Cuối cùng, Việt Nam chọn giải pháp đu dây: Họ vờn qua Trung Quốc một tí lại vờn quá Mỹ một tí. Trong Bộ chính trị, nếu có người này sang Trung Quốc thì sẽ có người kia sang Mỹ. Hứa với Trung Quốc điều a thì cũng hứa với Mỹ điều b.
Giới lãnh đạo Việt Nam không bao giờ nói thẳng và nói rõ chiến lược bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của họ vì với họ, đó là một bí mật quốc gia. Tuy nhiên, quan sát các diễn tiến trong mấy năm qua, đặc biệt thời gian gần đây, tôi nghĩ, chiến lược chính của họ là đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ.
Với Trung Quốc, Việt Nam không có chọn lựa nào khác ngoài việc nhượng bộ. Lý do rất đơn giản: Việt Nam không phải là đối thủ của Trung Quốc. Hai mặt mạnh làm nên những chiến thắng vang đội của đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua là chiến thuật du kích và chiến thuật biển người. Cả hai chiến thuật ấy chỉ thành công trong hai điều kiện: một là trên đất liền, đặc biệt ở những vùng rừng núi hoang vu; và hai là tinh thần chiến đấu cao và sẵn sàng chấp nhận hy sinh của nhân dân và binh sĩ. Điều kiện thứ nhất sẽ bị vô hiệu hóa khi chiến sự xảy ra trên biển và đảo. Điều kiện thứ hai bị chính giới lãnh đạo phá hủy trong nhiều năm qua bằng các vụ vu khống, hành hạ, bắt bớ và nhục mạ những người có tinh thần bất khuất, quyết tâm chống lại Trung Quốc. Chiến tranh trên biển, nơi không thể sử dụng chiến thuật biển người hay chiến thuật du kích, tùy thuộc chủ yếu vào vũ khí và kỹ thuật. Ở cả hai khía cạnh này, một số người cho rằng sáu chiếc tàu ngầm Kilo mà Việt Nam đặt mua của Nga từ năm 2009 (đến nay đã nhận được hai; chiếc thứ ba sẽ đến Việt Nam trong năm nay; ba chiếc còn lại sẽ được giao vào năm 2016; trị giá tổng cộng đến 2,6 tỉ Mỹ kim) như những chiếc gậy thần dùng đế chống lại các chiến hạm của Trung Quốc. Nhưng người ta quên đi những gì Việt Nam mua từ Nga thì Trung Quốc cũng có thể mua được, hơn nữa, nhờ giàu hơn, Trung Quốc cũng sẽ mua tàu ngầm với số lượng nhiều hơn hẳn, chưa kể, những chiếc tàu ngầm do họ tự chế tạo.
Ngoài lý do vừa nêu, Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc có thể vì nhiều lý do khác nữa, ví dụ, về kinh tế, họ lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc; về phương diện chính trị, họ bị ràng buộc bởi những cam kết bí mật nào đó trong cuộc hội nghị Thành Đô trước đây. Cũng không thể loại trừ khả năng là nhiều người trong giới lãnh đạo bị Trung Quốc mua chuộc.
Nhưng vì bất cứ lý do nào, sự nhượng bộ cũng có giới hạn của nó. Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma: nhượng bộ. Nhưng nếu Trung Quốc đánh chiếm các hòn đảo khác ở Trường Sa thì Việt Nam không thể tiếp tục nhượng bộ được nữa. Trung Quốc mang giàn khoan để thăm dò dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam: nhượng bộ. Nhưng nếu Trung Quốc công khai khai thác dầu khí ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam thì Việt Nam không thể tiếp tục nhượng bộ được nữa. Trung Quốc tuyên bố con đường lưỡi bò: nhượng bộ. Nhưng nếu Trung Quốc đưa ra một số luật lệ để kiểm soát trên con đường lưỡi bò ấy, ví dụ, hạn chế tàu bè của Việt Nam cũng như của quốc tế đến Việt Nam thì Việt Nam không thể tiếp tục nhượng bộ được nữa.
Nếu không nhượng bộ thì làm gì?
Tự Việt Nam, Việt Nam không làm được gì cả. Nước nhỏ, thế yếu, Việt Nam chỉ có thể trông chờ sự hậu thuẫn và trợ giúp của thế giới bên ngoài, trong đó, quan trọng nhất là Mỹ và sau lưng Mỹ là các lực lượng đồng minh của Mỹ trong khu vực, từ Nhật đến Úc. Cho nên, bằng mọi giá, Việt Nam phải tìm cách siết chặt quan hệ với Mỹ. Tuy nhiên, ở đây lại không ít cản trở. Thứ nhất là vấn đề nhân quyền. Bình thường, thành thực mà nói, dù Mỹ hay nói đến nhân quyền nhưng trong rất nhiều trường hợp, vì lợi ích của nước họ, họ cũng thường nhắm mắt làm ngơ trước các sự vi phạm nhân quyền của nước liên hệ. Lâu nay, Mỹ vẫn làm thế ở Trung Đông và Nam Mỹ. Tuy nhiên, với Việt Nam thì khác. Chính phủ Mỹ có thể chỉ lên án qua loa lấy lệ, nhưng dân chúng Mỹ, đặc biệt với những người cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam thì khác. Đó là chưa kể cộng đồng người Việt với trên một triệu rưỡi người đang sống trên đất Mỹ. Tất cả đều có thể gây một sức ép đáng kể để chính quyền Mỹ, dù muốn hay không, cũng đặt vấn đề nhân quyền như một điều kiện để liên kết.
Nhưng cản trở lớn nhất của Việt Nam trên con đường tiếp cận với Mỹ chính là Trung Quốc. Chắc chắn Trung Quốc không hề muốn và càng không thể chấp nhận hiện tượng Việt Nam bắt tay với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Chắc chắn họ sẽ phá; nếu không phá được, sẵn sàng tấn công Việt Nam trước khi quan hệ liên minh giữa Việt Nam và Mỹ biến thành hiện thực. Trong trường hợp này, chắc chắn Trung Quốc sẽ hành xử y hệt Nga tại Ukraine trong mấy tháng vừa qua.
Như vậy, nghịch lý của Việt Nam hiện nay là: một mặt, cố gắng nhượng bộ Trung Quốc nhưng biết rõ là sự nhượng bộ ấy không phải là vô giới hạn; mặt khác, cần Mỹ để chống lại Trung Quốc nhưng lại không thể công khai hóa quá trình thành lập liên minh ấy.
Cuối cùng, Việt Nam chọn giải pháp đu dây: Họ vờn qua Trung Quốc một tí lại vờn quá Mỹ một tí. Trong Bộ chính trị, nếu có người này sang Trung Quốc thì sẽ có người kia sang Mỹ. Hứa với Trung Quốc điều a thì cũng hứa với Mỹ điều b. Chính sách đu đây này họ đã sử dụng một cách thuần thục trong cuộc chiến tranh Nam Bắc trước đây: họ đong đưa giữa Liên Xô và Trung Quốc để có thể nhận được sự trợ giúp của cả hai dù quan hệ giữa hai nước ấy rất căng thẳng với nhau.
Nhưng đu dây giữa hai đồng minh dù sao cũng dễ hơn là đu dây với kẻ thù. Trung Quốc sẽ không dại dột để Việt Nam chơi trò đu dây. Chắc chắn họ sẽ bắt Việt Nam phải lựa chọn.
Điều cần nhất của Việt Nam hiện nay là phải chuẩn bị cho những sự lựa chọn ấy.