Tư duy người cộng sản Việt Nam vẫn lạc hậu trong bối cảnh nhiều chế độ độc tài đã và đang diệt vong. ( Nguyễn Ngọc Già)
Có hôm, tôi nghe Vũ Thư Hiên chép miệng:
Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?
Ổng nói, rõ ràng, hơi quá. Thế mà vẫn có một nhà văn (khác) chia sẻ hết sức tận tình:
Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những người trên đường, hắn giật mình: “Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ”.
Đó là một cảm giác kỳ lạ. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra trại. Thoạt đầu hắn cho là hắn mắc bệnh quên. Trí nhớ hắn suy giảm, nên hắn không nhớ được những người bạn tù ấy. Nhưng rồi hắn giật mình: “Chẳng lẽ nhiều người đi tù về đến thế? Đất nước lắm người đi tù đến thế?” ...” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).
Đoạn văn thượng dẫn được viết hồi cuối thế kỷ trước, sau khi tác giả đã trải qua nhiều năm tù vì tội “tuyên truyền phản cách mạng” và “bôi đen chế độ” – theo như lời ông tự thuật:
Hoá hỏi:
- Anh là cộng sản à?
- Cả nhà tôi là cộng sản. Là đảng viên. Nhưng tôi thì chưa. Tôi là quần chúng.
- Vì sao anh chưa được kết nạp?
- Đã có lúc tôi phấn đấu, nhưng chưa được vào.
Hoá nhìn hắn từ đầu đến chân. Định nghĩa cái nhìn ấy là: Anh nói thật. Tôi quí anh vì anh nói thật.
- Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?
- Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”.
-
Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực.
Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm.
(sđd, trang 58).
Tuy “nguy hiểm” đến thế nhưng người Việt vẫn có nhiều kẻ mạo hiểm đều đều. Nhân vật mới nhất, vừa bị lôi ra toà và kết án tù vào hôm 4 tháng 3 vừa qua (vì tội danh “bôi đen chế độ” hay “nói thật”) cũng là một người cầm viết.
Bản Bản Cáo Trạng của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, đề ngày 17 tháng 12 năm 2013, ghi rõ nhà báo Trương Duy Nhất đã “lợi dụng quyền tự do dân chủ ... bôi nhọ lãnh đạo” làm "giảm uy tín, mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân" và “hạ thấp uy tín cá nhân của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, làm đến uy tín của Đảng, Nhà Nước, Quốc Hội, Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam.”
Trước sự kiện này blogger Huỳnh Ngọc Chênh có lời bàn (ra) nghe hơi cay đắng:
Sau 7 tháng, một công dân chỉ cầm bút viết blog mà bị bắt giam biệt tích với cả người thân trong gia đình để chịu sự điều tra căng thẳng, để cuối cùng cơ quan điều tra nêu ra một số cáo buộc mà khi đọc vào ai cũng thấy rằng chẳng cần phải bắt bớ, giam cầm, điều tra gì cũng có thể nêu ra được, vì mọi thứ blogger Trương Duy Nhất viết ra đều đường đường chính chính công khai minh bạch trên blog cá nhân của mình.
Blogger Vũ Đông Hà không chỉ cay đắng mà còn ... cay nghiệt:
Blogger Trương Duy Nhất dứt khoát không phạm tội.
Cho dù ông có muốn phạm tội cũng dứt khoát ông không thể làm được.
Ông không thể làm giảm uy tín một thứ không có uy tín.
Cá nhân ông không thể làm giảm lòng tin của 90 triệu người vốn đã mất niềm tin.
Ông không thể làm một người không có chiều cao bớt lùn.
Ông chỉ vô tình đóng góp thêm một điều ngoài ý muốn của ông: bản cáo trạng "vì ông mà có" đã thêm một lần nữa chứng minh cái đảng và nhà nước hiện nay là tập hợp của những tên lùn nhưng có ảo tưởng mình rất cao và sẵn sàng tống vào tù những ai đá động đến chữ LÙN.
Cùng lúc, ở lề bên kia, lác đác cũng có vài tiếng anh vỗ tay tán thưởng. Trên Petro Times, ông Bảo Sơn (nào đó) khẳng định:
Vụ án Trương Duy Nhất cũng là một bài học cảnh tỉnh cho một số người hiện nay đang dùng blog để xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ.
Tương tự, trong trang Người Con Yêu Nước cũng có một vị tuy không dám nêu danh nhưng rất lớn tiếng:
Bản cáo trạng đã quá rõ ràng, những bài viết làm chứng cứ vẫn còn được lưu giữ. Chẳng có ai chống Tàu mà lại đi bôi nhọ thể chế, công kích cá nhân, bêu rếu danh dự, nhân phẩm của các cán bộ cấp cao như vậy... Vì vậy truy tố Trương Duy Nhất theo điều 258 là một quyết định đúng đắn để răn đe, trừng trị người phạm tội cũng như bảo vệ sự vững mạnh của thể chế.
Ngôn ngữ và giọng điệu của hai nhân vật (vô danh và ẩn danh) vừa kể khiến tôi nhớ đến vài vị văn nghệ sĩ (tên tuổi) khác đã từng hùng hồn lên tiếng trong chiến dịch đấu tố “nhóm phá hoại Nhân Văn – Giai Phẩm,” từ hơn năm mươi năm trước:
- Huyền Kiêu:
Cuối năm 1956, trong lúc tình hình cách mạng gặp khó khăn, thì một số phần tử xấu trong giới trí thức văn nghệ, tưởng rằng thời cơ “làm ăn béo bở” đã đến, vội vã dương lá cờ rách Nhân văn nhảy lên võ đài, khua môi múa mỏ, với dã tâm, bóp méo, xuyên tạc những khuyết điểm của ta về văn nghệ, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ, và từ địa hạt văn nghệ, lan sang các mặt văn hóa, xã hội, chính trị, bôi xấu, vu cáo toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng, hòng cản trở bước tiến lên xã hội chủ nghĩa của miền Bắc nước ta...để bôi đen chế độ miền Bắc, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng.
- Đỗ Nhuận :
Trần Dần dùng ngòi bút viết lên bao thứ bài thơ như “Nhất định thắng”, chuyện “Cò Lấm”, “Lão Rồng”, “Em bé làm văn” v.v…, để bôi đen miền Bắc và con người của chế độ ta...
Năm 1952 anh đi theo đường lối văn nghệ của Đảng và theo kinh nghiệm của đường lối văn nghệ Trung Quốc, nên anh đã có một số sáng tác dùng được; vài năm sau anh nói với tôi rằng: “Không nên theo đường lối Trung Quốc vì như thế là đi đường vòng quanh, phải đi đường thẳng”.
Đường thẳng là thế nào? Khi anh sang Trung Quốc, anh rất thích cái lý luận của tên phản động Hồ Phong ở Trung Quốc, anh nhập cái tư tưởng phản động của Hồ Phong vào người và ban phát nó cho một số người bạn của anh vì theo anh đó là con đường thẳng. Hồ Phong dùng hình ở mũi dao cắm vào lưng người văn nghệ sĩ để mạt sát và chống lại sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì trong bài thơ “Nhất định thắng” anh cũng dùng hình ảnh “Con dao dựa cùn chém trộm ngang lưng” để vu khống, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.
Trần Dần sinh năm 1926, Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934, Trương Duy Nhất ra đời 20 năm sau nữa. Cả ba đều sống chung trong một môi trường xã hội mà “dối trá” là “phương châm” để sinh tồn. Tuy thế, họ đã lựa chọn một thái độ sống khác:
Phải làm một người chân thật…
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu...
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Cái giá để đi trọn đời trên con đường chân thật, tất nhiên, không rẻ. Phùng Quán đã phải trả bằng cả một cuộc đời (cá trộm, rượu chịu, văn chui) cùng với vài “ba chục năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng chó sủa lạ cũng giật mình thon thót” – theo lời của Nguyễn Quang Lập. Dù sao, thế vẫn hơn mười lăm năm tù và mười lăm năm quản chế mà Đảng và Nhà Nước đã dành cho Thụy An cùng Nguyễn Hữu Đang – với tội danh ... gián điệp!
Những hình phạt hay những bản án khắc nghiệt mà chế độ hiện hành đã quen dùng trong mấy chục năm qua – xem ra – không “cảnh tỉnh” và cũng chả “răn đe” được người dân, như mong đợi. Thể chế cũng chả vì thế mà “vững mạnh” hơn, nếu chưa muốn nói là hoàn toàn ngược lại: mỗi ngày một thêm lụn bại và rệu rã!
Nhà đương cuộc Hà Nội không thể bắt giam hết cả ngàn Trương Duy Nhất đang có mặt khắp nơi. Và dù họ có làm được như vậy chăng nữa thì sẽ có hàng chục ngàn Trương Duy Nhất khác sẽ xuất hiện trong những ngày tháng tới.