Bảo Tồn Văn Hóa Việt |
Tác Giả: Vi Anh | ||||
Thứ Tư, 18 Tháng 1 Năm 2012 06:14 | ||||
Đã có thông báo chánh thức nhơn Tết Nhâm Thìn, một lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt, cộng đồng người Mỹ gốc Việt bắt đầu treo cờ VN nền vàng ba sọc đỏ ở Little Saigon, được người Mỹ gốc Việt nói riêng và người Việt Hải ngọai nói chung thương mến, thường về thăm viếng gọi là thủ đô tinh thần của ngưới Việt hải ngọai. Cũng có người nói người Việt ở Mỹ bây giờ thành công dân Mỹ, phải theo văn hoá Mỹ. Một câu nói hết sức chung chung, chính người nói cũng không thể minh định thế nào là văn hoá Mỹ để theo huống hồ người nghe là người Việt ở đất Mỹ. Và ai cũng biết nước Mỹ là một xã hội đa nguyên, đa văn hoá, đa sắc tộc, không người Mỹ chánh trực nào muốn những người Mỹ gốc các sắc tộc khác phải từ bỏ bản chất, bản sắc văn hoá của sắc tộc nguồn cội mình. Không ai muốn người Mỹ gốc Việt thành những người Mỹ Da Vàng mất gốc Việt cả. Từ văn hoá, chánh trị đến xã hội học đều gọi người Việt công dân hay thường trú nhân họp pháp của Mỹ là người “Mỹ gốc Việt” (Vietnamese Americans). Ai cũng biết chỉ có Loài Người là linh vật tự làm ra văn hoá cho mình để xã hội mình cùng sống chung theo chuẩn mực đó. Loài thú như ong, kiến có lối tổ chức tinh vi như ong chúa chỉ đẻ, kiến thợ chỉ xây, ong lính chỉ tác chiến. Nhưng lối tổ chức đó biến thành phản xạ muôn đời, đó không phải là văn hoá, mà là phản xạ lưu truyền riết thành di truyền. Trái lại văn hoá của Con Người không phải là phản xạ, không di truyển, mà do truyền đạt, bắt chước và học hỏi nên có nhiều thay đổi. Ngay trong lịch sử văn hoá ngắn ngủi có mấy trăm năm của Mỹ, tiến trình cũng thay đổi nhiều lần. Từ thuở khởi thủy di dân mũi lỏ, mắt xanh, tóc vàng râu bắp là thành phần trội yếu với sự tiếp sức của Thực dân Anh, buộc các sắc tộc khác phải “đồng hoá hoà đồng” với họ. Tiếng Anh thành chuyển ngữ. Nhưng qua thời kỳ độc lập quan niệm đồng hoá theo kiều nấu chảy thành khuông văn hoá Mỹ (melting pot) chẳng ai theo. Các sắc tộc chỉ “hoà nhập” biến văn hoá Mỹ như là một tô salad (salad bowl) trong đó rau quả, đường, muối giữ bản chất của mình. Có lẽ câu thơ của Bùi khánh Đản mô tả khá đúng cái văn hoá Mỹ đa nguyên, đa sắc tộc này: “Tụ kết tinh anh của gió sương, muôn màu muôn vẻ lại muôn hương”, nói lên cái văn hoá của các sắc tộc nhập cư tạo nên xã hội Mỹ này. Do vậy rất hợp tình, hợp lý khi thấy văn hoá hay lối sống chung của người Việt gốc tỵ nạn CS trên đất Mỹ. Có biểu tình chống Cộng sản cào bằng văn hóa VN đượm tính dân tộc, khai phóng và nhân bản, đã bán đất dâng biển cho TC. Có quốc tế vận ủng hộ các tôn giáo và đồng bào ở nước nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Có vận động hạ lá cờ của CS Hà nội và giương cao quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ lên để chánh quyền các nước có người Việt định cư thừa nhận, v.v. và v.v... Ngần ấy việc biểu tình, đấu tranh, vận động rất qui mô, rầm rộ, bền bĩ suốt 36 năm; thật đáng khen lòng kiên nhẫn và ý chí bất khuất của con người Việt Nam. Thật xứng đáng với lời thề nguyền đi tìm tự do cho mình và cho người kẹt ở lại khi người Việt Hải Ngoại gạt nước mắt ra đi, để lại phía sau nước nhà với một nền văn hóa đã ăn sâu vào tim óc, sống giữ gìn, chết đem theo. Người Mỹ gốc Việt không chấp nhận CS Hà nội, không sống được ở VN nằm trong gọng kềm CS, nên tỵ nạn CS ra khỏi nước. Người Việt tỵ nạn CS không sống được ở VN, di tản ra khỏi nước, đem hình ảnh đất nước và con người Việt Nam và mang hồn thiêng sông núi VN theo mình. 36 năm ở Mỹ, người Việt đã thuyết phục nhân dân và chánh quyền Mỹ của hàng chục tiểu bang hàng trăm quâän hạt, thành phố công nhận biểu tượng văn hoá, niềm tin thiêng liêng của mình là quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ. Trong mọi sinh hoạt long trọng, đấu tranh chống CS, lễ hội văn hoá, xã hội đều có chào quốc kỳ VN này như hồn thiêng sông núi và tưởng niệm anh linh tử sĩ đã vì dân chiến đấu, ví nước hy sinh dưới bóng cờ này. Đó không phải là văn hoá của người Việt tỵ nạn CS, của người VN tự do, nhân bản thì là cái gì. Có người nói văn hóa của người Mỹ gốc Việt đó không phải là văn hoá Mỹ, cho rằng Mỹ bây giở đã bang giao và giao thương với CS Hà nội, quốc kỳ của CS Hà nội là lá cờ khác. Thật là một nhận xét hết sức phiến diện về văn hoá. Một biểu tượng chỉ được xem là văn hoá khi được nhiều người chấp nhận là “của mình”, “thuộc về mình” và đồng ý sống theo chuẩn mực ấy. Cây cờ của CS Hà nội người Mỹ gốc Việt đa số gọi là cờ máu, không ai treo. Dù CS Hà nội có bang giao với chánh quyền Mỹ, cờ máu của CS chỉ rú rú như con gián ngày ở trong trụ sở Toà Đại sứ và Tổng Lãnh sự CS Hà nội. Đối với đại đa sồ người Mỹ gốc Việt, cờ máu của CS Hà nội là “phản văn hoá”. Chỗ đông người Mỹ gốc Việt, ai cầm cờ đó sẽ trở thành một kẻ công xúc tu sỉ (attentat à la pudeur publique) như khoe hạ bộ trước phụ nữ, sẽ bị tập thể chống đối quyết liệt. Bên cạnh những hoạt động qui mô và rầm rộ để bảo tồn và phát huy văn hoá Việt ấy của tập thể người Việt Hải Ngoại, còn nhiều cố gắng âm thầm, kiên nhẫn và can đảm, đòi hỏi nhiều chuyên môn. Mục đích tối hậu của những chiến sĩ văn hoá âm thầm này là, mặt này, để bảo tồn bản chất và bản sắc văn hóa Việt Nam trong môi sinh mới lạ cách nước nhà nửa vòng Trái Đất. Và mặt khác, là để phát huy văn hóa cho lớp trẻ hậu duệ sanh ra, lớn lên, ăn học nơi quê hương mới. Làm việc ấy là những thầy cô giáo tình nguyện dạy tiếng Việt ở tại các trung tâm Việt ngữ đặt tại nhiều nơi khắp nhiều nước định cư, đặc biệt ở Mỹ và Cali. Tiếng Việt là con thuyền chánh chuyên chở văn hóa VN. Không có tiếng Việt thì hồn Việt, tâm Việt, đạo Việt, sử Việt, cộng đồng Việt, xã hội Việt, người Việt, dân Việt, nước Việt khó còn. Như đã thưa ở trên, văn hóa theo phân tích của các nhà xã hội học, không do thiên phú, trời sanh ra, hay đương nhiên có. Cũng không phải do bản năng mà do học hỏi giữa thế hệ này với thế hệ khác và giữa những người đồng thời tương tác với nhau. Mà ngôn ngữ là phương tiện, là thành tố quan trọng nhứt. Nên ngôn ngữ cũng phải học mới biết. Học từ trong bụng mẹ, lúc chào đời, lúc nhập thế ở nhà, ra trường, vào xã hội, và lúc xuất thế sống với nội tâm và tự đặt mình trong lòng Mẹ VN. Từ đó có từ ngữ “tiếng mẹ” (mother language, langue maternelle). Nếu ở nước nhà việc học tiếng mẹ Việt rất dễ vì cá nhân, gia đình, và xã hội đều nói tiếng Việt, thì tại các nước định cư việc học tiếng Việt hơi khó vì tương quan tam giác giúp cho việc giáo dục thành công là cá nhân, gia đình, và xã hội bị gãy đổ một phần. Lớp trẻ học ở trường bắng một ngôn ngữ của quốc gia định cư. Chuyển ngữ của quốc gia định cư thường khác với tiếng mẹ của người nhập cư. Nhiều gia đình nhứt là vợ chồng trẻ dùng chuyển ngữ của nước định cư. Xã hội cũng thế, từ truyền thông đại chúng, chương trình giáo dục phổ thông, giải trí đại đa số dùng ngôn ngữ của quốc gia định cư. Do vậy đối với lớp trẻ Việt sinh tại nơi quê hương mới, học tiếng Việt chỉ cậy nhờ vào các trung tâm dạy tiếng Việt và một phần nơi cộng đồng gốc Việt và gia đình mà thôi. Thầy cô giáo được đào tạo phương pháp sư phạm để dạy tiếng Việt, kết quả và hiệu năng cao hơn gia đình. Và CS Hà nội muồn nhuộm đỏ các cộng đồng người Việt Quốc Gia ở hải ngoại cũng dùng văn hoá vận để tấn công bằng quyền lực mềm và cứng. Mềm qua lời ca tiếng hát, gởi giáo viên, sách vở qua Mỹ, khai thác tình tự quê hương. Cứng như âm mưu dùng tiền lũng đoạn cộng đồng, hề hoá các cuộc đấu tranh. Mà Nghị quyết 36 của CS Hà nội là sách lược./.( Vi Anh)
|