Tài liệu cũ của Saigon Echo
từ 2008 - 2012
Play
 
Giám Đốc: Tiến Sĩ Trần An Bài
  • Font size:
  • Decrease
  • Reset
  • Increase

Chuyên gia Mỹ: Việt Nam cần đấu tranh mạnh hơn trong đối sách chống Trung Quốc

bien dong lml



Thiếu tướng Lê Mã Lương phát biểu tại Hội thảo về "Vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế", Hà Nội, 06/10/2019.
copy d'ecran : youtube



Căng thẳng Hà Nội-Bắc Kinh trong vụ Bãi Tư Chính trên Biển Đông đã tạm lắng sau khi tàu Trung Quốc rời khỏi vùng biển Việt Nam trở về nước hôm 23/10/2019.

Trong bài nhận định “Việt Nam cần ‘đấu tranh’ mạnh hơn ở Biển Đông - Vietnam Needs to ‘Struggle’ More in the South China Sea”, của chuyên gia phân tích Derek Grossman thuộc trung tâm tham vấn Mỹ Rand Corporation, đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 15/11/2019.

Bài này sau đó được đăng trên trang blog của Rand Corporation,  tác giả đã không ngần ngại cho rằng chiến lược an ninh mà Việt Nam áp dụng đã không thành công trong việc ngăn chặn các hành vi bức hiếp của Trung Quốc tại Biển Đông.

Theo ông Grossman, cho đến nay, để bảo đảm lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam đã áp dụng chiến lược an ninh gọi là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với tất cả các nước – kể cả với Trung Quốc.

Trong cuộc đối đầu mới đây với Trung Quốc tại Biển Đông trong vụ Bãi Tư Chính, Việt Nam cũng đã sử dụng chiến lược cố hữu đó.
Câu hỏi đặt ra là chiến lược hợp tác và đấu tranh đồng thời đó đã được Việt Nam áp dụng như thế nào trong vụ Bãi Tư Chính.

Chuyên gia Mỹ trước hết nhắc lại sự vụ là kể từ đầu tháng 7, Bắc Kinh đã cho tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 và đội tàu hải cảnh bảo vệ tiến vào vùng biển của Việt Nam để buộc Hà Nội đình chỉ hoạt động của giàn khoan Hakuryu-5 ở gần Trường Sa.

Thoạt đầu, Việt Nam đã giữ im lặng trong gần hai tuần lễ, nhưng vô ích vì tàu Trung Quốc rõ ràng đã không rời đi.
Trong hai tháng tiếp theo, bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lần lượt đưa ra các tuyên bố càng lúc càng cứng rắn, nêu đích danh Trung Quốc là kẻ xâm lược và yêu cầu Bắc Kinh đình chỉ ngay lập tức các hành vi sách nhiễu liên tục gần Bãi Tư Chính và cho tàu chạy ngang chạy dọc trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Bên cạnh các tuyên bố, theo ghi nhận của chuyên gia Grossman, Hà Nội còn triển hạn hoạt động của giàn khoan Hakuryu 5 từ ngày 30/07 đến ngày 15/09. Tuy nhiên, các động thái của Việt Nam hoàn toàn vô hiệu đối với Trung Quốc, thậm chí Bắc Kinh còn tăng cường hoạt động trong vùng biển Việt Nam.

Và như vậy, đến tháng 10, các lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam bắt đầu lên tiếng, mà nổi bật nhất là tuyên bố ngày 15/10 của ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng Cộng Sản kiêm chủ tịch nước Việt Nam.

Theo chuyên gia Grossman, tuyên bố của ông Trọng là một ví dụ điển hình về chiến lược “vừa hợp tác vừa đấu tranh” của Việt Nam.
Một mặt, ông để mở cánh cửa hòa giải, khi kêu gọi duy trì một môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, nhưng một mặt khác, ông khẳng định sẽ không bao giờ lùi bước trên các vấn đề chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Hợp tác nhiều hơn đấu tranh

Trên đây là một số ví dụ biểu hiện vế “đấu tranh” trong đối sách chống Trung Quốc của Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính.
 Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Derek Grossman, các động thái cụ thể hóa vế “hợp tác” còn nhiều hơn.

Theo chuyên gia Grossman, Việt Nam đã cố gắng tiếp xúc với Bắc Kinh “ít nhất 40 lần” trong suốt thời gian tàu Trung Quốc hoành hành trong vùng biển Việt Nam.
Không những thế, Việt Nam còn cử bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch qua Trung Quốc tham dự Diễn Đàn An Ninh Hương Sơn của Trung Quốc, một diễn đàn an ninh đa quốc gia được Bắc Kinh dùng để quảng bá cho yêu sách của họ về Biển Đông.

Sau cùng, cũng theo chuyên gia Mỹ, Việt Nam cũng đã tách biệt vấn đề Biển Đông với các lãnh vực hợp tác khác với Trung Quốc để khỏi phương hại đến quan hệ song phương. Thậm chí Việt Nam vẫn cử tàu Cảnh Sát Biển tham gia chiến dịch tuần tra chung hàng năm với lực lượng Hải Cảnh Trung Quốc trên Vịnh Bắc Bộ (23-25/10) vốn đã được lên lịch từ trước.

Công luận quốc tế không còn quan trọng đối với Trung Quốc ?

Đến ngày 23 tháng 10, tàu Hải Dương Địa Chất 8 rời Việt Nam, trở về Trung Quốc.
Một số nhà quan sát khẳng định rằng Hà Nội đã “thắng” trong cuộc đọ sức vì vẫn “giữ vững lập trường”,nhưng theo chuyên gia Mỹ, phân tích như vậy quá sớm và có thể không chính xác.

Để giải thích cho nhận xét của mình, ông Grossman trước hết nêu bật thực tế là Bắc Kinh đã thách thức sự hiện diện của giàn khoan Hakuryu-5 cho đến cùng. Chỉ sau khi giàn khoan này rời đi thì Trung Quốc mới cho rút tàu Hải Dương Địa Chất 8 ra khỏi vùng biển của Việt Nam.

Trung Quốc có vẻ như sẵn sàng ở lại lâu dài.
Vào tháng 8, chiếc Hải Dương Địa Chất 8 đã rời Bãi Tư Chính, nhưng chỉ để ghé Đá Chữ Thập do Trung Quốc kiểm soát ở Trường Sa để được tiếp tế nhiên liệu rồi quay lại.

Các đảo nhân tạo Bắc Kinh xây dựng tại Trung Quốc có những cơ sở hạ tầng quân sự cho phép Bắc Kinh thức hiện những chiến dịch tuần tra dài ngày hơn bất kỳ đối thủ tranh chấp chủ quyền nào khác.

Ngoài ra, những lời tố cáo cũng không còn tác dụng với Trung Quốc. Chuyên gia Grossman đã so sánh vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 vào tháng 05/2014, với vụ Bãi Tư Chính hiện nay.
Vào khi ấy, Bắc Kinh đã cho cắm giàn khoan Hải Dương 981 ở vùng biển Việt Nam ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.

Sau một loạt đụng độ - bao gồm cả các vụ tàu đe dọa lẫn nhau và đâm vào nhau, Trung Quốc đã rút giàn khoan đi.
Về mặt công khai, Trung Quốc tuyên bố là công việc của giàn khoan đã được hoàn thành trước thời hạn, nhưng có nhiều khả năng là vào lúc đó Bắc Kinh lo ngại trước sự lên án quốc tế, đặc biệt là từ khối Đông Nam Á ASEAN và từ Washington.

Ngày nay, công luận quốc tế dường như ít quan trọng hơn nhiều đối với Trung Quốc.
Theo ông Grossman, trong một cuộc trò chuyện gần đây giữa ông và một người đối thoại tại Việt Nam, Hà Nội từng cho rằng Bắc Kinh sẽ lùi bước trong vụ Bãi Tư Chính trước lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vì sợ vụ việc tác hại đến sự kiện lớn đó.

Thế nhưng, ngay cả một cảnh báo nghiêm khắc từ phía Mỹ lên án hành vi bắt nạt của Trung Quốc cũng không lay động Bắc Kinh.
Thậm chí họ còn làm mạnh hơn nữa khi tiếp tế nhiên liệu cho chiếc Hải Dương Địa Chất 8 rồi đưa trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Bãi Tư Chính.

Nhận định chung của chuyên gia Derek Grossman là “Chiến lược ‘vừa hợp tác, vừa đấu tranh’ của Hà Nội lần này đã không đạt kết quả.
Theo chuyên gia Mỹ, ‘hợp tác’, trong tình huống tốt nhất chỉ là vô thưởng vô phạt, còn xấu nhất là phản tác dụng vì lẽ tách biệt Biển Đông với các lãnh vực khác trong quan hệ song phương, đồng nghĩa với việc để cho mọi việc đâu vẫn vào đấy, bất chấp hành vi bức hiếp của Trung Quốc.

Còn về ‘đấu tranh’, việc vạch mặt chỉ tên để bêu xấu Trung Quốc giờ đây không còn tác dụng nữa.

Việt Nam cần đẩy mạnh vế đấu tranh, tăng cường quan hệ quốc tế

Câu hỏi mà chuyên gia Derek Grossman đặt ra là trong tình hình như vừa kể, chiến lược chống Trung Quốc của Việt Nam sẽ phải ra sao?

Đối với chuyên gia Mỹ, Hà Nội có thể xem xét khả năng tiếp thêm sức mạnh cho vế đấu tranh trong chiến lược cố hữu của mình - mà không làm phương hại đến thế cân bằng tế nhị của chủ trương “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.

Khả năng tăng cường vế đấu tranh, theo ông Grossman, có thể là nâng cấp quan hệ với Washington lên hàng “đối tác chiến lược”.
Một thông báo như vậy sẽ báo hiệu rằng Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng một lợi ích chiến lược lâu dài – một lời thách thức kín đáo gởi đến Trung Quốc.

Hà Nội vẫn có thể hợp tác với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh sẽ biết rằng Washington có thể xen vào các cuộc khủng hoảng Biển Đông tương lai một cách cụ thể hơn là những lời nói suông hiện nay.
Hà Nội cũng có thể tiếp tục phát triển và tăng cường mạng lưới quan hệ quốc phòng với các nước ASEAN, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ.

Thúc đẩy được khối nước đó lên tiếng trong cuộc khủng hoảng tiếp theo với Trung Quốc - lần này không nước nào làm như vậy - sẽ là một thách thức, nhưng không phải là không thể được.
Theo ông Grossman, có một cách để đảm bảo sự hỗ trợ của các kể trên là Hà Nội cởi mở hơn trong việc thảo luận với họ về các thách thức an ninh và cách đối phó.

Trở ngại chính cho cách tiếp cận này là chính sách quốc phòng “3 Không” của Việt Nam: không tham gia các liên minh quân sự, không cho nước ngoại đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước thứ hai để chống lại một nước thứ ba.

 Tuy nhiên, theo ông Grossman, Việt Nam đã âm thầm tìm cách lách chính sách này trong quá khứ gần đây.
Ví dụ, vào tháng 5 năm 2018, Việt Nam đã tập trận với Ấn Độ và đang tiến hành một loạt các hoạt động quân sự với Washington nhưng không mang danh nghĩa “liên minh”.

Đối với chuyên gia Mỹ, nếu muốn gửi cho Trung Quốc một thông điệp thực sự nghiêm khắc, Việt Nam có thể tham gia – trong tư cách là đối tác đối thoại - vào cơ chế Đối Thoại An Ninh Bộ Tứ (hay Quad) bao gồm 4 nước Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản.
Triển vọng này, tuy nhiên, chắc chắn còn rất xa vời đối với Hà Nội.

Tuy nhiên, ở một mức thấp hơn, để tăng thêm sức “đấu tranh” chống Trung Quốc Việt Nam còn có vô số lựa chọn khác.
Chuyên gia Grossman nêu một số ví dụ : Việt Nam có thể ngừng kiểm duyệt thông tin trong nước về các vụ va chạm giữa tàu thuyền đánh cá Trung Quốc và Việt Nam…

 Việt Nam cũng có thể, như Philippines đã làm, kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về các yêu sách Biển Đông quá mức của Bắc Kinh.
Hà Nội có thể không khoan nhượng trong tiến trình đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử với Trung Quốc trong tư cách là chủ tịch ASEAN, và nêu bật những vi phạm của Trung Quốc với tư cách là thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc – cả hai chức vị mà Việt Nam sẽ nắm giữ trong năm 2020.

Sau cùng, Việt Nam cũng có thể hợp tác ít hơn với Trung Quốc để cho thấy rằng các hành vi quyết đoán của Bắc Kinh đã khiến toàn bộ quan hệ song phương gặp nguy hiểm.

Chuyên gia Mỹ kết luận:
“Trước một Bắc Kinh ngày càng tự tin và quyết đoán, có lẽ đã đến lúc Việt Nam phải nghĩ đến việc điều chỉnh lại một cách cẩn thận đối sách Trung Quốc của mình để cho phép tăng phần “đấu tranh” và bớt phần “hợp tác”.

Switch mode views: