Dùng lá bài tôn giáo |
Tác Giả: Lữ Giang | |||
Thứ Tư, 02 Tháng 12 Năm 2009 17:58 | |||
Sau khi bài “Viết cho đúng sự thật” của chúng tôi được phổ biến, ông Trần Gia Phụng đã viết một bài trả lời đề ngày 24.11.2009. Nhưng ông đã không trả lời thẳng vào trọng tâm của hai chủ đề chính do ông nêu ra và đã bị chúng tôi bác bỏ với những bằng chứng khó có thể chối cãi được, đó là Dụ số 10 đã ưu đãi Thiên Chúa Giáo và Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đã giả mạo số giáo dân trong tổng giáo phận Huế để “vận động” làm Hồng Y. Ông chỉ trả lời một số chi tiết mà chúng tôi có thể phản bác một cách dễ dàng. Nói cách khác, ông không dám trực diện với vấn đề chính mà ông đã nêu ra: Các nhà đấu tranh Phật Giáo năm 1963 đã dùng lá bài tôn giáo để chống chính quyền Ngô Đình Diệm, trong đó vai trò của Đức TGM Ngô Đình Thục được xử dụng như là một võ khí nhạy bén để tấn công. Đây là một thủ đoạn chính trị cần được làm sáng tỏ. CHỌI ĐÁ ĐƯỜNG RẦY XE LỬA Chúng tôi nhớ lại ở miền Trung, mỗi khi tới giờ xe lửa sắp chạy qua làng, lũ trẻ thường lượm sẵn một vài cục đá và đứng hai bên đường rầy, đợi khi xe lửa chạy qua còn phần cuối là thi nhau ném vào các toa xe lửa rồi bỏ chạy. Chúng tôi không ngờ ngày nay trò chơi chọi đá này lại trở thành một chiến thuật “tác chiến” phổ biến trên nhiều websites và diễn đàn Internet ở hải ngoại! Một thí dụ cụ thể: Trọng tâm của cuốn “Biến Động Miền Trung” của Liên Thành là đưa thêm một số sử liệu chứng minh rằng năm 1966, Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã tạo bạo loạn để cướp chính quyền nhưng bị Quân Lực VNCH dẹp tan. Sau đó Giáo Hội này đã ngã theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và quyết tâm làm cho VNCH sụp đổ. Nó được thể hiện rõ nét nhất là sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, Giáo Hội Ấn Quang đã chính thức đứng ra tổ chức “Mừng Giải Phóng” và “Sinh Hoạt Bác Hồ”. Vì không thể bác bỏ được sự kiện chính này, nhóm bị “chạm nọc” đã dùng chiến thuật “chọi đá đường rầy xe lửa” để phản công Liên Thành. Còn Tiến Sĩ Trần Kiêm Đoàn ở Sacramento viết bài “Đôi điều với Liên Thành về Biến Động Miền Trung” đem Kinh Phật ra chơi trò “Cả vú lấp miệng em”. Ông Liên Thành liền mời ông Trần Kiêm Đoàn đến đối thoại tại cuộc hội thảo ở San Sacramento ngày 8.11.2009, nhưng ông Đoàn đã từ chối. Khi các chiến thuật nói trên không có tác dụng, phe đối thủ đã cầu viện cả một tên cán bộ Việt Cộng nổi tiếng trong vụ Tết Mậu Thân là Nguyễn Đắc Xuân ra “trợ chiến”! Nhưng rồi Nguyễn Đắc Xuân cũng không dám trực diện với chủ đề chính, mà chỉ chơi trò “chọi đá đường rầy xe lửa”! GÂY HẬN THÙ TÔN GIÁO Tiếp tục trả lời ông Trần Gia Phụng, chúng tôi xin nói rõ: Trong thời gian chống chế độ Ngô Đình Diệm, các tăng sĩ lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật Giáo ở Huế đã áp dụng chiến thuật gây hận thù tôn giáo để kích động đấu tranh. Chiến thuật này đã được Hoà Thượng Trí Quang ghi rõ trong tập “Tiểu truyện tự ghi” mà chúng tôi đã nhiều lần nhắc lại. Thích Trí Quang viết: Ông còn viết thêm: “Dụ số 10 được thêm dụ bổ túc, tăng cường sự hạ giá và kềm chế đối với Phật giáo.” Chúng tôi đã nhiều lần chứng minh các sự kiện và luận điệu nói trên là do VỌNG NGỮ. Nhưng trong bài “Lý do cuộc đảo chính 1.11.1963”, ông Trần Gia Phụng đã lặp lại những vọng ngữ này với dụng ý xuyên tạc lịch sữ để biện minh cho những sai lầm mà nhóm Phật Giáo đấu tranh đã vấp phạm. Chiến thuật nói trên lúc đầu đã làm cho cuộc đấu tranh bùng lên rất mạnh, nhưng vì thiếu tổ chức và kinh nghiệm nên đã bị cả Hoa Kỳ lẫn Việt Cộng biến thành công cụ, xài xong rồi bỏ. Vọng ngữ càng ngày càng bị đưa ra ánh sáng. GÂY HẤN VỚI CHÍNH QUYỀN Chúng tôi đã đưa ra những sự kiện lịch sử và pháp lý chứng minh Dụ số 10 ngày 6.8.1950 do Bảo Đại ký và ban hành không hề ưu đãi Thiên Chúa Giáo (Phật Giáo không nói đến các Hoa Kiều Lý Sự Hội!) như Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đã rêu rao. “Sử gia” Trần Gia Phụng đã viết về Dụ số 10 khi ông chưa hề đọc Dụ này. Ông Diệm cũng không hề “thêm dụ bổ túc” Dụ số 10 để “tăng cường sự hạ giá và kềm chế đối với Phật giáo” như Thích Trí Quang đã bịa đặt. Vì thế, ở đây chúng tôi không nói đến Dụ số 10 nữa mà chỉ nói đến việc Phật Giáo đấu tranh đã dùng thể thức treo cờ tôn giáo do chính phủ ấn định như là cái cớ để gây hấn với chính quyền. 1.- Thể thức treo cờ và lý do Thể thức treo cờ quốc gia và cờ các tôn giáo trước tiên được ấn định trong Nghị Định số 78/NV/NV/85 của Bộ Nội Vụ ban hành vào tháng 9 năm 1957, sau đó được sửa đổi do Nghị Định số 189/BNV/NA/PS ngày 12.5.1958 chứ không phải đến tháng 7 năm 1963 mới có nghị định ấn định thể thức treo cờ như ông Trần Gia Phụng đã nói. Theo các nghị định này, cờ tôn giáo chỉ được treo ở những nơi thờ phượng hay tư gia, không được treo ngoài các cơ sở tôn giáo. 2.- Lý do Phật Giáo Huế phẩn nộ Mặc dầu đã có văn kiện ấn định thể thức treo cờ của chính phủ, dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm, hàng năm ở Huế lễ Phật Đản đều được tổ chức rầm rộ trên các đường phố, cờ Phật Giáo treo thoải mái, các hoành môn dọc đường và lễ đài đều được Công Binh VNCH dựng giúp. Việc treo cờ thoải mái này đã được Thích Trí Quang chính thức xác nhận trong “Tiểu truyện tự ghi” mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên: “Phật đản thì cờ Phật giáo đầy 2 bên đường từ Huế ra Lavang”. Hàng năm, các giáo xứ công giáo như Phủ Cam, Kim Long, Gia Hội... cũng đều có rước kiệu linh đình, nhưng chỉ tổ chức trong khuôn viên giáo xứ. Nhưng năm 1962, một cuộc ruớc kiệu của công giáo đã diễn ra ngoài phố khiến một số nhà sư và Phật tử cho rằng Công Giáo bắt đầu lấn lướt. Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế được xây cất ở số 80 Nguyễn Huệ, Huế. Công tác xây cất đã được khởi sự từ tháng 1 năm 1959, khi TGM Ngô Đình Thục chưa về Huế. Công tác này kéo dài đến tháng 8 năm 1962 mới hoàn tất. Lễ khánh thành nhà thờ này được tổ chức vào ngày thứ bảy 12.8.1962. Dĩ nhiên, Đức TGM Ngô Đình Thục được mời đến chủ lễ. Sau khi làm phép nhà thờ mới, một cuộc rước kiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã được tổ chức đi qua các đường xung quanh nhà thờ. 3.- Thách đố chính quyền Để “đáp lễ” hiện tượng nói trên và thách đố chính quyền, các tăng sĩ ở Thưa Thiên – Huế quyết định tổ chức Lễ Phật Đản tại Huế năm 1963 thật lớn với một cuộc rước từ chúa Điệu Đế đến chùa Từ Đàm trên quảng đường dài trên 3 cây số, qua các đường phố chính của thành phố Huế: Trần Hưng Đạo, cầu Trường Tiền, Lý Thái Tổ... đến chùa Từ Đàm. Trên các đường chính của thành phố như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Duy Tân, Phan Bội Châu, Nam Giao... đều có dựng quyền môn và treo cờ Phật Giáo mà không hề xin phép chính quyền. Thậm chí cờ Phật Giáo còn được giăng đầy trên cầu Trường Tiền bắc ngang qua sông Hương. Ngoài ra, “khắp mọi nhà, mọi nẽo đường đều có treo cờ, treo đèn, bày hương án bái vọng.” Bản “Tổng Kết Nội Vụ Phật Giáo” số 10364/CSĐB/4M ngày 21.10.1963 của Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên gởi Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí, Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành Trung Nguyên Trung Phần, đã cho biết như sau: Bổng nhiên, theo khẩu lệnh của Tổng Thống, ngày 6.5.1963, trước lễ Phật Đản chỉ có hai ngày, ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng của Phủ Tổng Thống, đã gởi đến các tòa hành chánh tỉnh và thành phố trên toàn quốc công điện mang số 9195 nói về thể thức treo cờ tôn giáo. Cơ quan thông tin Huế vác loa đi đọc công điện này trên nhiều khu phố. Do đó, từ sáng sớm ngày 7.5.1963, tin “triệt hạ cờ Phật Giáo” đã được loan truyền khắp thành phố Huế. Ông Nhu rất bất bình về chuyện này vì ông Diệm đã tự ý hành động mà không hề bàn hỏi với ai. 4.- Tuyên bố khai chiến Hòa Thượng Trí Quang cho biết: LÁ BÀI NGÔ ĐÌNH THỤC Nếu chỉ dựa vào lệnh thi hành quy tắc treo cờ tôn giáo để phát động cuộc đấu tranh, rất khó làm cuộc đấu tranh bùng lên mạnh, mặc dầu các nhà lãnh đạo Phật Giáo Huế đã biến quy tắc đó thành “lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo” (vọng ngữ). Vì thế, các nhà lãnh đạo Phật Giáo ở Huế đã nghĩ ra một thủ đoạn khác là KÍCH ĐỘNG LÒNG HẬN THÙ TÔN GIÁO bằng cách ghép Đức TGM Ngô Đình Thục vào “lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo”. Chính Thích Trí Quang đã công khai nói rằng TGM Ngô Đình Thục đã giả mạo số giáo dân trong tổng giáo phận Huế để “vận động” làm Hồng Y bằng cách triệt hạ cờ Phật Giáo! Ông Trần Gia Phụng cho rằng điều kiện để Tòa thánh Vatican xét phong hồng y và “việc vận động để được phong hồng y là hoàn toàn chuyện khác.” Nhưng ở trong Giáo Hội Công Giáo không bao giờ có chuyện “vận động” để được phong Giám Mục hay Hồng Y. Ai có ý định này không bao giờ được phong. Số giáo dân cũng không phải là yếu tố để được phong Hồng Y. Điều 351 Bộ Giáo Luật ghi rõ rằng Đức Giáo Hoàng tự chọn những giáo sĩ “trổi vượt về đạo lý, tác phong, đạo đức và khôn ngoan trong cách xử sự công việc” để làm Hồng Y. Không điều luật nào nói đến tiêu chuẩn “số giáo dân” cả. Chuyện này là do một số tăng sĩ Phật Giáo phịa ra rồi ghép cho TGM Ngô Đình Thục để kích động Phật tử. Việc xử dụng lòng hận thù tôn giáo để làm động lực đấu tranh đã không ngừng lại sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị CIA lật đổ. Thích Trí Quang nói: “Ngô đình Diệm đổ rồi, đúng như tôi dự đoán, vấn đề Phật giáo không phải kết thúc mà là bắt đầu.” Để thực hiện kế hoạch tiếp theo là thống lãnh Phật Giáo và tiến tới thành lập một chính phủ Phật Giáo (theo báo cáo của ông Cabot Lodge), lá bài gây hận thù tôn giáo để kích động Phật tử vẫn được tiếp tục xử dụng. Thiếu Tá Đặng Sỹ, người có liên hệ đến biến cố trước đài phát thanh Huế đêm 8.5.1963 đã kể lại: Khoảng 5 giờ chiều Đỗ Mậu đến. Trước hết ông nói chuyện với Thiếu Tá Hồ Châu Tuấn, sau đó ông ra lệnh mở cửa đưa Thiếu Tá Đặng Sỹ ra nói chuyện với ông. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, ông nói: Sáng hôm sau, Thiếu Tá Đặng Sỹ được dẫn lên phòng thẩm vấn để lấy lời khai. Trưởng Phòng Thẩm Vấn lúc đó là Đại Úy Xuân, nhưng ông này không trực tiếp nói chuyện với Đặng Sỹ mà giao cho một Trung Úy. Trước sự chứng kiến của Đại Úy Xuân, viên Trung Úy này đã đưa cho Đặng Sỹ xem một chỉ thị của Thiếu Tướng Đỗ Mậu viết trên một miếng giấy nhỏ, có nội dung đại khái như sau: “Lưu ý Đặng Sỹ đừng khai dài dòng, chỉ nói mục đích chính của cuộc đàn áp. Hỏi Ngô Đình Thục đã ra lệnh cho y khi nào.” Sau đó, viên Trung Úy này đi ra và giao cho một Đại Úy (tạm dấu tên) vào lấy lời khai Đặng Sỹ. Đại Úy này vốn là một cấp dưới quyền của Thiếu Tá Đặng Sỹ khi ông làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 1 thuộc Sư Đoàn 1 ở Huế, nên đã cho Thiếu Tá Đặng Sỹ xem một mãnh giấy nhỏ của Đỗ Mậu ra lệnh cho anh đừng cho Thiếu Tá khai vớ vẫn dài dòng mà bằng mọi cách, phải buộc Thiếu Tá khai một lời duy nhất là đủ, đó là Giám Mục Ngô Đình Thục đã ra lệnh Thiếu Tá ngày nào và giờ nào, hoặc trực tiếp hoặc qua trung gian một người khác. Viết chừng một trang thôi, rồi buộc Thiếu Tá ký nhận là đủ. Anh nói điều này rất nguy hiểm và lưu ý Thiếu Tá Sỹ phải rất thận trọng. PHẢN ỨNG CỦA CÔNG GIÁO Sau khi được trả về phòng giam, Thiếu Tá Đặng Sỹ đã tìm cách liên lạc với một người quen ở trong Cục An Ninh Quân Đội nhờ bí mật làm bản sao tờ chỉ thị viết tay của Đỗ Mậu và đưa đến cho vợ ông đang ở đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nói với vợ ông phải đưa gấp cho Sư Huynh Bonnard, cậu của ông, đang ở trường Taberd, Sài Gòn, để nhờ ông tìm cách thông báo ngay cho các giáo sĩ quen biết để phá tan âm mưu nguy hiểm này. Sư Huynh Bonnard đã hội kiến với Linh mục Trần Tử Nhãn ở Dòng Chúa Cứu Thế và quyết định sao chỉ thị của Đỗ Mậu ra thành nhiều bổn và gởi đến những vị đang lãnh đạo Giáo Hội sau đây: Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn Nguyễn Văn Bình; Đức Giám Mục Salavator Asta, Khâm Sứ Tòa Thánh tại miền Nam Việt Nam; Linh mục Nguyễn Văn Thuận, Tổng Đại Diện Giáo Phận Huế; Limh mục Hoàng Quỳnh, một lãnh tụ đấu tranh của khối Công Giáo, v.v. Nhận được tài liệu này, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã ra chỉ thị thành lập một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu âm mưu của Đỗ Mậu và tìm phương thức đối phó. Tòa Tổng Giám Mục Huế đã gởi ngay Linh mục Nguyễn Văn Trinh vào Sài Gòn để hội kiến với các giáo sĩ và các tổ chức đầu tranh của người công giáo. (1) Tìm cách buộc tội và tuyên án tử hình Đặng Sỹ: Vì hồ sơ vụ án không có bằng chứng nào cho thấy Đặng Sỹ có trách nhiệm trong vụ nổ trước đài phát thanh Huế tối 8.5.1963, nên Đỗ Mậu phải dụ Đặng Sỹ khai rằng ông đã nhận chỉ thị của TGM Ngô Đình Thục để thực hiện cuộc tàn sát đó. Đây là một hình thức gián tiếp nhận tội và toà sẽ căn cứ vào lời khai đó, tuyên án tử hình. (2) Cố ý ghép TGM Ngô Đình Thục vào nội vụ để kích động lòng hận thù tôn giáo làm động lực cho cuộc đấu tranh của Phật Giáo. Khi tin nói trên đến tai một vài Tướng Lãnh trong HĐQNCM, ngày 5.1.1964, Tướng Nguyễn Văn Quan đã được cử làm Giám Đốc An Ninh Quân Đội, còn Tướng Đỗ Mậu được chuyển qua làm Tổng Trưởng Thông Tin! Vấn đề coi như tạm yên. Nhưng các nhà lãnh đạo Công Giáo miền Nam lúc đó tin rằng nhóm chủ trương dùng lòng hận thù tôn giáo để tạo bạo loạn cướp chính quyền không bao giờ chịu bỏ tham vọng của họ, nên đã cho hình thành Khối Công Dân Công Giáo và Lực Lượng Đại Đoàn Kết để đối phó với tình hình mới. Khi Đỗ Mậu còn sống, chúng tôi đã công bố âm mưu này trên báo Saigon Nhỏ số ra ngày 18.8.2000 và một vài số tiếp theo, và thách Đỗ Mậu đối thoại với Thiếu tá Đặng Sỹ. Chúng tôi đã cho người cầm tờ báo đến trao tận tay Đỗ Mậu và mời ông lên truyền hình hay truyền thanh nói chuyện, chúng tôi sẵn sàng chịu mọi chi phí, nhưng ông đã làm thinh. CHUYỆN ĐƯƠNG NHIÊN Thích Trí Quang có trình độ văn hóa thấp, tính tình nóng nảy và bốc đồng, nhưng lại có tham vọng rất lớn: Thống lãnh Phật Giáo để tiến tới thành lập một chính phủ Phật Giáo do ông làm quốc sư. Bà Trần Hoài Trân, Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Saigon, còn cho biết: Ngày 30.11.2009
|