Tài liệu cũ của Saigon Echo
từ 2008 - 2012
Play
 
Giám Đốc: Tiến Sĩ Trần An Bài
  • Font size:
  • Decrease
  • Reset
  • Increase

Việt Nam có nhận được hậu thuẫn của Donald Trump?

trump-asia-china 3

Tổng thống Mỹ Donald Trump lên chiếc Air Force One rời Trung Quốc lên đường đến Việt Nam, ngày 10/11/2017.
REUTERS/Jonathan Ernst

Sau thượng đỉnh APEC tại Đà Nẵng, tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ thăm chính thức Việt Nam ngày 11/11/2017 trước khi đi Philippines dự thượng đỉnh Đông Á.

Người đứng đầu Nhà Trắng sẽ phải đối mặt với những bận tâm của chính quyền Việt Nam vì Hà Nội cho rằng chính quyền mới của Mỹ chưa làm hết sức.

Theo bài viết trên The Diplomat (08/11/2017) của nhà báo Bennett Murray, phụ trách văn phòng của Deutsche Presse-Agentur tại Hà Nội, ông Trump sẽ không hoàn toàn giữ vị trí trọng tâm trong tuần này.

Nguyên thủ nhiều cường quốc trên thế giới sẽ có mặt tại Đà Nẵng, một ngày trước chuyến thăm chính thức của tổng thống Mỹ, để tham dự diễn đàn APEC thường niên, trong đó sẽ có chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tổng thống Nga Vladimir Putin, thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, cũng như thủ tướng của nhiều nước trong APEC.

Vừa mới củng cố thêm quyền lực sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 10/2017, ông Tập Cận Bình cũng sẽ thăm chính thức Việt Nam sau thượng đỉnh APEC. Mọi ánh mắt trong nước đổ dồn vào hai chuyến viếng thăm cấp cao nhất vì Việt Nam cố gắng khai thác cả hai cường quốc để duy trì cam kết không liên kết có từ lâu.

Theo đánh giá của ông Lê Đăng Doanh, một cựu cố vấn kinh tế cấp cao của chính phủ, “chuyến công du chính thức của tổng thống Donald Trump tại Hà Nội có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam để giữ cân bằng sức mạnh trong vùng, trong bối cảnh sức mạnh của Trung Quốc trỗi dậy từ sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 19”.

Còn ông Nguyễn Quang A, một doanh nhân nghỉ hưu và là một nhà hoạt động ly khai, cho rằng bất chấp tình trạng nhân quyền tại Việt Nam mà ông là một nhà đấu tranh tích cực, mối bận tâm của mọi người là Hà Nội và Wasshington duy trì mối quan hệ trong bối cảnh Bắc Kinh ngày càng tỏ ra táo bạo hơn.

 Ông cho biết : “Chúng tôi đã có kinh nghiệm từ lâu, lâu lắm rồi… Chúng tôi phải chống cự chính sách bành trướng (của Trung Quốc), và tôi nghĩ, nếu Việt Nam có thể có được sự ủng hộ của các nước khác, như Nhật Bản, Mỹ, thì sẽ rất tốt”.

Tuy nhiên, ông Quang A tỏ ra lo ngại rằng tổng thống Trump sẽ ít dấn thân vào quan hệ song phương :
 “Chúng tôi sợ rằng các chính sách của Trump không tốt đẹp cho lắm vì ông là một doanh nhân, nên các chính sách của ông có thể bị ảnh hưởng bởi tâm lý kinh doanh, thương mại…”.

Ông Quang A cũng sợ rằng Việt Nam sẽ bị Trump sử dụng như một quân cờ để thúc đẩy một chương trình nghị sự không liên quan gì đến tương lai của vùng Đông Nam Á.
Ông nói thêm : “Việt Nam đã bị các nước khác bán đi bán lại nhiều lần, vì thế chúng tôi phải nghĩ đến những khả năng xấu”.

Việt Nam và hai cựu thù

Nhà báo Đức nhắc lại, mối thù của Việt Nam với Trung Quốc có từ thời xa xưa.
Miền Bắc Việt Nam từng bị nhà Hán đô hộ vào thế kỷ II-TCN, cho đến nhà Minh vào thế kỷ XV.

Các huyền thoại chống xâm lược Trung Quốc đã ăn sâu tại Việt Nam với những con phố mang tên các anh hùng dân tộc thời xưa.
Ký ức về cuộc chiến biên giới 1979, khiến vài chục nghìn người chết ở cả hai phía chỉ trong vòng 1 tháng, vẫn còn hằn sâu và các tranh chấp đang diễn ra liên quan đến các hòn đảo ngoài khơi Biển Đông được cho là sự tiếp tục của mối hiềm khích thường xuyên.
Trung Quốc đòi chủ quyền trên phần lớn Biển Đông, kể cả các khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nổi tiếng là giầu nguồn nhiên liệu hoá thạch.

Theo ông Quang A, nghi ngờ Trung Quốc là thói quen ở Việt Nam : “Ông Tập thường nói với thế giới rằng họ phát triển một cách hoà bình, họ không chủ ý làm hại ai hết, nhưng quan hệ với Trung Quốc, bạn phải hiểu được toàn bộ mối quan hệ.
Bạn phải thận trọng với những gì họ nói, vì những gì họ nói hoặc đã nói là rất, rất tốt đẹp, nhưng hành động thực tế lại hoàn toàn ngược lại”.

Tuy nhiên, vẫn theo ông Quang A, một mức độ thân thiện với Bắc Kinh là điều cần thiết trong thực tiễn địa lý vì “một mặt, Trung Quốc vẫn ở đó, là láng giềng của chúng tôi.
 Không thể di chuyển Việt Nam sang chỗ khác, vì vậy phải có quan hệ tốt với Trung Quốc. Nhưng đồng thời, chúng tôi phải kháng cự hành động của họ ở Biển Đông, và có thể không chỉ ở trên biển, mà còn cả trên đất liền nữa”.

Trong khi đó, Hoa Kỳ lại được đánh giá cao ở Việt Nam, 84% người dân tin vào Mỹ theo tham khảo của Pew được công bố vào tháng 06/2017.
Thậm chí, 58% người dân Việt tin tưởng vào tổng thống Donald Trump; đây là tỉ lệ khá cao so với thế giới.
Mối quan hệ mạnh mẽ với Việt Nam hiện cũng được ủng hộ trong giới chính trị gia Washington ; tại đậy, ủng hộ Hà Nội ít bị phản đối hơn trong thế kỷ 21.

Theo nhận định của ông Michael Mazza, một nhà nghiên cứu của Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Washington và là chuyên gia về chính sách quốc phòng châu Á-Thái Bình Dương, các lợi ích của Hoa Kỳ nằm trong mối quan hệ hợp tác với Việt Nam.

Ông nói : “Một mối quan hệ song phương vững chắc có tiềm năng làm tăng thêm thịnh vượng cho cả hai nước, tạo điều kiện cho Mỹ lan rộng trong vùng, ngăn chặn hành vi xấu của Trung Quốc, và, nói chung, hình thành một Đông Nam Á và rộng hơn khu vực châu Á-Thái Bình Dương dẫn tới lợi ích của Mỹ”.

Vẫn theo chuyên gia này, những ký ức từ cuộc chiến tranh Việt Nam không còn đặc biệt quan trọng trong các mối quan hệ đương đại, ngoài việc hợp tác tìm kiếm hài cốt lính Mỹ và xử lý hậu quả của chất độc da cam.
Ông Mazza cho rằng “khó mà nói được là quan hệ song phương sẽ đi đến đâu. Hoa Kỳ và Việt Nam phải đi từ hai nước chiến tranh thành hai nước hợp tác và duy trì hòa bình, trật tự ở Biển Đông”.

Donald Trump tìm gì?

Vì Việt Nam tìm cách cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, các nhà quan sát tại Washington và Hà Nội tập trung đánh giá Trump quan tâm đến việc duy trì phía Mỹ trên cán cân đến mức nào.

Việc Mỹ rút khỏi hiệp định mậu dịch xuyên Thái Bình Dương TPP đã gây bối rối và làm mất tinh thần tại Hà Nội.
Việt Nam cũng chú ý theo dõi các chiến dịch tuần tra tự do hàng hải của Hải Quân Mỹ (FONOP) để thách thức các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, hiện khởi động khá chậm chạp dưới thời Trump.

Ông Mazza nói, ngoài TPP mà Việt Nam là một bên tích cực tham gia, có lý do để nghi ngờ rằng chính sách đối với Việt Nam của chính quyền Obama, được phần lớn hai đảng ủng hộ, được tiếp tục dưới thời Trump.
Ông nhắc lại chuyến thăm Nhà Trắng của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 05/2017 :

“Đoạn nói về Biển Đông trong thông cáo chung đã đề xuất một sự nhất quán về triển vọng và cách tiếp cận của Hoa Kỳ và Việt Nam về thách thức đặc biệt này đối với luật pháp quốc tế”.
Vẫn theo ông Mazza, thông cáo này cũng tăng thêm khả năng một tầu sân bay Mỹ ghé thăm Việt Nam, lần đầu tiên từ khi kết thúc chiến tranh.

Tuy nhiên, mối đe doạ hạt nhân Bắc Triều Tiên có thể khiến ông Trump phân tán tập trung đến vấn đề Biển Đông, do đó có thể mở ra cơ hội cho Trung Quốc.
Điều này có lẽ được thể hiện qua việc Nhà Trắng tạm ngừng hoạt động tuần tra ở Biển Đông trong vòng vài tháng trong lúc tìm sự ủng hộ của Bắc Kinh trong hồ sơ Bắc Triều Tiên.

Tuy nhiên, “dường như Hoa Kỳ đã tiến hành thường xuyên trở lại các đợt tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông và đã có sự cam kết cấp cao nhất quán với các nhà lãnh đạo Đông Nam Á trong 6 tháng qua”.

Giáo sư Carlyne Thayer, một chuyên gia về Biển Đông, thuộc đại học New South Wales, nhận xét Việt Nam đã “nhạy bén” sau lễ nhậm chức của Trump để thu hút sự chú ý của tân tổng thống Mỹ bằng cách đánh vào “máu” kinh doanh của Donald Trump.

Giáo sư Thayer nói : “Trong chuyến công du của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nhiều thỏa thuận thương mại trị giá nhiều tỉ đô la đã được ký kết, Việt Nam chấp nhận thương lượng một hiệp định tự do trao đổi mậu dịch với Mỹ, và Việt Nam chấp nhận cải thiện điều kiện đầu tư cho các doanh nghiệp Mỹ và bảo vệ và tăng cường quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ”.

Dù sao, Việt Nam vẫn hạn chế khả năng xích quá gần đến Mỹ.
Hà Nội tôn trọng chiến lược “ba không” : không liên minh quân sự, không căn cứ nước ngoài, không để một nước sử dụng Việt Nam làm phương hại nước khác.

Tuy nhiên, ông Lê Đăng Doanh lại cho rằng những luật lệ này có thể bị thay đổi đề thích nghi với thực tế đang biến chuyển trong thế kỷ 21 và ông “ủng hộ mạnh mẽ một khái niệm mới, theo đó
Việt Nam sẽ cố gắng tìm đồng minh với các nước thân thiện để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ lợi ích quốc gia khỏi bất kỳ cuộc tấn công thù nghịch nào từ bên ngoài”.

 Song ông Doanh không nêu bất kỳ tên một quốc gia nào như một đồng minh tiềm năng.

Switch mode views: