Bất kỳ người Việt yêu nước nào cũng cảm thấy bị xấu hổ và đau xót trước một tập đoàn cai trị hèn nhát, nhu nhược, vì cái ghế quyền lực mà chà đạp lên lòng kiêu hãnh và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của tổ tiên.
Sự trùng hợp ngẫu nhiên, những khoảng cách xa mà rất gần. Tính từ năm 1974 đến năm 1979 là 5 năm, từ năm 1979 tới 1988 là 8 năm, nhưng các biến cố lịch sử diễn ra trong ba tháng đầu năm. Từ gần 30 năm nay, sau kỷ niệm về cuộc hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974, thì tiếp đến cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc ngày 17 tháng 2 năm 1979 và cuối cùng là cuộc hải chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988.
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, pháo từ các chiến hạm của quân lực Việt Nam Cộng Hòa nã đạn vào tàu chiến của Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, mở màn cho cuộc hải chiến không cân sức, trong đó 74 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Hoàng Sa bị quân Trung Quốc chiếm đóng.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979 Trung Quốc xua quân tấn công Việt Nam. Ðây là cuộc chiến khốc liệt với mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học” của Ðặng Tiểu Bình. Sáu trăm ngàn quân Trung Quốc ào ạt lấy thịt đè người, đã tàn phá tan tành 6 tỉnh biên giới. Nhưng sự tấn công của Trung Quốc đã gặp lại sự phản công mạnh mẽ của quân và dân Việt Nam. Ngày 5 tháng 3 Trung Quốc đã phải rút quân kéo theo sự thiệt hại nặng nề về nhân mạng, ước tính 26.000 người chết (theo báo chí phương Tây) hay 62.500 người (theo báo Việt Nam). Khoảng 10 ngàn binh sĩ và dân thường của phía Việt Nam bị tử vong.
Cùng với các cuộc xung đột biên giới cục bộ tiếp theo, ngày 13 tháng 3 năm 1988, quân Trung Quốc đưa quân xâm chiếm các bãi đá Cô Lin, Len Ðao và Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ. Ba tàu vận tải của Việt Nam bị đánh chìm, 64 chiến sĩ thiệt mạng. Kể từ đó Trung Quốc chiếm đóng bãi đá Gạc Ma và hai nước cùng cho hải quân ra đóng giữ một số đảo đá ngầm khác mà hai bên cùng tuyên bố chủ quyền.
Tưởng niệm ba sự kiện liên tiếp trong ba tháng đầu năm, người Việt không khỏi uẩn ức, căm thù. Không phải chỉ vì ba sự kiện này là bằng chứng cho thấy dã tâm bành trướng lãnh thổ của Trung Nam Hải xuống phía Nam và Biển Ðông không lúc nào thay đổi suốt từ hai thiên niên kỷ nay. Mà là, thế cuộc xoay vần, lịch sử bị đánh cắp, tập đoàn cai trị cộng sản Hà Nội hiện nguyên hình là kẻ nối giáo cho giặc, rước voi giày mả tổ.
Bất kỳ người Việt yêu nước nào cũng cảm thấy bị xấu hổ và đau xót trước một tập đoàn cai trị hèn nhát, nhu nhược, vì cái ghế quyền lực mà chà đạp lên lòng kiêu hãnh và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của tổ tiên. Ðảng Cộng Sản Việt Nam (ÐCSVN) đã định hướng lòng yêu nước của người dân theo thân phận của một kẻ nộ lệ, chư hầu.
Năm 1989-1990, hệ thống cộng sản ở Ðông Âu và Liên Xô phá sản, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hoàn toàn. Ðể có thể duy trì độc quyền cai trị, ÐCSVN không còn cách nào khác là quay đầu trở lại đeo bám Trung Quốc.
Ngày 3- 4 tháng 9 năm 1990, Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư ÐCSVN, Ðỗ Mười, thủ tướng chính phủ và Phạm Văn Ðồng, cố vấn ban chấp hành trung ương ÐCSVN, đã ký kỷ yếu hội nghị đồng thuận tại Thành Ðô với Giang Trạch Dân, tổng bí thư ÐCS Trung Quốc và Lý Bằng, thủ tướng Trung Quốc, mở đầu một trang sử tối tăm, nhục nhã trong quan hệ Việt- Trung.
Loại bỏ cụm từ “kẻ thù truyền kiếp” ra khỏi bản Hiến pháp 1980, gắn bảng hiệu “4 Tốt” và “16 chữ vàng”, bất chấp lợi ích dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, những cú bắt tay tại Hội Nghị Thành Ðô là chính sách nhất quán của ÐCSVN. Ðiều này được thể hiện trong thái độ cư xử với các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc và trong kinh tế.
74 chiến sĩ của quân lực VNCH tử trận ở Hoàng Sa cho đến nay vẫn bị xem là “lính ngụy”, không được tôn vinh, tưởng niệm, gia đình của họ bị phân biệt đối xử.
Từ hội nghị Thành Ðô cuộc chiến chống quân xâm lược của Trung quốc hầu như không còn được nhắc đến trên báo chí, truyền thông nhà nước tại Việt Nam nữa. Cuộc tượng niệm ngày 16 tháng 2 năm 2014 tại Hà Nội của những người yêu nước dưới chân tượng đài Lý Thái tổ bị nhà cầm quyền ngăn chặn bằng mở nhạc ầm ĩ và một đám đông khiêu vũ “mừng đảng mừng Xuân”! Những người đã hy sinh trong cuộc chiến 1979 đã bị lãng quên một cách có ý thức. Trong khi đó, một tác phẩm nói về lính Trung Quốc chết trong cuộc chiến của nhà văn Mạc Ngôn do Trần Trung Hỷ dịch, lại được in và phát hành tại Việt Nam năm 2009. Những tên lính xâm lược thậm chí còn được gọi là “liệt sĩ”, mồ mả được tôn tạo ngay trên đất Việt.
Trong ngày 1 tháng 1 năm 2013, trả lời phỏng vấn của tờ Tuổi Trẻ Online, Thượng Tướng Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh đã nói:
“Một trong những đặc trưng của ý thức hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một đảng cộng sản lãnh đạo. Nếu có được một người bạn xã hội chủ nghĩa rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.”
Trong cái “ủng hộ và hợp tác cùng có lợi cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa” đó, đến hơn 90% các dự án trọng điểm của Việt Nam lọt vào tay tổng thầu Trung Quốc. Lấy lý do giá chào thầu rẻ, nhưng thực tế tiến độ thi công của dự án nào cũng chậm trễ, công nghệ đưa vào Việt Nam lạc hậu.
Trung Quốc còn tham gia vào dự án nhạy cảm, như thuê 50 năm gần 300 ngàn héc ta rừng đầu nguồn để “trồng rừng”, dự án Bauxite Tây Nguyên, các dự án nhiệt điện, cơ sở hạ tầng, v.v...
Cùng với các dự án là đội quân lao động Trung Quốc lên tới hàng chục ngàn kéo qua sống và làm việc, rải khắp từ Bắc chí Nam.
Nguồn khoáng sản của Việt Nam bị Trung Quốc khai thác ồ ạt, trực tiếp, hoặc đứng phía sau. Ở các tỉnh miền Bắc có đến hơn 60% mỏ có dấu hiệu của các doanh nghiệp đến từ Trung Quốc.
Trung Quốc còn giết chết hàng hóa Việt Nam thông qua đường tiểu ngạch. Nhiều loại hàng hóa không đảm bảo chất lượng, chạy theo mẫu mã, thị hiếu, rẻ tiền và độc hại tràn lan, chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, không hề được kiểm soát, ngăn chặn. Việt Nam trở thành thùng đổ rác khổng lồ của các ngành công nghiệp địa phương Trung Quốc.
Gần đây, số lượng các công ty Trung Quốc mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam ngày một nhiều. Trong năm 2014-2015, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng có kế hoạch cổ phần hóa 500 tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước, là cơ hội cho Trung Quốc nhảy vào. Nếu như họ mua nhiều cổ phần và chiếm đa số ghế trong hội đồng quản trị thì cái vỏ là Việt Nam nhưng thực chất là công ty Trung Quốc.
Theo số liệu tổng kết của Tổng Cục Thống Kê năm 2013, Trung Quốc là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với mức 23,7 tỷ USD. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, chủ yếu nguyên liệu, khoáng sản thô, chỉ đạt 13,1 tỷ USD. Nền kinh tế Việt Nam hiện rõ là một bức tranh lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc. Tờ Global Times trong ngày 10 tháng 02, 2014 đã đe dọa “không có Trung Quốc, nền kinh tế Việt Nam có thể bị lung lay”.
Trong khi ôm chân Trung Quốc, tập đoàn Hà Nội vẫn phải bám riết lấy thị trường Mỹ, hiện đóng góp 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu qua Mỹ năm 2013 đạt trên 25 tỷ USD, trong khi nhập khẩu khoảng 5 tỷ USD. Thặng dư bao nhiêu trong cán cân thương mại Việt-Mỹ thì tậạp đoàn Hà Nội mang đi vỗ béo hết cho hàng hóa của Trung Quốc.
“Trăm năm bia đá cũng mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Thời gian nhạt nhòa trôi qua, nhưng những khoảnh khắc sống động của lịch sử con người vẫn khắc vào tâm khảm. Gần 2000 năm sau, nhân dân và lịch sử vẫn nhớ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40; hơn một thiên niên kỷ sau vẫn nhớ trận Bạch Ðằng dìm quân Nam Hán của Ngô Quyền vào năm 939; hơn 600 năm sau vẫn nhớ Lê Lợi đánh tan tác quân Minh và 4 thế kỷ sau vẫn nhớ đại thắng quân Thanh của Nguyễn Huệ.
Mới chỉ 26 năm kỷ niệm hải chiến Trường Sa 1988, 40 năm hải chiến Hoàng Sa 1974 và 35 năm cuộc chiến biên giới năm 1979. Những khoảng thời gian rất ngắn trong trang sử hào hùng của dân tộc, vĩnh viễn và vô tận.
Triều đại cộng sản Việt Nam tồn tại được bao lâu nữa để giấu giếm những sự kiện trên? Nhưng dù thế nào thì nhân dân cũng không bao giờ quên. Bởi vì, vì danh lợi mà quên máu xương của những người đã nằm xuống bảo vệ non sông gấm vóc là tội ác.