơn. Trước mắt là TPP tác động đến ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam tương đối thuận lợi, như tôi đã trình bày.

RFI:Được biết nguyên phụ liệu hiện nay đa số từ Trung Quốc, nếu muốn chủ động được có lẽ phải lo từ bây giờ. Như ông nói lúc nãy, trong nước chắc cũng đã có chuẩn bị việc đầu tư sản xuất nguyên vật liệu cho ngành dệt may rồi?

Không phải đến bây giờ các doanh nghiệp Việt hay chính phủ Việt Nam mới chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị trong thời gian vừa qua theo tôi đánh giá là hơi chậm, sự thúc đẩy chưa mạnh lắm.
Bây giờ vòng đàm phán cuối cùng đã kết thúc rồi, tạo ra một áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam, cho Nhà nước Việt Nam.

Tính toán bài toán sản xuất nguyên phụ liệu nhanh hơn, mạnh hơn và hiệu quả, thì tôi nghĩ rằng thời gian sẽ tương đối ngắn hơn. Nếu nhận thức được sớm thì có lẽ cho đến giờ chúng ta không ở khoảng 20-25% đâu, mà có thể đạt được hơn nữa. Nhưng bây giờ coi như là áp lực trực tiếp rồi !

Tôi hy vọng rằng với sự cố gắng của các doanh nghiệp, rồi sự hỗ trợ của Nhà nước kéo đầu tư của nước ngoài vào đây hợp tác sản xuất nguyên phụ liệu, sẽ giải được bài toán đó tốt hơn.

RFI: Còn việc làm hàng FOB ở Việt Nam, tức theo phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, chắc bây giờ đã phát triển hơn trước?

Lâu nay người ta nói thế mạnh của Việt Nam phần lớn là gia công. Trước đây thì đúng, nhưng xu thế từ hai, ba năm nay đã chuyển dần qua FOB. FOB cũng có nhiều loại, thí dụ mua nguyên liệu do khách hàng chỉ định cũng có, hoặc các doanh nghiệp tự đi tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước hoặc ở các nước Đông Nam Á chẳng hạn, để có thể chủ động hơn trong việc sản xuất ra sản phẩm, thì đã có nhiều tiến bộ rồi.

Và chính con đường đó là con đường phải đi, chứ không thể tiếp tục gia công được. Chỉ làm công thì rõ ràng không thể nào có hiệu quả, không thể nào sống êm ả với việc gia công được.
Cho nên xu hướng làm FOB rồi ODM, tức là tự sáng tác các mẫu mã, design để chào cho khách hàng, hiện nay xu thế đó đang mạnh hơn trước nhiều lắm.
Trước nay có lẽ quen với việc nhận gia công cho khỏe, nhưng bây giờ không cho phép nữa.

Sự cạnh tranh đang dữ dội, kể cả cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước cũng vậy. Nếu mình cứ làm gia công thì rõ ràng là khó, trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Cho nên bắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi cách cải thiện phương thức kinh doanh bằng FOB. Và theo tôi đánh giá, bây giờ nâng lên cũng tương đối tốt.

RFI: Trước triển vọng từ TPP, các nhà đầu tư các nước không thuộc khối này có đón đầu bằng cách đầu tư vào Việt Nam, hay có xu hướng chuyển dịch sản xuất qua Việt Nam chưa, thưa ông ?

Có lẽ trong vài năm gần đây và hiện nay, tình hình chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam để sản xuất nguyên phụ liệu tương đối rầm rộ hơn.
Vì kinh doanh ở đâu cũng vậy, chỗ nào có đầu ra, chỗ nào có lợi thế thì chúng ta phải tập trung vào đó. Các công ty, tập đoàn nước ngoài có lẽ cũng làm theo xu hướng đó.

Việt Nam vào TPP, muốn khai thác lợi thế thì người ta đầu tư vào đây để có đầu ra, mà đầu ra tương đối thuận lợi. Cho nên nó làm nóng môi trường đầu tư lên. Đó là điều cũng phù hợp với quy luật thôi.

Hiện nay sự hợp tác giữa các công ty nước ngoài với các doanh nghiệp Việt Nam tương đối là tốt và mạnh mẽ. Hy vọng từ đầu tư của Việt Nam và nước ngoài phối hợp với nhau thì việc cung ứng nguồn nguyên liệu sẽ tăng nhanh hơn.

RFI: Thưa ông, hiện giờ tình hình đã « nóng » chưa hay mới được « hâm nóng » lên một chút thôi ?

Đã « nóng » rồi, nhưng mà để « sôi » thì còn cần thời gian. Thí dụ đã có nhiều dự án triển khai, nhưng từ triển khai cho đến ra thành phẩm, và sau đó có đủ sản lượng, chất lượng để cung ứng cho xuất khẩu, còn là những bước thời gian.

Nhưng có thể nói các dự án đã rải rác, từ Nam ra Bắc đều có những dự án đầu tư tương đối lớn, có quy hoạch, và có những dự án đã khởi động tốt. Tôi tin rằng với độ nóng, có lẽ thời gian sẽ rút ngắn hơn.

RFI: Lực lượng lao động trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay như thế nào, và trong dự định sắp tới có thu dụng thêm nhiều nhân công?

Cũng có nhiều ý kiến cho là lượng lao động sẽ tăng lên nhiều. Hiện nay tổng số lao động dệt may của Việt Nam khoảng hai triệu rưỡi. Có người cho rằng đến năm 2025 lượng lao động sẽ tăng lên gấp đôi. Nhưng theo tôi có lẽ là không tăng nhiều vậy đâu - vì lao động có giới hạn, ở Việt Nam cũng chủ trương mỗi gia đình chỉ sinh hai con thôi.
Cho nên số lao động trong tương lai có lẽ cũng không tăng lên ào ạt. Các ngành khác cũng tăng, thế thì lao động ở đâu ?

Tôi nghĩ là sẽ tăng, nhưng không phải tăng gấp đôi. Vấn đề là đầu tư thiết bị, cải tiến quản lý, nâng cấp lên thì năng suất lao động sẽ tăng lên.
 Cộng cả việc tăng số lượng lao động và năng suất lao động, thì đến năm 2025 có thể kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng gấp đôi, thí dụ vậy, chứ không nhất thiết là tăng lao động.

Tôi thì lo là số lao động có giới hạn, và các ngành khác phát triển cũng cần lao động, làm sao có thể tập trung hết vào ngành dệt may.
Nhưng mà ngành dệt may phải đầu tư thiết bị. Một máy mới có thể bằng hai cái máy cũ, hiệu quả của nó cộng với cải tiến cách quản lý thì năng suất sẽ tăng lên, từ đó tăng kim ngạch xuất khẩu.

RFI: Có lẽ cần chú trọng đầu tư vào giá trị tăng thêm trong sản phẩm như tỉ lệ sáng tạo chẳng hạn…

Đúng. Nếu làm FOB (mua nguyên liệu bán thành phẩm), ODM (tự thiết kế, sản xuất và bán sản phẩm), design…tất cả những cái đó tạo ra giá trị của sản phẩm để khi xuất khẩu có giá cao hơn, chứ không chỉ có một chỉ tiêu là số lượng sản phẩm đâu.
Thí dụ năm nay mình sản xuất một triệu sản phẩm, thì năm, mười năm tới cũng chưa nhất thiết phải sản xuất hai triệu mà 1,8 triệu nhưng giá trị cao hơn.

Trong tính toán phương thức kinh doanh cũng phải tính nhiều yếu tố chứ không chỉ tăng lượng người, tăng số lượng sản phẩm.

RFI: Xin chân thành cảm ơn ông Phạm Xuân Hồng, chủ tịch Hội Dệt may Thành phố Hồ Chí Minh, đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay.


Switch mode views: