main billboard

Marwyn S. Samuels xác định rằng: “Các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”. 

ĐÔNG HẢI VỚI HOÀNG SA TRƯỜNG SA THEO CHÍNH SỬ TRUNG QUỐC

hoangsamap 060110Theo cuốn “Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, trong bài “Nghiên Cứu về Lịch Sử và Địa Lý” học giả Hsieh Chiao-Min nhận định về cuộc Thám Hiểm của  Trung Hoa tại Đại Dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương. (1)

Theo những tài liệu lịch sử chính thống, thản hoặc nhà cầm quyền Trung Quốc cũng gửi những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ ba và thứ hai Trước Công Nguyên, cũng như tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ 15. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ ba Trước C. N. đến nhà Thanh từ  thế kỷ 17 đến thế kỷ 20). Tuy nhiên từ trước Thời Phục Hưng đã có những cuộc giao thương trên bộ và dưới thủy  theo Con Đường Tơ Lụa từ Trung Hoa qua Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. (2)

Dưới đời nhà Tần, lý do tôn giáo (Đạo Lão) là động lực thám hiểm đại dương. Những tài liệu chính thức như cuốn Tần Chí tường thuật rằng năm 211 Trước C.N., Tần Thủy Hoàng (221-210 Trước C.N.) sai một phái bộ gồm hàng ngàn đồng nam đồng nữ (trai gái tân) đi kiếm những dược phẩm có tác dụng đem lại trường sinh bất tử cho nhà vua tại đảo Đại Châu Bất Tử trong Đông Trung Quốc Hải (Great Immortal Island of the Eastern Sea). Mặc dầu vậy, Tần Thủy Hoàng không bất tử mà đã chết một năm sau đó (210 Trước C.N.). Và chế độ quân phiệt nhà Tần đã cáo chung sau 15 năm thống trị (221-206 Trước C.N).

Qua thế kỷ thứ hai Trước C.N., Hán Vũ Đế (140-87) khởi công tìm kiếm hệ thống lưu vực Sông Tây Giang (West River) để mở rộng con đường thương mại từ Hàng Châu đến Quảng Đông. Sau khi thôn tính Nam Việt năm 111 Trước C.N, nhà Vua nối liền được những tỉnh phía Tây Nam từ Vân Nam qua Ấn Độ và Nam Nga nhằm phát triển ngoại thương như xuất cảng vàng lụa đến miền Tây Á và La Mã  trên Con Đường Tơ Lụa (3)

Như vậy, trong thời Đế Quốc Thứ Nhất đời Tần Hán (First Empire), những cuộc thám hiểm đại dương tại Đông Trung Quốc Hải và Biển Nhật Bản chỉ nhằm tìm dược phẩm trường sinh bất tử và săn hải cẩu chứ không phải để chinh phục vùng Biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 Đặc biệt trong thế kỷ 15, từ đời Minh Thành Tổ (1403-1424), Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hòa đã 7 lần thám hiểm Tây Dương (Ấn Độ Dương). Và trong 28 năm, từ 1405 đến 1433, đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải đến tận Ba Tư, Biển Hồng Hải phía tây bắc ,và Đông Phi Châu kể cả Đài Loan về phía cực đông.

Sau khi Minh Thành Tổ mất năm 1424, Minh Nhân Tông và Minh Tuyên Tông không còn trọng đãi Trịnh Hòa. Và chuyến đi sau cùng lần thứ 7 (1431-1433) đã kết thúc chiến dịch “Thất Hạ Tây Dương”. Lịch sử Trung Quốc cũng phê phán những cuộc thám hiểm đại dương đời nhà Minh đã làm kiệt quệ kinh tế đất nước. Cho đến nay các sử gia cũng chưa tìm ra lý do những cuộc viễn chinh nặng phần trình diễn này. (4)

Những tài liệu lịch sử nêu trên đã được phổ biến tại Đại Hội Quốc Tế Kỳ I về Sử Địa Trung Quốc tại Đài Bắc năm 1968.

Trong đời Tây Hán, nhân vụ tranh chấp giữa các nước Nam Việt, Đông Việt và Mân Việt, Hán Vũ Đế phát động cuộc nam chinh năm 111 Trước C. N. để chinh phục Nam Việt, đồng thời khai phá hệ thống giang hải  Sông Tây Giang tại Quảng Đông. Và từ đó mở rộng con đường thương mại từ Hoa Nam đến Ấn Độ và miền Nam Nga. (5)

Như vậy theo chính sử Trung Quốc suốt từ thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 15, dưới 3 triều đại Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế và  Minh Thành Tổ không có tài liệu nào cho biết có các lực lượng hải quân Trung Quốc đi tuần thám để hành sử và công bố chủ quyền tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á.                                                                                                                                                                                                                                                                           
Quan niệm của Trung Hoa về đại dương được ghi chép trong những sách địa lý và đồ thư theo đó Trung Quốc là trung tâm của thế giới bao bọc bởi 4 đại dương (tứ hải). Theo Tuân Tử (thế kỷ thứ 3 Trước C.N.), nếu một người từ nước Yên (Hà Bắc) đi về phía bắc, và một người từ nước Việt (Chiết Giang) đi về phía nam, thì trong cuộc hành trình họ sẽ gặp nhau dầu rằng mỗi người đi một ngả. Do đó họ kết luận rằng quả đất hình tròn.

Đối chiếu lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc, sử sách ghi chép rằng năm 214 Trước C.N., sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân thôn tính các nước Bách Việt để chia thành 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc và Trung Việt). (Nước Việt ta thời đó có nhiều voi: Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi khởi nghĩa đánh nhà Hán, nhà Ngô; Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Quang Trung đuổi quân Thanh cũng ngồi trên mình voi đánh giặc).

Tuy nhiên các dân tộc Bách Việt không chịu ách đô hộ tàn bạo của nhà Tần. Họ trốn vào rừng chiến đấu và giết được Đồ Thư. Năm 207 Trước C. N. Triệu Đà đánh thắng An Dương Vương, rồi sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải để thành lập một quốc gia độc lập đóng đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu) lấy quốc hiệu là Nam Việt (207-111 Trước C.N.). Qua năm sau Lưu Bang cũng đánh thắng Hạng Võ và thành lập nhà Hán (206 Trước C.N. - 220 Tây Lịch).

Chữ “hải” trong quận Nam Hải không có nghĩa là biển mà là vùng đất xa xôi. Và quận Nam Hải là vùng đất phía cực Nam Trung Quốc (far-south). Cũng như Thanh Hải là một tỉnh phía cực Bắc và cực Tây tiếp giáp Mông Cổ và Tây Vực.

Như vậy Biển Nam Hải là vùng biển của quận Nam Hải thuộc tỉnh Quảng Đông.  Từ nguyên thủy, Biển Nam Hải có tên là Trướng Hải là vùng biển của tỉnh Quảng Đông, cách huyện Hải Phong 50 dậm ta (lý) về phía nam (khoảng  25km).

Theo Tân Tự Điển Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông  năm 1971 “Biển Nam Hải là vùng biển ven bờ chạy từ Eo Biển Đài Loan tới Quảng Đông” (6)

Theo Tự Điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì “Biển Nam Hoa thuộc chủ quyền chung của 5 quốc gia là Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan”. Do đó Biển Nam Hải (Southern Sea) không phải là Biển Nam Hoa (South China Sea).

Sau này Trung Quốc lợi dụng danh xưng để mạo nhận rằng Biển Nam Hải của tỉnh Quảng Đông chính là Biển Nam Hoa của Trung Quốc.

Ngoài ra một số tài liệu xuất bản mới đây còn khẳng định rằng từ đời Tây Hán đã có 100 ngàn hải quân Trung Quốc đi khai phá và chiếm cứ các hải đảo tại Biển Đông Hải. Đây chỉ là một khẩu thuyết vô bằng. Có chăng chỉ là cuộc nam chinh của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du phá tan trong trận Xích Bích năm 207.

Từ thế kỷ 15, các nhà thám hiểm đại dương và các nhà doanh thương Âu, Á như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ v…v… khi vượt Đại Tây Dương đến vùng biển tiếp giáp Ấn Độ, muốn cho tiện họ gọi vùng biển này là Ấn Độ Dương. Và khi qua Eo Biển Mã Lai đến vùng biển tiếp giáp Trung Hoa họ cũng tiện thể gọi vùng biển này là Biển Nam Hoa (ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).

Sự trùng điệp danh xưng này của các nhà địa lý Tây Phương không phải do sự thiếu am tường sử sách, mà chỉ là sự ghi nhận một tập quán về ngôn ngữ hàng hải. Như vậy Biển Nam Hoa cũng như Ấn Độ Dương không có tác dụng công nhận chủ quyền của Trung Hoa và Ấn Độ tại các vùng  biển này. Nó chỉ ghi nhận vị trí của Ấn Độ Dương là vùng tiếp giáp Ấn Độ cũng như Biển Nam Hoa là vùng tiếp giáp Hoa Nam.

Vả lại, về diện tích, Biển Nam Hải (hay Biển Nam) chỉ rộng chừng 25km, trong khi Biển Nam Hoa chạy từ bờ biển Quảng Đông tới bờ biển Nam Dương, và rộng tới 2000km.

Do đó, ngay cả người Trung Hoa với mặc cảm tự tôn cho Trung Quốc là trung tâm của thế giới cũng không dám ghi trong chính sử để mạo nhận và độc chiếm danh nghĩa và chủ quyền các hải đảo tại vùng biển này.

Như đã trình bầy, dưới đời Hán Vũ Đế, nước Nam Việt bị thôn tính và đổi tên thành Giao Chỉ  Bộ gồm 9 quận: Nam Hải và Hợp Phố (Quảng Đông), Thương Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Đạm Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (Bắc và Trung Việt). Từ đó các nhà sử học Trung Quốc như Chu Khứ Phi đời nhà Tống trong cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp vẫn gọi vùng biển Việt Nam là Giao Chỉ Dương.

Vụ Thất Hạ Tây Dương hồi thế kỷ 15 của Trịnh Hòa là 7 chuyến hải hành đi qua Biển Đông Hải để thám hiểm Tây Dương. (7)

Trong những chuyến đi này Trịnh Hòa không một lần nào ghé Việt Nam mà chỉ dừng chân tại hải cảng Chaban (Trà Bàn hay Đồ Bàn) thủ phủ Chiêm Thành (nay thuộc địa phận Qui Nhơn).

Chuyến đi thứ nhất rời vùng Thượng Hải và Phúc Kiến tháng 7 năm 1405 theo lộ trình Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Tích Lan và Calicut (Ấn Độ). Với một đội hải quân hùng hậu gồm tới 28 ngàn binh sĩ trên 62 tàu lớn trong đó có 300 sĩ quan và 70 hoạn quan. Ba chuyến công du đầu tiên không đi quá Ấn Độ. Những chuyến công du sau này đã vượt qua  Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập đến Biển Hồng Hải và Đông Phi.

Theo Giáo Sư  John King Fairbank tại Đại Học Harvard, mục đích những chuyến công du này không phải để thôn tính lãnh thổ nhưng chủ yếu nhằm thiết lập bang giao với hàng chục quốc gia duyên hải tại Ấn độ Dương và Biển Ả Rập. (8)

Trong chiến dịch Thất Hạ Tây Dương nho sĩ Mã Hoan viết sách “Doanh Nhai Thắng Lãm” chép câu cách ngôn hàng hải của các giới sứ giả, binh sĩ và thương gia mỗi khi đi qua hai vùng biển Thất Châu Dương và Côn Lôn Dương của Việt Nam. Thất Châu Dương gồm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh (Amphitrite, tên một tàu Pháp bị đắm tại đó). Côn Lôn Dương về phía nam là vùng biển tiếp giáp quần đảo Trường Sa:

Phía trên sợ Biển Thất Châu
Đi xuống phía dưới lại sầu Côn Lôn
La bàn kim lạc, lái mòn
Thuyền chìm người mất có còn gì đâu!

(Thượng phạ Thất Châu, Hạ phạ Côn Lôn, Châm mê đà thất, Nhân thuyền mạc tồn!)

Cho đến thế kỷ 18 đời nhà Thanh (năm 1744), sách “Hải Quốc Văn Kiến Lục” của học giả Trần Luân Quýnh cũng gọi Biển Đông Hải là Việt Hải hay Việt Dương.


HIỂM HỌA HUNG NÔ

Trong suốt 4 thế kỷ đời Tây Hán, Vương Mãng và Đông Hán,   Trung Quốc phải chật vật đương đầu với Hiểm Họa Hung Nô. Danh xưng Hung Nô tự nó đã hàm chứa ý nghĩa nhục mạ và phỉ báng, man di mọi rợ, dã man hung dữ chỉ đáng làm nô lệ cho Hán tộc.

Do sự tình cờ lịch sử Hung Nô và nhà Hán cùng khởi nghiệp đầu thế kỷ thứ 3 Trước C. N. (209 và 206), và cùng mai một hồi đầu thế kỷ thứ 3 Tây Lịch (216 và 220). Có thể nói trong thời gian này, ít nhất trong 350 năm, Trung Quốc coi Hung Nô là kẻ thù không đội trời chung.

Ngũ Hồ là năm rợ: rợ Hung Nô và rợ Yết (Mông Cổ), rợ Tiên Ti (Mãn Châu), rợ Chi và rợ Khương (Tây Tạng).

Trong  Đông Chu Liệt Quốc  có chuyện Chu Uy Vương truyền đốt lửa tại các phong hỏa đài để báo động sự tiến công của Hung Nô. Thực ra đây chỉ là màn hài kịch. Vì Hung Nô thì không thấy, chỉ thấy binh sĩ các nước chư hầu nhốn nháo kéo đến tiếp ứng rồi ngơ ngác kéo đi. Sau khi biết đó chỉ là trò đùa cho Bao Tự cười, các quân sĩ vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Và những lần tấn công sau này khi Hung Nô kéo đến, phong hỏa đài đốt lửa nhưng không thấy chư hầu nào gửi binh đến tiếp cứu. Mẩu chuyện này nói lên hiểm họa xâm lăng từ miền Bắc:

Hung Nô đóng chật Long Thành
Năm năm lính thú sắp hành quân cơ
Nào ai đánh trống giương cờ
Long Thành chiếm được cõi bờ dẹp yên.
(Thẩm Nguyên Kỳ, Chinh Phu)

Nhưng không phải bao giờ quân nhà Hán cũng thắng thế. Vì các kỵ binh Hung Nô là những thiện xạ có tài bắn cung từ trên lưng ngựa huyết hãn mã (mồ hôi đỏ như máu):

Thề quyết liều thân diệt rợ Hồ
Năm ngàn quân táng đất Hung Nô
Thương thay xương chất bờ Vô Định *
Chinh phụ thâm khuê vẫn đợi chờ.

(Trần Đào, Lũng Tây Hành)
*(Nguyễn Du, Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu) 

Và không phải bao giờ các binh sĩ nhà Hán cũng giữ vững niềm tin:

Bồ đào rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?
(Vương Hàn, Lương Châu Từ)

Qua nhà Tần đến nhà Hán, trong suốt hơn 400 năm mối lo gan ruột của nhà vua là đối phó một mất một còn với Hung Nô. Trong giai đoạn thịnh trị đời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã 5 lần sai quân đi chiến đấu tại các mặt trận tây bắc. Các phong hỏa đài dọc theo Vạn Lý Trường Thành là những trại tiếp liên báo động tại quan ải:

Gió lửa động sa mạc
Chiếu rực mây Cam Tuyền
Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý Tướng Quân.
(Lý Bạch, Tái Hạ Khúc).

Lý Tướng Quân ở đây là Lý Quảng, vị tướng lãnh nổi tiếng nhất trong Chiến Tranh Hung Hán.  Nhưng không phải bao giờ ông cũng đem lại chiến thắng cho Hán Vũ Đế (140-87 Trước C.N.). Năm 119 Trước C. N. Lý Quảng ở tuổi lục tuần, vì trái quân lệnh đã thất trận và phải tự sát để khỏi bị xử trảm với nhục hình.

Vẫn trong đời Hán Vũ Đế, năm 99 Trước C. N., cháu nội của Lý Quảng là Lý Lăng, một tướng lãnh can trường đã mạo hiểm vào sâu đất địch với 5 ngàn kỵ binh. Rốt cuộc đã bị 8 vạn quân Hung Nô bao vây và Lý Lăng phải quy hàng. Vì đứng ra bênh vực Lý Lăng, sử gia Tư Mã Thiên đã bị Hán Vũ Đế kết tội. Và thay vì bị xử trảm, nhà sử học chỉ bị thiến hoạn. Tư Mã Thiên là sử gia nổi tiếng đầu tiên của Trung Hoa.

Cũng trong đời Hán Vũ Đế, năm 90 Trước C. N., Lý Quảng Lợi, thượng cấp của Lý Lăng, cũng đã thất trận và bị Hung Nô bắt giữ. Và cũng như Lý Lăng, Lý Quảng Lợi đã được kén làm phò mã Hung Nô. Như vậy ba Tướng Quân họ Lý không đem lại vinh quang cho Hán Vũ Đế được coi là đệ nhất anh quân Trung Quốc. So với Trần Bình Trọng tử tiết vì bất khuất không chịu đầu hàng nhà Nguyên “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, Lý Lăng và Lý Quảng Lợi đã tỏ ra không xứng đáng là trượng phu.

Và  Lý Bạch, đệ nhất thi nhân Trung Quốc, cũng không thể tự hào về các tướng quân họ Lý, dầu rằng mỗi khi vua Hán chống kiếm dậy, lại vời Lý Tướng Quân. 

Ngoài ra nhà Tây Hán còn có hai điều bất ưng:  Năm 100 Trước C. N. Hán Vũ Đế sai sứ giả Tô Vũ qua Hung Nô để can thiệp vào chính sự một nước lân bang phía bắc.  Cơ mưu bại lộ, Tô Vũ bị bắt giam và quản thúc trong 19 năm, phải chịu nhục đi chăn dê tại vùng sa mạc nóng cháy và miền núi tuyết giá băng.

Trước đó, năm 111 Trước C. N., Hán Vũ Đế cũng đã dùng thủ đoạn này, sai sứ giả Thiếu Quí sang Nam Việt để âm mưu thôn tính đất đai. Thiếu Quí là tình nhân của Cù Thị, gốc người Hoa lấy lẽ Thái Tử Triệu Anh Tề trong thời gian làm con tin tại Trung Quốc. Khi về nước Triệu Anh Tề nối nghiệp cha lên ngôi lấy hiệu là Triệu Minh Vương. Khi Minh Vương mất, con là Hưng nối ngôi là Triệu Ai Vương. Sứ giả Thiếu Quí tư thông với Cù Thị, rồi dỗ dành Ai Vương đem dâng Nam Việt cho nhà Hán. 

Phát giác âm mưu này, Tể Tướng Nam Việt là Lữ Gia truyền hịch tố cáo hành vi phản quốc của mẹ con Cù Thị, Ai Vương. Rồi đem cấm binh vào giết bộ ba Thiếu Quí, Cù Thị, Ai Vương  để lập Kiến Đức lên làm vua là Triệu Dương Vương.

Mượn cớ báo thù cho Thiếu Quí, Hán Vũ Đế sai 5 đạo quân sang đánh Nam Việt, sát hại Tể Tướng Lữ Gia và Triệu Dương Vương. Và năm 111 Trước C. N. Nam Việt bị Trung Hoa thôn tính sau gần một thế kỷ độc lập, hùng cứ suốt giải trung nguyên, từ Núi Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ xuống miền Nam với Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Việt Nam. Điều đáng tiếc cho uy tín nhà Hán là, với thủ đoạn dùng miệng lưỡi sứ giả để thôn tính lân bang, Hán Vũ Đế chỉ thành công tại Nam Việt nhưng đã bị thất bại trong vụ Tô Vũ chăn dê.

Và năm 33 Trước C. N., cũng dưới đời Tây Hán, Hán Nguyên Đế phải đem Vương Chiêu Quân cống Hồ, dầu rằng theo văn học sử, Vương Tường  là một trong bốn đại mỹ nhân Trung Quốc, cùng với Tây Thi, Hằng Nga và Dương Quý Phi. Cũng trong năm này Hán Nguyên Đế đã từ trần vài tháng sau khi Chiêu Quân xuất giá.

Để tưởng nhớ Tô Vũ và Chiêu Quân, thi sĩ Bạch Cư Dị đã sáng tác bài thơ:

Chim Hồng bạt gió ngoài biên
Nửa sa cát biển, nửa in mây trời
Chiêu Quân, Tô Vũ đôi nơi,
Dưới trăng, trên tuyết chơi vơi nỗi lòng…
 
(Thính Biên Hồng)

Trong giới văn nhân cũng có ý kiến bài bác Chiêu Quân trong vụ kết hôn với Chúa Hung Nô và sinh hạ được 3 người con. Nàng thường gẩy đàn tì bà mỗi khi hầu rượu Chúa Thiền Vu:

Nực cười Chiêu Nữ qua biên tái
Dạo đàn chuốc rượu Chúa Thiền Vu.
(Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái
Tì bà bồi tửu khuyến Thiền Vu). (Tố Như)

Chúng ta hãy đối chiếu trường hợp Chiêu Quân đời Hán với Huyền Trân đời Trần. Sau 3 lần đánh thắng Mông Cổ, trong chuyến du ngoạn Chiêm Thành, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông hứa gả công chúa Đại Việt cho vua Chiêm. Với vinh dự được làm rể Đại Việt, Chế Mân đem vàng lụa xin cầu hôn và dâng Châu Ô và Châu Ri làm lễ cưới. Việc này có tác dụng gây lại tình hòa hiếu giữa hai nước lân bang. Đó cũng là cơ hội cho Việt Nam bành trướng lãnh thổ về phía Nam đến Thuận Hóa (Huế). Với hiểm họa trường kỳ xâm lăng từ miền Bắc, chính sách khai hóa miền Nam là quốc sách sống còn của Việt Nam. Cũng như đời Tần Hán Trung Quốc đã thôn tính và Hán hóa các sắc dân Bách Việt tại Quảng Đông, Quảng Tây và đảo Hải Nam nguyên là những lãnh thổ cổ truyền của Việt Nam từ đời các Vua Hùng Vương đến đời nhà Triệu.

Như vậy những chiến công của Hán Vũ Đế đã bị hoen ố trước vụ sỉ nhục của 3 tướng quân họ Lý và 2 sứ giả Thiếu Quí, Tô Vũ. Ngoài ra Hán Nguyên Đế đã phải dâng cung phi Vương Tường cho Hung Nô, một phần do tệ nạn tham nhũng của Mao Diên Thọ (một họa công thái giám). Đây là bằng chứng rõ nét nhất về sự suy vong của nhà Tây Hán từ Hán Vũ Đế đến Hán Nguyên Đế trong thế kỷ thứ nhất Trước C.N. .

Qua đời Đông Hán, trong số 12 triều đại, có ít nhất 8 vua còn là những hài nhi hay thiếu nhi, tuổi từ 3 tháng đến 15 năm.

Ngoài ra, với mặc cảm tự tôn, người Hán còn chê cười Hung Nô với tập quán em chồng lấy chị dâu. Tuy nhiên học giả Wen Yen Tsao trong cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ thượng dẫn, cũng không coi đó là điều đáng trách trong xã hội cổ xưa. Theo tác giả, các dân tộc cựu Do Thái (ancient Hebrews) cũng có tục lệ chị dâu góa bụa lấy em chồng (levirate).

Vả lại ngay tại Trung Quốc, đến thế kỷ thứ 8 cũng có trường hợp vua Đường Huyền Tông lấy con dâu là Dương Quý Phi (nhũ danh Dương Ngọc Hoàn, vợ Thọ Vương Mạo, con thứ mười tám của Đường Huyền Tông). Và mối tình vương giả Dương Quý Phi - Đường Minh Hoàng đã được Bạch Cư Dị ca tụng trong bài Trường Hận Ca bất hủ dài 120 câu.

Như vậy trong mấy chục thế kỷ từ các đời Thương, Chu, Xuân Thu, Chiến Quốc, Tần Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều đến đời Tùy, Đường, hiểm họa Hung Nô vẫn còn là đại họa cho Trung Quốc. Trong vụ phản loạn An Lộc Sơn đời Đường Huyền Tông cũng có sự tiếp tay của các rợ Hung Nô miền Bắc:

Đông sang, mười quận tài trai
Máu tuôn thành suối đỏ tươi ròng ròng
Im lìm trời vắng đồng không
Nghĩa quân bốn vạn chết trong một ngày
Giặc Hồ tên tẩm máu đầy
Hát câu Hồ Mán uống say phố phường.

(Đỗ Phủ, Bi Trần Đào)

Và trên đường rút quân về Tây Thục, dưới áp lực của các tướng sĩ, Đường Minh Hoàng đã phải bức tử Dương Quý Phi tại Mã Ngôi.
Với nạn Hung Nô khát máu trong vụ An Lộc Sơn tại Hàm Dương, Đỗ Phủ đã đề xướng quan niệm hiếu hòa và hiếu sinh. Theo nhà thi sĩ các quốc gia chỉ cần võ trang chống ngoại xâm, chứ không nên xâm lấn các nước hiếu hòa lân bang.

Giết người hãy nhẹ tay làm phước,
Mỗi quốc gia mỗi nước riêng phần.
Chỉ cần chặn đứng xâm lăng
Can chi sát hại cả làng quan quân?
(Sát nhân diệc hữu hạn; Liệt quốc tự hữu cương; Cẩu năng chế xâm lăng; Khởi tại đa sát thương.
(Đỗ Phủ, Tiền Xuất Tái)

Và trái với chính sách đúc dụng cụ kim khí thành sắt thép trong thời “Bước Nhảy Vọt” của Mao Trạch Đông, Đỗ Phủ khuyến cáo nhà cầm quyền đúc võ khí thành điền khí cho người cầy có nông cụ tăng gia sản xuất đem lại cơm no áo ấm cho người dân và thanh bình thịnh trị cho quốc gia, tránh nạn binh đao tàn sát:

Ước gì khí giới thành nông cụ,
Ruộng đất đâu còn bị thất canh?
Trâu cầy hết ruộng, tầm tang cũng thành,
Phiền chi liệt sĩ sa dòng lệ
Trai cầy, gái dệt hát thanh bình.

(Yên đắc chú giáp tác nông khí; Nhất thốn hoang điền ngưu đắc canh.
Ngưu tận canh, tàm diệc thành, Bất lao liệt sĩ lệ bàng đà, Nam cốc nữ ti hành phục ca. Đỗ Phủ, Tàm Cốc Hành).

Như vậy, theo chính sử Trung Quốc, từ các đời Tần Hán,Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy Đường, sử sách không ghi chép việc hải quân Trung Quốc đi tuần thám Biển Đông Hải để chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đồng thời công bố và hành sử chủ quyền tại các hải đảo này.

Đến đời Nhà Minh trong thế kỷ 15, về những cuộc thám hiểm đại dương, các sử gia Trung Quốc và Tây Phương đã tường thuật về những chuyến hải hành của Trịnh Hòa. Theo họ đó không phải để khám phá những tiểu đảo san hô tại Biển Đông Nam Á, mà chỉ nhằm phát triển tương quan  ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và 30 quốc gia Á Phi tại Ấn Độ Dương. (9)

Để có cái nhìn khách quan trung thực, chúng ta hãy kiểm điểm khái quát những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị của các triều đại Trung Hoa từ đời nhà Tần đến đời nhà Thanh. Từ đó chúng ta có thể nhận định rằng Trung Quốc không có điều kiện khách quan và chủ quan để thôn tính Biển Đông Hải và giành giật chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo lịch sử Trung Quốc, 3 trở ngại cho việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế là:

1. Hiểm họa Hung Nô từ đông bắc Mãn Châu, chính bắc Mông Cổ và phía tây Tân Cương và Tây Tạng. Đây là hiểm họa gan ruột làm suy vong chế độ suốt từ các đời Thương Chu, Tần Hán, Tùy Đường, Lưỡng Tống. Từ thế kỷ 13 và thế kỷ 17, nhà Nguyên Mông và nhà Mãn Thanh đã làm chủ Trung Hoa.

2. Nạn mưu bá đồ vương trong hầu hết các đời vua trị vì, nhiều khi dựa vào thế lực Hung Nô với sự lộng quyền của phe thái giám hoạn quan.

3. Âm mưu tranh đoạt quyền lực nội bộ giữa anh em, chú cháu cũng như giữa các bà thái hậu và các tự quân còn non trẻ.

Thời Đế Quốc Tần Hán

Năm 221 Trước C.N., nhà Tần thống nhất đất nước, tập trung quyền lực trong chế độ độc tài quân phiệt, bãi bỏ chính sách phân chia ruộng đất (tỉnh điền) và chế độ tư tưởng phóng khoáng thời Bách Gia Chư Tử. Mặt khác huy động toàn dân vào việc xây đắp trường thành chống Hung Nô và xây dựng cung điện nguy nga như Cung A Phòng với những hy sinh khủng khiếp: 1 triệu viên đá xây thành là 1 triệu dân hy sinh thân sống. Lịch sử Trung Hoa kết án Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa đã từ bỏ quan niệm hòa bình nhân ái của Khổng Mạnh lấy dân làm trọng, và coi nhẹ chính quyền (dân vi quý, quân vi khinh). Vì quá lao tâm lao lực, Tần Thủy Hoàng chỉ trị vì được 11 năm (221-210 Trước C. N.). Từ đó với những âm mưu tranh giành quyền lực, cà thái tử lẫn tể tướng đã phải hoặc tự sát, hoặc bị giết. Vua Tần Nhị Thế cũng bị một viên quan hoạn giết sau 4 năm trị vì. Dân 6 nước bị nhà Tần tiêu diệt thời Chiến Quốc cùng những dân công khổ sai đã vùng đứng lên tiêu diệt chế độ nhà Tần năm 206 Trước C.N.

Lúc này tại miền Hoa Nam, quân đội Trung Quốc không lai vãng đến vùng Biển Đông Hải.

Kế nghiệp nhà Tần là nhà Hán kéo dài hơn 4 thế kỷ (206 Trước C. N. -220 Tây Lịch).

Sau 8 năm Hán Sở tranh hùng, Hán Vương Lưu Bang thắng Sở Vương Hạng Võ. Họ Lưu khởi nghiệp từ miền Hán Giang (một chi nhánh của Dương Tử Giang) đã trừ được nhà Tần, diệt được nhà Sở và thống nhất Trung Hoa lên ngôi lấy hiệu là Hán Cao Tổ (206-195 Trước C. N.).

Trước đó một năm, năm 207 Trước C. N., Triệu Đà lên ngôi hiệu là Triệu Vũ Vương sau khi đánh thắng An Dương Vương và sát nhập Âu Lạc với Nam Hải để thành lập nước Nam Việt độc lập, đặt thủ đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu).

Trong khi tại miền Bắc, Hán Cao Tổ chỉ trị vì được 11 năm, thì tại miền Nam, Triệu Vũ Vương đã chấn chỉnh và mở rộng bờ cõi trong suốt 70 năm (207-137 Trước C. N.). Năm 196 Trước C. N. Hán Cao Tổ sai Lục Giả sang phong tước cho Triệu Vũ Vương.

Sau khi Hán Cao Tổ mất bà Lữ Hậu lâm triều lộng hành không cho người Việt mua các đồ sắt, điền khí và trâu bò nái. Triệu Vũ Vương xưng là Triệu Vũ Đế rồi cử binh đánh bại quân nhà Hán tại Trường Sa (Hồ Nam). Sau khi Lữ Hậu mất, Hán Văn Đế lại sai Lục Giả sang thương thuyết, yêu cầu Triệu Vũ Đế bỏ đế hiệu, cam kết rằng: “Tại miền Hồ Quảng, từ phía nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, Triệu Vũ Vương được toàn quyền cai trị”.

Đến năm 111 Trước C. N., khai thác mâu thuẫn giữa ba nước Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt, Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt đồng thời mở rộng con đường thương mại với Ấn Độ, Ba Tư và Nam Nga. (10)

Theo Giáo Sư C. P. Fitzgerald., trong trường hợp nước Nam Việt giữ vững nền độc lập, thì dầu nhà Hán có chiếm được miền Quảng Châu và Vân Nam họ cũng sẽ không thành công trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ tại vùng châu thổ Sông Tây Giang phía đông nam Trung Quốc. (11)

Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard cũng cho rằng mục tiêu chủ yếu của Hán Vũ Đế nhằm khai phá Con Đường Tơ Lụa tới Tây Á và La Mã.

Tuy nhiên, sau cái chết của Hán Vũ Đế năm 87 Trước C.N., Nhà Hán bắt đầu suy thoái. Trong đời Hán Nguyên Đế (48-33 Trước C.N.), quân Nhà Hán đã phải rút khỏi Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) cho đến cuối thế kỷ thứ 6 đời Lương, Tùy mới đặt lại nền cai trị.  Nếu nhà Hán đã bỏ đảo Hải Nam thì cũng không lý vấn đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Đông Hải.

Tiếp theo thời Đế Quốc Tần Hán là Thời Đại Phân Hóa Thứ Nhất với các đời Tam Quốc, Lưỡng Tấn và Nam Bắc Triều.

Thời Đại Phân Hóa Thứ Nhất

Trong đời Tam Quốc (220-265), với thế chân vạc Ngụy, Thục, Ngô, không nước nào dám mạo hiểm và có thực lực đi thôn tính biển Đông Hải. Có lần Tào Tháo kéo quân dẹp loạn Hung Nô phía Đông Bắc (Mãn Châu). Chiến dịch này đã bị các cố vấn quân sự cho là quá mạo hiểm và có thể đưa chế độ đến tiêu vong trong trường hợp Lưu Bị và Tôn Quyền phối hợp từ Thành Đô (Tây Thục) và Kiến Nghiệp (Đông Ngô) kéo quân đánh úp Hứa Đô.

Thời Hán mạt, Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đem vài trăm ngàn quân (phóng đại là 80 vạn) đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du đánh tan trong trận hải chiến Xích Bích năm 207.

Đến đời Nhà Tấn (265-420) có loạn Nhung Địch từ phía Tây Bắc lũ lượt nổi lên chiếm giữ cả vùng Bắc Trường Giang để xưng vương, xưng đế tại các nước Triệu, Tần, Yên, Lương, Hạ và Hán cả thảy 16 nước gọi là loạn Ngũ Hồ. Sau 50 năm trị vì tại miền Tây Bắc, nhà Tấn đã phải lui về phía Đông Nam để dựng nghiệp Đông Tấn tại Nam Kinh.

Sau khi nhà Tấn mất ngôi, có nạn phân hóa Nam Bắc Triều với 7 nước là Ngụy, Tề, Chu phía bắc và Tống, Tề, Lương, Trần phía nam.

Do sự phân hóa này Trung Quốc không còn sinh khí. Đến đời nhà Lương, tại Giao Châu, Lý Bôn phất cờ khởi nghĩa xưng là Lý Nam Đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Tiếp đó Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử kế nghiệp Nhà Tiền Lý trong gần 60 năm (từ năm 544 đến 602).

Thời Đế Quốc Tùy Đường

Kế tiếp đời Nam Bắc Triều, Nhà Tùy trị vì được 30 năm, và cùng với Nhà Đường khởi sự Thời Đế Quốc Thứ II (Second Empire). Đây là thời thịnh trị cả về kinh doanh thương mại lẫn văn học nghệ thuật. Đường Minh Hoàng làm thơ ca tụng Khổng Tử. Các đại sư như Huyền Trang sang Ấn Độ thỉnh kinh Phật. Các thi sĩ nổi tiếng nhất đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy v…v… đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tư tưởng Lão Trang, Khổng Mạnh và Phật Giáo.

Tuy nhiên trong giai đoạn thoái trào vào thế kỷ thứ 8 có loạn An Lộc Sơn với các binh sĩ Ngũ Hồ từ miền Bắc xâm chiếm thủ đô.

Sự suy đồi của Nhà Đường dẫn tới đời Ngũ Đại kéo dài hơn 50 năm. Đây là 5 đời kế nghiệp các triều đại đã có từ trước như các nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu.Thừa cơ hội lịch sử này Ngô Quyền kết tập binh mã phá tan quân Nam Hán năm 938 trong  trận hải chiến Bạch Đằng Giang. Từ đó Việt Nam được giải phóng  khỏi nạn Bắc Thuộc một ngàn năm, mở đường cho kỷ nguyên độc lập với các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê và Nguyễn từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 19. 

Hồi giữa thế kỷ thứ 10, Đinh Bộ Lĩnh bình định được Thập Nhị Sứ Quân lên ngôi hiệu là Đinh Tiên Hoàng Đế. Tuy nhiên triều đại nhà Đinh chỉ kéo dài được trên 10 năm, và đã bị kẻ quyền thần sát hại cả tiên hoàng lẫn hoàng tử.

Thừa dịp này quân nhà Tống kéo sang xâm chiếm nước Nam. Để chống ngoại xâm các tướng sĩ tôn Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn lên làm vua. Và năm 981 Lê Đại Hành đánh thắng lục quân nhà Tống với Hầu Nhân Bảo và thủy quân với Lưu Trừng tại Bạch Đằng Giang.

Năm 1075, dưới đời Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân vượt biên vây đánh Châu Khâm, Châu Liêm tại Quảng Đông và Châu Ung tại Quảng Tây. Qua năm sau nhà Tống đem quân sang báo thù. Nhưng một lần nữa lại bị Lý Thường Kiệt đánh bại trên sông Như Nguyệt (Bắc Ninh).

Sau nhiều lần dụng võ thất bại, do sự trình tấu của hoàng thân Triệu Nhữ  Quát, vua Tống phải theo chính sách “Trọng Võ Ái Nhân” (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng), và đã thừa nhận nền độc lập của Việt Nam.

Kết quả là hai nước lại thông sứ. Vua nhà Lý truyền phóng thích tất cả các tù binh người Tống, trên 15 tuổi bị thích trên trán 3 chữ  “Thiên Tử binh”, và 3 chữ  “đầu Nam Triều” cho các tù binh trên 20 tuổi. Các phụ nữ trợ tá được thích 2 chữ “quan khách” bên tay trái.  

Nhà Tống do Triệu Khuông Dận thiết lập kéo dài hơn 300 năm từ thế kỷ thứ 10 tới thế kỷ 13 (960-1280). Qua thế kỷ 12 nhà Tống bị bao vây bởi Bắc Liêu (Mông Cổ) về phía Bắc và Tây Hạ (Mãn Châu) về phía Tây. Từ đầu thế kỷ 11 vua nhà Tống đã phải hàng năm triều cống Bắc Liêu 10 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa. Tới đầu thế kỷ 12 (năm 1127) nước Kim (Mãn Châu) lấn chiếm toàn cõi phía Bắc Trung Hoa khiến Vua Tống phải bỏ miền Bắc dời đô về Hàng Châu (Chiết Giang) gọi là Nam Tống. Đây là một thời đại suy vi kéo dài 150 năm. Với sự phân hóa và mâu thuẫn nội bộ Nhà Tống không còn dòm ngó đến Việt Nam cả trên lục địa đến ngoài hải phận.

Qua thế kỷ 13 Trung Quốc bị Mông Cổ thôn tính trong gần 90 năm. Năm 1257, quân Mông Cổ đánh Vân Nam và tràn sang Đại Việt.

Trước đó trong chiến dịch Tây Tiến, dưới hiệu kỳ Thành Cát Tư Hãn, quân Mông Cổ đã chiếm giữ vùng Trung Á 6 ngàn dặm đến Hung Gia Lợi và nước Nga tại Bắc Âu và Ba Tư tại Nam Á. Lúc này họ còn thôn tính nước Tây Hạ phía tây bắc, nước Kim phía đông bắc rồi tràn sang Triều Tiên. Sau khi dẹp nhà Tống và đặt nền thống trị tại Trung Quốc, Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý hay Vân Nam Phủ. Tuy nhiên, tại Đại Việt, với quân dân một lòng, nhà Trần đã đánh tan quân Mông Cổ tại Đông Bộ Đầu năm 1257. Đây là chiến thắng đầu tiên của Đại Việt đối với nhà Nguyên.

27 năm sau, năm 1284, con Nguyên Chủ là Thoát Hoan kéo quân sang báo thù.

Trong Hội Nghị Diên Hồng, các bô lão đồng thanh xin đánh. Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12 năm 1284 đến tháng 6 năm 1285, quân Đại Việt đã đánh đuổi quân Mông Cổ ra ngoài bờ cõi. Toa Đô bị bắn chết, Ô Mã Nhi bị đuổi quá gấp phải một mình xuống thuyền chạy trốn, và Thoát Hoan phải chui ống đồng lên xe chạy thoát về Tầu.

Thời gian này Hốt Tất Liệt đã có kế hoạch thôn tính quần đảo Phù Tang. Nay quân Thoát Hoan đại bại kéo về, Nguyên Chủ phải đình chỉ kế hoạch Đông Tiến. Và hai năm sau, đầu năm 1287 Thoát Hoan lại tập trung lực lượng kéo quân sang Đại Việt để báo thù lần thứ hai.

Tuy nhiên, cũng như lần trước, chỉ trong vòng một năm quân Mông Cổ đã mua lấy thất bại. Ô Mã Nhi lần này bị bắt sống tại Bạch Đằng Giang. Sau đó Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật và Phạm Ngũ Lão đại phá quân Nguyên cũng tại Bạch Đằng Giang khiến Thoát Hoan phải thu tàn binh tháo chạy về Yên  Kinh. Và tại Thăng Long, Trần Nhân Tông đem các tướng nhà  Nguyên bị bắt như Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm lễ hiến phù tại Chiêu Lăng.

Đây là một vinh dự cho Đại Việt đã ba lần đơn phương phá vỡ kế hoạch Nam Tiến (tại Việt Nam), đồng thời ngăn cản cuộc Đông Tiến (tại Nhật Bản) của đoàn quân mệnh danh là bách chiến bách thắng từ đời Thành Cát Tư Hãn.

Và sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dám dòm ngó đến Việt Nam cả trên lục địa đến ngoài hải phận. Và trong các thế kỷ 13 và 14 Quân Mông Cổ không chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 Trong cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa” Marwyn S. Samuels xác định rằng: “Trong suốt thế kỷ 14 các đội hải thuyền hùng mạnh của nhà Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị chiếm đóng và không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”.

Vẫn theo Marwyn  S. Samuels “không có bằng chứng nào cho thấy nhà Thanh đã sát nhập các hải đảo này vào lãnh thổ Trung Quốc”

Như đã trình bày, trong bài “Thám Hiểm Đại Dương”, học giả Hsieh Chiao-Min nhận định rằng “suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Trung Hoa không  mấy chú trọng đến đại dương”. Thuyết bế quan tỏa cảng được áp dụng từ đời nhà Tần (thế kỷ thứ 3 Trước C. N.), Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kiến trúc mà còn là một nhân sinh quan. Miền bờ biển được coi là nơi hoang vu man rợ, đảo Hải Nam là chốn lưu đày các tù nhân biệt xứ. Trong giả thuyết “Cổ Tẩu sát nhân” của Mạnh Tử (thế kỷ thứ IV Trước C.N.), vua Thuấn vào ngục thất cứu cha là Cổ Tẩu (phạm tội cố sát) rồi cõng cha chạy  trốn về vùng bờ biển để mai danh ẩn tích đến trọn đời.  Sau khi chôn sống 460 nho sĩ tại Hàm Dương, Tần Thủy Hoàng lưu đầy tất cả các nho sĩ đối kháng tại miền bờ biển. Trung Hoa là một đại lục bao la, cả miền Tây và miền Bắc đất rộng mênh mông còn chưa khai phá. Vậy mà từ đời nhà Tần, Trung Hoa đã tự cô lập từ trong đất liền đến ngoài đại dương. Cho đến đời nhà Thanh vào thế kỷ 19, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn được thi hành.

Với tâm lý tự cô lập, không thể có 100 ngàn quân nhà Hán đi khai phá các tiểu đảo san hô tại Đông Hải. (Rất có thể, như đã trình bầy, đó là 10 vạn thủy quân của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du đánh tan trong trận Xích Bích).

“Trung Hoa không bao giờ là một cường quốc đại dương. Dân tộc Trung Hoa trong 4 ngàn năm chỉ sống về ruộng đất với những tập tục và quan niệm sống của nhà nông” (James Fairgrieve, Geography and World Power,  London, 1921).

“Với các đặc tính của một dân tộc lục địa, Trung Hoa không phải là một cường quốc đại dương. Chú tâm của họ hướng về đất liền tại miền Trung Á hơn là ra hải ngoại. Do đó các kiến thức của họ về biển cả và duyên hải thật quá thô sơ”. (E. B. Elridge, The Background of  Eastern  Sea Power, Melbourne, 1948).

Trong cuốn “Lịch Sử Trung Hoa Thời Trung Cổ” ghi trên, giáo sư Hsieh Chiao-Min ghi nhận rằng, theo chính sử, từ thế kỷ thứ III và thế kỷ  thứ II Trước C. N., người Trung Hoa chỉ đi thám hiểm tại vùng Biển Nhật Bản để tìm thuốc trường sinh bất tử cho Tần Thủy Hoàng. Họ không nghĩ có lục địa bên kia Thái Bình Dương. Do đó mọi cuộc thám hiểm đều hướng về Tây Dương.

Mãi đến thế kỷ thứ 15 dưới đời Minh Thành Tổ (1403-1424) mới có những vụ thám hiểm đại dương tại các nước Nam Á như Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Ấn Độ, Ba Tư và Ả Rập đến Biển Hồng Hải (Red Sea) và một số quốc gia Đông Phi. Theo giáo sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard, từ năm 1400 Thời Phục Hưng Trung Hoa đã liên lạc với nhiều quốc gia trong việc kinh doanh thương mại hàng hải từ cả trăm năm. (12)

Đồng thời với 5 chiến dịch Bắc Tiến chống Mông Cổ , Minh Thành Tổ đã phái thái giám Trịnh Hòa hướng dẫn 7 cuộc hành trình tại Ấn Độ Dương mệnh danh là “Thất Hạ Tây Dương” (Tây hay Tây Trúc chỉ Ấn Độ và Tây Dương là Ấn Độ Dương).

Điều đáng lưu ý là trong 7 chuyến công du tại trên 30 quốc gia ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong 28 năm (từ 1405 đến 1433) chính sử Trung Hoa cũng ghi rõ phái bộ Trịnh Hòa chỉ đi qua Biển Nam Hoa, và những chuyến công du này không hướng về Đông Hải mà chỉ nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương  (13)

Như vậy không có chuyện phái bộ Trịnh Hòa đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chiếm hữu và hành sử chủ quyền. Mà chỉ đi ngang qua vùng biển Thất Châu Dương gồm 7 đảo thuộc Nhóm An Vĩnh Hoàng Sa.

Vả lại như sách Doanh Nhai Thắng Lãm của Mã Hoan (Ma Huan: Triumphant Vision of the Boundless Ocean) đã ghi chép, các nhà doanh thương, thám hiểm và các sứ giả thường khiếp vía mỗi khi phải đi qua Thất Châu Dương và Côn Lôn Dương: (Thượng phạ Thất Châu; hạ phạ Côn Lôn…).

Theo họa đồ hải trình do Giáo Sư John King Fairbank  phác họa, Trịnh Hòa khởi sự chuyến đi từ Nam Kinh, Hàng Châu, Phúc Châu (Phúc Kiến), đến Chaban (Trà Bàn hay Đồ Bàn), thủ phủ Chiêm Thành. Trong ba chuyến hải trình đầu tiên, phái bộ vượt Đông Hải, đến Phi Luật Tân, Java, Palembang tại Nam Dương, qua Eo Biển Mã Lai đến Tích Lan và Ấn Độ. Cũng có một nhóm phụ ghé Thái Lan và Miến Điện. Trong những chuyến đi kế tiếp đã vượt qua Ấn Độ, Ba Tư, Biển Hồng Hải  đến Đông Phi tại các thị trấn Mogadishu và Malindi. (John King Fairbank: The Voyages of Zheng He, p. 133)

Như vậy theo chính sử Trung Quốc do các sử gia tại Đài Loan, Hoa Kỳ và Anh Quốc biên soạn thì trong suốt chiều dài lịch sử, từ các đời Tần Hán, Tùy Đường, Tống Nguyên đến đời nhà Minh, không thấy một dòng chữ nào đề cập đến việc Trung Quốc đem quân đến chiếm cứ các hải đảo tại Biển Đông Hải. Các chuyến hải hành chỉ vụ vào việc bành trướng thế lực ngoại giao và phát triển giao thương giữa Trung Hoa với các quốc gia Á Phi tại Biển Nam Hoa, Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập. Con đường thương mại hàng hải được thiết lập từ Thời Phục Hưng hay từ thế kỷ thứ 10, với các dịch vụ về tơ lụa, đồ sứ và tiền đồng. Và 7 chuyến công du của Trịnh Hòa trong 28 năm là một công trình quy mô. (14)

6 chuyến công du đầu tiên (từ 1405 đến 1421) được điều động dưới triều Minh Thành Tổ (1403-1424). Khi Minh Nhân Tông và Minh Tuyên Tông nối ngôi, Trịnh Hòa không còn được ưu đãi nữa. Và mãi 10 năm sau, Trịnh Hòa mới được giao phó chuyến đi sau cùng năm 1431-1433. Đây là cuộc hành trình xa nhất đến tận biển Hồng Hải phía Bắc Arabia và miền duyên hải Đông Phi Châu mang nhiều phái đoàn ngoại giao đến viếng Trung Quốc.

Những chuyến hải hành chỉ nhằm phô trương thanh thế cho Minh Thành Tổ chứ không thực sự đem lại kết quả cụ thể nào về mặt ngoại giao và  thương mại. Từ đó dư luận trong nước đã phê phán những chuyến đi phô trương nặng phần trình diễn làm hao mòn công quỹ khiến cho kinh tế quốc gia bị suy thoái. (15)

Riêng tại Đại Việt, học giả J.K. Fairbank cũng nói về cuộc xâm lăng quân sự khởi sự năm 1407 và kết thúc năm 1428. Kết cuộc, với những tổn thất đáng kể, nhà Minh phải trả chủ quyền độc lập cho Việt Nam. (16)

Riêng đối với Minh Thành Tổ, trái với dư luận thông thường, ngày nay các sử gia không nhìn nhận đó là một anh quân. Nguyễn Du đã chứng minh điều đó trong bài “Kỳ Lân Mộ” viết khi đi công du Bắc Triều.

Nhà thi sĩ kể lại chuyện năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ) có con kỳ lân cống vua bị chết, mộ xây bên đường. Dân gian thường nói khi kỳ lân xuất hiện là lúc thánh nhân ra đời. Nhưng Minh Thành Tổ (Yên Vương Đệ) không phải là một thánh nhân mà là một bạo chúa đã nhẫn tâm cướp ngôi của cháu ruột là Minh Huệ Đế (cháu đích tôn Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương là người đã đánh bại Mông Cổ để thiết lập Nhà Minh hồi giữa thế kỷ 14).

Chỉ trong vòng 5 năm, cũng như Tần Thủy Hoàng, Minh Thành Tổ đã sát hại hơn 100 vạn mạng người (ngũ niên sở sát bách dư vạn) trong việc xây thủ đô Bắc Kinh tại nước Yên, xây Vạn Lý Trường Thành và các cung điện.

Ngoài ra còn tru di thập tộc (giết oan mười họ) Phương Hiếu Nhụ là vị trung thần đã chịu chết chứ không chịu thảo chiếu lên ngôi cho Yên Vương Đệ. Phương Hiếu Nhụ chỉ viết 4 chữ “Giặc Yên cướp ngôi”, (Giặc Yên là Yên Vương Đệ). Đệ giận hỏi:  “không sợ tru di 9 họ sao?”  Phương Hiếu Nhụ nói “dù giết cả 10 họ ta cũng không sợ!”. Tức thì Đệ truyền phanh thây Phương Hiếu Nhụ rồi quy tất cả môn sinh của ông làm họ thứ 10 và đem giết sạch.

  Cũng về vụ này, một số học giả Tây Phương như J. Gernet trong cuốn La Chine Ancienne và Henri Maspero trong cuốn La Chine Antique (xuất bản trong những năm 1964 và 1965), còn nêu nghi vấn về mục tiêu thầm kín của Minh Thành Tổ là cử Trịnh Hòa đi truy tầm để sát hại Minh  Huệ Đế đã chạy thoát khỏi Nam Kinh năm 1402, và rất có thể còn lẩn trốn tại vùng duyên hải Nam Hoa hay Tây Dương.

Điều mỉa mai là Minh Thành Tổ, một kẻ soán đoạt ngôi vua nhà Minh, lại đòi bắt giữ Hồ Quý Ly là một kẻ soán đoạt khác. Viện cớ khôi phục nhà Trần, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ,  Mộc Thạnh đem quân xâm chiếm Đại Việt trong 20 năm (từ 1407 đến 1427).

Theo Bình Ngô Đại Cáo:

“Nước Việt ta vốn xưng văn hiến từ lâu, sơn hà khu vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ các đời Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau song hào kiệt đời nào cũng có….

“Vì họ Hồ chính sự phiền hà khiến nhân dân trong nước oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ bạo ngược, nướng dân đen trên lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ. Độc ác thay, trúc rừng Nam Sơn không ghi hết tội! Nhơ bẩn thay, nước biển Đông Hải không rửa sạch mùi!”

Sau 10 năm kháng chiến, dưới đời Minh Tuyên Tông mệnh danh là “đứa trẻ ranh Tuyên Đức”, Lê Lợi đánh thắng đoàn quân xâm lược của Vương Thông, Mộc Thạnh, Liễu Thăng. Sau hai lần thất trận tại Đông Quan, Vương Thông phải cúi mặt cầu hòa.

(Vua Lê) “cấp cho Phương Chính, Mã Kỳ 500 chiếc thuyền, ra đến Đông Hải chưa thôi trống ngực, phát cho Vương Thông, Mã Anh vài nghìn cỗ ngựa, về đến đất Tầu còn đổ mồ hôi. Giang sơn từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền. Là nhờ Trời Đất Tổ Tông khôn thiêng phù trợ nước ta vậy…”

CHÚ THÍCH:


(1) The Chinese Exploration to the Ocean: Throughout most of their long history of cultural and scientific development, the Chinese people have been but passively interested in the ocean. Chiao-Min Hsieh. Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287.

(2) Historical records indicate that from time to time the Chinese authorities sent out maritime exploring expeditions, notably those to Japan as early as the second and third centuries B.C., and to Southeast Asia, India, and Africa during the fifteenth century. Apparently there have been few, if any, planned deep penetrations of the Pacific Ocean by the Chinese during their long history. But Chinese traders did follow the land and water trade routes to India and beyond to Africa and the Middle East, prior to the Renaissance. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 287.

(3) To make a chain of provinces stretching to India and Bactria for great profits exporting gold and silks across the oases of the Silk Road to West Asia and Rome. John King Fairbank: China, A New History: Harvard University Press, p. 59. To encourage the growth of trade, Han influence was again brought to bear in Central Asia. Encyclopedia Britannica, p. 311

(4) During a period of twenty-eight years, from 1405 to 1433 Admiral Cheng Ho led seven exploring expeditions into the Pacific and Indian Oceans and visited more than thirty-seven countries. The areas he visited include such distant places as Persia and the Red Sea in the northwest, the east coast of Africa in the farthest west, and Taiwan in the east… The large  exploring expeditions that were to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean were criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the country. The guiding reasons for those expeditions are not generally known. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 290-291.

(5) Discover the river system of the West River which reaches the Sea of Canton. In 111B.C. the troubles of Nan Yueh gave the Emperor an opportunity to intervene in the south, which he was more anxious to do as he thereby hoped to open the long-discussed trade route to India and Bactria. C.P. Fitzgerald, China, A Short Cultural History,Oxford University Press, 1953, p. 183.

(6) The Southern Sea stretches from the Taiwan Strait to Kwantung.  A New Practical Chinese-English Dictionary, Hongkong 1971, p. 121

(7) To cross the South China Sea and explore the Indian Ocean. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 291.

(8) They followed established routes of Arab and Chinese trade in the seas east of Africa. The Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or colonizing ventures. John King Fairbank, Ibid, p. 138.

(9) As one major function, Zheng He carried tribute envoys to China and back home again. He conducted some trade but mainly engaged in extensive diplomatic relations with about 30 countries. Through seldom violently aggressive, he did fight some battles. J.K. Fairbank, Ibid, p.138.

(10) The Chinese Emperor was more anxious to do as he thereby hoped to open the long discussed trade route to India and Bactria. With the Han conquest of Nam Yueh and Yunnanfu, Emperor Wu had established Chinese influence in the valley of West River which was for ever made an integral part of Chinese land. C. P. Fitzgerald, Ibid, p.183, 184).

(11) Had Nan Yueh remained independent, it is very possible a separate culture would have arisen in the south, and the Chinese might never have established their influence in the valley of West River. C. P. Fitzgerald, Ibid, p.184.

(12) By 1400 the countries in sea trade with Ming China had been known for hundreds of years, while Chinese merchant shipping had been exporting silk, porcelain, and copper coins.  John King Fairbank, Ibid, p. 137

(13) In 1405, Cheng Ho was chosen as the leader of a large exploring expedition that was to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 291

(14) Concurrently with his five military expeditions north against the Mongols, the Yongle Emperor (Cheng Tsu) ordered the Grand Eunuch Zheng He to mount naval expeditions on the routes of trade to the south of China. Zheng He’s seven voyages between 1405 and 1433 were no small affairs.They followed established routes of Arab and Chinese trade in the seas east of Africa.  John King Fairbank, Ibid, p. 137,138

(15) His explorations were criticized by the court as “poor to (an impoverishment of) the country”. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 291

(16) For example, the Ming intervention in North Vietnam in 1407 had been repulsed by 1428 at considerable cost to the Chinese court, which had to recognize Vietnam as an independent state. John King Fairbank, Ibid, p.138