Home Đời Sống Tôn Giáo Những “ Tiếng Thì Thầm “

Những “ Tiếng Thì Thầm “ PDF Print E-mail
Tác Giả: Phùng văn Hóa   
Thứ Bảy, 26 Tháng 6 Năm 2010 14:58

Mạc khải của Đức Kitô cho thời đại mới

 Theo lời tựa cuốn “ Tiếng Thì Thầm “ thì đây là sứ điệp của chính Thiên Chúa đã nói ….trong lòng của Aileen Caddy vào năm 1953. Nội dung Sứ Điệp được phân chia từng

 
ngày trong suốt mười hai tháng. Mỗi ngày một đề tài khác nhau. Tất cả các đề tài này đều được thể hiện dưới hình thức nhắn nhủ của một người cha đối với đứa con thân yêu của mình. Người Cha đó là Chúa Giêsu, còn người con là Aileen Caddy. Mặc dầu trong suốt tác phẩm không một lần xưng danh Giêsu nhưng chắc hẳn ai cũng hiểu đó là Ngài. Tuy nhiên vấn đề ai là tác giả ở đây thực ra chẳng có chi quan hệ, điều cần là phải tìm ra ý nghĩa nội dung Sứ Điệp muốn cho ta thấy điều gì. Có mang lại ích lợi chi hay không ? mặt khác có thể nói chỉ khi nào xác định đúng được nội dung thì khi ấy mới có thể khẳng định đây là Lời của Đức Kitô hay chỉ là những suy tư Thần học của Aileen Caddy.

 Giữa nội dung Sứ Điệp hay còn được gọi là Tin Mừng và Đức Kitô có một sự liên hệ không thể tách rời.  Nếu đã là Đức Kitô thì nội dung Tin Mừng phải là như thế. Ngược lại nội dung Tin Mừng như thế thì ắt hẳn đó là Đức Kitô. Sở dĩ cần phải xác lập cách rõ ràng như vậy bởi chưng chỉ có một Tin Mừng “ Chẳng có một Tin Mừng nào khác nữa đâu” Gal 1, 7 ) Cũng như duy nhất  chỉ  có một Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn y nguyên là một” Dt 13, 8. Nếu Tin Mừng chỉ có một đồng thời Đức Kitô là duy nhất , điều ấy cho ta thấy Đức Kitô chỉ rao giảng có một Tin Mừng mà thôi. Hễ khi nào nhận biết đúng được Tin Mừng mà Ngài rao giảng thì đương nhiên cũng sẽ nhận ra Ngài. Trái lại không nhận ra Tin Mừng của Ngài thì cũng chẳng thể nhận biết đúng về Ngài. Nhận biết đúng về Tin Mừng của Đức Kitô là việc vô cùng hệ trọng. Ngay từ thuở sơ khai giáo hội, Thánh Phao lô đã cảnh giác điều này “ Tôi ngại rằng tâm tư của anh em bị bại họai mất sự đơn thuần thanh khiết đối với Đức Kitô, cũng như xưa kia con rắn đã dùng quỷ kế mà dụ hoặc Eva vậy. Vì nếu có người đến rao giảng cho anh em một Giêsu khác mà chúng tôi rao giảng hoặc anh em nhận một Thánh linh khác anh em đã nhận, hoặc nhận một Tin Mừng khác mà anh em đã nhận, thì anh em chắc cũng chấp nhận.” ( 2C 11, 3 – 4 ) Vào thuở sơ khai, khi mà chánh pháp còn đang thịnh , bầu khí Phục sinh còn đang phấn khởi mà Thánh Phao lô còn ngại cho sự bại họai tâm trí con người dẫn đến sai lạc như thế huống chi ngày nay sau hai ngàn năm Chúa giáng trần, khi mà não trạng duy lý hầu thống lãnh tòan thể nhân lọai thì nguy cơ ấy còn lớn biết chừng nào. Thế nhưng như lời Thánh Phao lô nói “ Nơi nào tội lỗi đã thêm lên thì ân sủng càng dư dật muôn phần” Rm 5, 2)
 
Ân sủng của Thniên Chúa dành cho thời đại ngày nay mà cơn khủng hỏang đã lên tới đỉnh điểm của nó là gì ? Theo tôi đó là “ Những Tiếng Thì Thầm” Nói những Tiếng Thì Thầm bởi vì chỉ tính riêng trong thế kỷ hai mươi này ngòai Aileen Caddy ra, được biết còn có năm Tiếng Thì Thầm khác nữa đó là :

1/- Josefa Menandez ( 1914 - ? )

2/- Marthe Robin ( 1902 – 1981 )

3/- Consolata Betrone ( 1903 – 1946 )

4/- Margarita ( 1914 - ? )

5/- Brìege Mc Kenna ( 1946 - )

 Gọi những Tiếng Thì Thầm này là ân sủng của Thiên Chúa bởi vì thông qua những con người này, mỗi người mỗi vẻ mà Đức Kitô đã biểu lộ Tình Yêu vô biên của Người bằng cách thiết lập nên những cộng đòan đông đảo các tín hữu phụng thờ Thiên Chúa.

Chị Josefa Menandez Dòng Trái Tim Chúa Giêsu với tác phẩm Tiếng gọi Tình Yêu làm nên cơ sở siêu nhiên của Phong Trào Phạt Tạ.

Chị Marthe Robin tuy chỉ là một giáo dân tầm thường nhưng đã tận hiến đời mình để sáng lập nên các trung tâm Ánh Sáng , Bác Ái và Tình Thương ( Foyer de Charité )

Chị Consolata B etrone dòng Capucine với tác phẩm Con đường Nhỏ của Tình Yêu  là động lực và sáng lập Hội Tận Hiến.

Chị Margarita với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu được xưng tụng là Nhã Ca của thời đại mới, là nguồn cảm hứng và ánh sáng soi đường của hàng triệu tâm hồn đạo đức.

Chị Brìege Mc Kenna dòng Thánh nữ Clara đã được ca ngợi là chưa có phụ nữ nào lại làm cho đời sống của các linh mục chuyển biến tốt đẹp như vậy.

Chị Aileen Caddy với tác phẩm “ Tiếng Thì Thầm” là nguồn mạch và cảm hứng kiện tòan cho cộng đòan Findhorn Trung Tâm Thánh ở miền Bắc Tô Cách Lan.

Đặc điểm chung của những Tiếng Thì Thầm này là:

1. Tất cả đều là phụ nữ trong số có 4 nữ tu và 2 giáo dân.

2. Họ đều có lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

 Cả hai sự kiện này cho ta thấy điều gì ?

 Nếu những Tiếng Thì Thầm là ân sủng của Thiên Chúa thì ân sủng ấy chỉ có thể được tiếp nhận bởi phụ nữ, những người không bị ảnh hưởng của não trạng duy lý. Mặt khác do bởi không bị tiêm nhiễm duy lý thế nên việc có trực giác mau lẹ đồng thanh tương ứng với Thánh nữ Têrêsa HĐ Giêsu là điều không lạ. Lý do khiến Thánh nữ với tác phẩm Một Tâm Hồn được không những chỉ những Tiếng Thì Thầm tiêu biểu nêu trên mà còn có hàng triệu người khác say mê tìm đọc để noi gương thực hành là bởi chính chị Thánh là người đầu tiên đã phát minh và áp dụng Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng , con đường vừa hết sức cần thiết cho thời đại khủng hỏang hôm nay lại vừa bảo đảm chắc chắn đi đúng chân lý Thánh Kinh,  vì nó là điều tất yếu để thực hiện Mạc Khải của Đức Kitô. Không biết đến Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng này thì chẳng những không thể nào có thể thực hiện được Mạc Khải mà còn không thể nhận ra nó. Tại sao thế ?  Bởi vì mạc khải của Đức Kitô là về một thứ Nước Trời nội tại. Với Nước Trời này thì nó chỉ dành cho những kẻ thơ ấu bé mọn. Chúa nói “ Cha ơi ! Cha là Chúa Trời Đất, con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu những điều này ( Tin Mừng Nước Trời ) với những kẻ khôn ngoan thông thái mà bày tỏ cho con trẻ. Phải Cha ơi ! vì như vậy là đẹp lòng Cha. Cha đã giao mọi sự cho con, ngòai Cha không ai biết Con, ngòai Con và người nào mà Con muốn bày tỏ cho thì cũng không ai biết Cha” Mt 11, 25 – 27 ) Ở đây ta thấy Đức Kitô xác quyết rất rõ ràng hai điều, một là chỉ những tâm hồn trẻ thơ mới có thể nhận lãnh Nước Trời và hai là duy chỉ có Ngài và những kẻ nào Ngài muốn mạc khải cho thì mới có thể nhận biết Đấng Cha. Chỉ có  Đức Kitô và những ai được Ngài mạc khải  mới có thể nhận biết Đấng Cha, ấy thế mà Ngài lại chỉ mạc khải cho các con trẻ còn giấu đối với những kẻ khôn ngoan thông thái. Điều này cho thấy sự bất lực rõ ràng của lý trí tức sự khôn ngoan thế gian trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa.

 Lời Chúa là lời chân lý hằng sống “ Sắc hơn mọi gươm hai lưỡi” ( Dt 4, 12 )  Một khi mà Chúa đã nói Nước Trời chỉ bày tỏ cho con trẻ còn giấu kín đối với kẻ thông thái thì hẳn là phải đúng thật như thế, có nghĩa tất cả các triết gia, các nền thần học đều không thể nhận biết được Nước Trời mầu nhiệm, nếu thần học mà cũng nhận biết Nước Trời thì chẳng hóa ra Lời Chúa lại chẳng đúng ? Cứ xét điều này  sẽ thấy thần học chẳng biết chút chi về mầu nhiệm Nước Trời. Một đàng Đức Kitô rao giảng Nước Trời ở trong các ngươi ( Lc 17, 21 ) thì một đàng thần học lại bảo không phải “ Có người dịch “Ở trong”, nhưng dịch như thế có thể làm cho người ta hiểu lầm ( sic ) rằng Triều Đại Thiên Chúa chỉ là một việc nội tâm và riêng tư. Đối với Đức Giêsu, triều đại Thiên Chúa dành cho tòan thể Đân Chúa và đã là một thực tại đang họat động để cứu độ lòai người, cá`c ông có thể đạt tới được” ( Xem chú giải (b) Lc 17, 20 – 21 ) của KT Tân Ước tòa TGM TP HCM ). Cũng chính bởi không hiểu, thế nên thần học mới đòi phải xét lại Con Đường

Thơ Ấu Thiêng Liêng của Thánh nữ Têrêsa HĐGS và cuốn Một Tâm Hồn thế này “ linh mục Jean Francoix Six thuộc hội Mission de France từ lâu đã nghiên cứu Thủ Bản của Thánh nữ, mới đây đã cho xuất bản cuốn sách nghiên cứu về Thánh nữ, ông tiết lộ = Chính bà Agnès de Jesus vì sợ những cách tân táo bạo của Têrêsa làm chướng tai người đương thời nên đã sửa các trang viế`t của nữ Thánh lại và làm thành cuốn truyện Một Tâm Hồn . Bà đã biến chất muối mặn mòi cách mạng của Têrêsa thành thứ đường vô vị nhạt nhẽo. Linh mục Six rất lấy làm tiếc là những cuốn tiểu sử Têrêsa gần đây vẫn cứ in kèm cái gọi là Novissima Verba ( Những lời nói sau cùng) do bà mẹ Agnès ghi chép, linh mục cho đây là một sự lừa dối tinh thần . Ông nói tiếp = những sửa đổi thêm thắt của bà sở dĩ trở thành vấn đề vì nó đem lại kết quả ngược tức là phản tác dụng. Nhiều người đi tìm một linh đạo đích thực Têrêsa lại chán ngán vì gặp phải một thứ linh đạo giả rẻ tiền về Têrêsa” ( Tb CG&DT số 1078 )

 Giữa quan điểm cho rằng Nước Trời …ở giữa thay cho ở trong và việc đòi xét lại Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng có một thứ logique thế này = Đường Thơ Ấu chỉ cần thiết đối với Nước Trời.. ở trong còn với Nước Trời…ở giữa thì đường Thơ Ấu trở nên nhạt nhẽo vô vị . Theo họ thì làm sao mà có thể xây dựng Nước Trời công bằng xã hội ở nơi trần gian này bằng cách …nên như con trẻ ? Mặt khác cũng không phải như thần học nói vấn đề Nước Trời ở trong hay ở giữa không đơn thuần chỉ liên hệ đến một cách dịch nào đó mà nó phát xuất từ một quan điểm rõ ràng là duy lý. Với duy lý thì không thể có Nước Trời nội tại  và lẽ dĩ nhiên cũng không sao có thể chấp nhận đó là một việc nội tâm  và riêng tư. Đang khi ấy, ngược hẳn với khẳng định của thần học, mạc khải của Đức Kitô trái lại đòi hỏi đây phải là việc nội tâm của mỗi cá nhân. Nuớc Trời “Ở trong” hay “ở giữa”, vấn đề đặt ra thật hết sức gay go, có đúng là chân lý Thánh kin h nói Nước Trời …ở trong hay không, biết nên ngả theo quan điểm nào ? Những Tiếng Thì Thầm” cách riêng là Aileen Caddy sẽ cho ta câu trả lời và câu trả lời thứ nhất cho thấy Nước Trời tất yếu phải là riêng tư của mỗi cá nhân.

I. Công việc của cá nhân

  Với Nước Trời nội tại thì đó phải là và chỉ có thể là công việc của cá nhân. Còn với thần học thì vấn đề lại hòan tòan khác. Tính chất khác biệt này hệ tại ở chỗ một đàng thần học là một thứ môn học nhằm mục đích để hiểu biết về Thiên Chúa. Còn một đàng với Nước Trời nội tại thì không thể dùng cái học để hiểu biết mà cần phải thể nhập. Giữa cái học để hiểu biết và thể nhập còn có sự khác biệt triệt để thế này, học để hiểu biết ngày càng phải tăng thêm kiến thức, trái lại thể nhập cần phải giải trừ cho đến khi nào dũ sạch  kiến thức. Chỉ khi nào nhận ra sự khác biệt nhau như thế mới có thể nhận thức được tính chất sai lầm của triết/thần học để quay về với những giá trị đích thực của tôn giáo. Tại sao thế ? Lý do là vì càng học nhiều thì càng chồng chất thêm cái sự hiểu biết của kẻ khác  và vì đó là những hiểu biết của kẻ khác thế nên nó chẳng những không giúp ích gì cho mình trong việc giải quyết các vấn đề của đời sông mà còn khiến cho khả năng phán đóan của mình bị sai lạc. Hơn nữa trong lãnh vực tâm linh,
càng học càng thu góp nhiều kiến thức của người khác càng trở ngại cho việc thể nhập. Việc thể nhập nếu ta ví nó như việc rót nước vào một cái ly mà cái ly đó đã đầy rồi thì còn rót vào đâu được nữa ? Cái sự đầy ở đây là đầy nhữngt kiến thức,  chúng cần phải dứt bỏ đi, làm cho tâm trở nên rỗng không. Do đấy mà minh triết Đông phương mới có lời này “ Vi học nhật ích.…Vi Đạo nhật tổn, tổn chi hậu tổn, dĩ chí ư vô vi( Càng học càng thêm sự hiểu biết. Càng thực hành Đạo càng phải bớt, bớt đến chỗ không còn gì để bớt – ĐĐK chương 48. Học để thêm kiến thức mà thêm kiến thức trong thực chất chỉ là cái việc chất chồng cho mình càng ngày càng cố chấp trong thành kiến mà thôi.
 
Làm cho bớt đi, bớt mãi, hành vi này chỉ có thể được thực hiện bởi mỗi một cá nhân, còn đối với triết/thần học thì đó chẳng những là điều không thể mà còn hết sức vô nghĩa, bởi lẽ làm sao mà lại phải bớt đến chỗ trống rỗng trong khi Đấng Thiên Chúa của thần học là thứ Thiên Chúa của quan niệm tức là cần phải học , phải tăng mãi kiến thức  cho đến khi chính các quan niệm lại đánh đổ nhau để khai sinh các quan niệm mới khác bất tận. Với thứ Thiên Chúa của các quan niệm thì chẳng chóng thì chầy nó cũng phải thay nhau sụp đở. Điều ấy dễ hiểu vì thực chất của các quan niệm chỉ là những kiến chấp mà kiến chấp nào thì cũng lầm lạc. Học mãi, học cho nhiều vào để làm gì khi mà nó chỉ khiến cho mình tăng mãi thêm kiến thức , tức lầm lạc ? Trái ngược hẳn với triết/thần học và để có thể thực thi mạc khải của Đức Kitô cho một Nước Trời nội tại , Ngài đòi hỏi những ai theo Ngài cần phải “ Bỏ mình vác thập giá hàng ngày…Mt 16, 24 ) tức có nghĩa bớt bỏ ý riêng, bớt mãi cho đến khi không còn chút ý riêng nào “ Con càng trống rỗng thì càng tốt. Bởi con đang dọn chỗ cho cái mới tràn vào trong con. Chỉ khi nào con không còn gì nữa và cảm thấy mình bị tước bỏ mọi sự. Hãy gọi Cha và Cha sẽ cho con Nước Trời. Cha không từ chối gì đối với những tâm hồn tìm đến xin Cha gíup đỡ và hướng dẫn với một lòng khiêm tốn và mến yêu thật sự” ( Aileen Caddy. Tiếng Thì Thầm ngày 5 tháng giêng )

Đi theo con đường bỏ mình tức là đi trên đường tìm kiếm một Đấng Thiên Chúa chưa ai từng thấy biết bao giơ” ( Ga 1, 18 ) Chỉ với Đấng Thiên Chúa ấy mà mệnh lệnh tìm kiếm “ Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Trời” Lc 12, 31 ) mới có ý nghĩa, thế nhưng để có thể theo đuổi việc tìm kiếm ấy thì mỗi cá nhân phải thực hiện lấy cho mìnhy không thể trông chờ vào bất cứ ai. Không có ai có thể làm thay cho ai  được “ Người ta có thể nói với con về những chân lý tâm linh nhưng chỉ khi nào con sống những chân lý đó và đem chúng ra thực hành trong cuộc sống của con thì chúng mới trở thành những thực tại trong con. Chúng mới sống động và rung cảm, chúng mới tinh nhuệ ở trong con. Con phải tự mình nghĩ ra, tự mình sống và không bao giờ chờ đợi kẻ khác làm thay cho con. Con hãy quay vào nội tâm mình tìm kiếm ở trong đó lời giải đáp cho mỗi trường hợp của con và con sẽ tìm ra. Có thể là con sẽ phải học để biết kiên nhẫn và phục vụ Cha. Nhưng khi đức tin và niềm trông cậy ở trong con khá mạnh, con sẽ tìm thấy tất cả những gì con kiếm” ( Aileen Caddy Sđd ngày 30 tháng 5 ) Sẽ tìm thấy tất cả những gì con kiếm, nào là sự bình an tâm hồn, nào là sự khôn ngoan hiểu biết, nào là ơn thần hiệp, ơn nói tiên tri, làm phép lạ v.v.. Đây không phải là một lời hứa nhưng là sự thật trăm phần trăm  ngay ở đời này. Tuy nhiên thật cũng rất ít người tin được điều Chúa nói đã ghi trong Kinh Thánh “ Quả thật Ta nói cùng các ngươi, ai tin Ta sẽ làm việc Ta làm, lại làm những việc còn lớn lao hơn nữa, vì Ta đã về cùng Cha” Ga 14, 12 )

 Tin Chúa có nghĩa là tin vào Lời Chúa nói rằng trong mỗi người đều có Đấng Cha ngự trị và một khi đã được thông giao với Đấng Cha là nguồn mạch của tất cả mọi sự thì mình đâu còn thiếu thốn gì nữa. Trong thời đại hầu như đều sống phóng tâm vọng ngọai như thế này thì ngay cả với niềm tin vào đời sau cũng còn chẳng còn có nữa huống chi là tự tin vào mình. Dẫu vậy, chân lý muôn đời vẫn là chân lý, con người vẫn là một thực thể tâm linh vượt trổi hơn chính nó vô cùng “ Con đừng bao giờ phân bì khi thấy người khác được tiến bộ hay là được thăng hoa về mặt tâm linh. Hãy ý thức rằng con cũng có thể làm được như vậy . Nhưng muốn được như vậy, con phải ra tay mà làm chứ đừng ngồi yên đó mà than thân trách phận. Mỗi tâm hồn đều có thể lên cao. Mỗi tâm hồn đều có thể trực tiếp với Cha, mỗi tâm hồn đều có thể đến và nói chuyện với Cha nếu họ muốn và chấp nhận điều đó. Bấy giờ con mới thực hiện được điều đó một cách hết sức chắc chắn” ( Aileen Caddy Sđd ngày 6 tháng giêng )
 
Phải tin, phải muốn và phải nỗ lực hành động. Lời khuyên của Đức Kitô nhằm vào mỗi một người trong chúng ta. mặc dầu cứu cánh nhắm đạt tới duy nhất chỉ có một, nhưng để có thể đạt được cứu cánh đó thì mỗi cá nhân phải tự mình tìm kiếm lấy cho mình con đường riêng cho mình, không thể ỷ lại hay bắt chước ai được. Chính Chúa cũng muốn có sự đa dạng trong hướng đi này “ Con hãy là chính mình và đừng lo bắt chước ai cả. Phải có tất cả để làm nên một thế giới, Cha không muốn tất cả chúng con như nhau hết, giống như những hạt đậu trong quả đậu vậy” ( Aileen Caddy Sđd ngày 22 tháng 2 ) Lý do có sự đa dạng ấy là bởi vì mỗi cá nhân đều có căn và duyên khác nhau. Căn tức là thân thể gốc gác do nhiều đời nhiều kiếp hình thành, thế nên không thể đồng. Còn duyên tức là điều kiện, hòan cảnh, trình độ học vấn v.v…tất cả đều hơn kém, khác biệt nên cũng không thể đồng. Vả lại từ trong thâm sâu của mỗi cá nhân , bản chất con người vốn dĩ là một tự do và chính trong sự tự do ấy mà con người mới thật cao cả  đồng thời trách nhiệm cũng rất chi nặng nề. mỗi người cần phải ý thức trách nhiệm cá nhân lớn lao này để thực hiện cho đúng với bản chất đích thực của mình “Điều đúng với tâm hồn này lại có thể là không đúng với tâm hồn khác. Vì thế, điều quan trọng là con phải tìm cho ra hướng đi nội tâm cho riêng con và theo đó mà hành động, không cần phải ra sức đi theo vết chân của bất kỳ ai khác. Con có tự do để lựa chọn vì Cha đã trao quyền trọng tài cho mọi nhân sinh. Con không phải là một con rối chỉ có thể cựa quậy khi người ta giựt giây nó. Con có thể tìm ra được cái gì đúng cho con. Việc gì con làm là tùy thuộc vào con. Con chỉ tìm thấy được sự bình an thật trong tâm hồn và trong tinh thần khi con làm theo cái mà con biết là đúng cho con. Vậy thì hãy tìm và tiếp tục cho đến khi con thấy được đường lối riêng của con, rồi hãy đi theo nó. Điều đó có thể nói rằng con sẽ đứng một mình và làm một cái gì đó thật kỳ lạ đối với kẻ khác, nhưng con khônmg được sợ hãi. Hãy làm tất cả bởi vì trong thâm tâm con biết rằng điều đó là đúng cho con. Và chỉ có thế, cái tốt nhất mới biểu lộ ra được” ( Aileen Caddy Sđd ngày 24 tháng 2 )
 “ Con hãy là chính mình” đây là một lời khuyên rất mới và nó cũng rất khác với  trước khi mà tất cả giáo huấn của Giáo hội chẳng những không đề cập gì tới mà còn muốn dập tắt nó đi. Sự dập tắt này một phần do bởi đây là một con đường quá ư chông gai nguy hiểm. Phần khác lại do ảnh hưởng rất mực nặng nề của giáo điều kinh viện trải dài suốt từ thời Trung cổ đến nay, ngay cả khi nó chỉ còn là một thứ tàn dư sống thoi thóp.  Về con đường nội tâm “ Hãy là chính mình” này, chính Chúa Giêsu ngay vào lúc đương thời Ngài cũng chưa nói với các môn đệ “ Ta còn nhiều điều để nói với các ngươi nữa nhưng bây giờ các ngươi không thể đương nổi” Ga 16, 12 ) . Không thể đương có nghĩa ngay khi ấy không thể tin, không thể nghĩ suy , thế nhưng ngay liền đó Chúa lại nói “ Song khi Thánh linh của Lẽ Thật đến thì Ngài sẽ dẫn dắt các ngươi vào mọi lẽ thật” Ga 16, 13 )  Mọi lẽ thật ở đây ý muốn nói đến thực tại Nước Trời hiện hữu ở nơi tâm hồn mỗi người. Thực Tại mầu nhiệm ấy kể từ sau Lễ Ngũ Tuần( Cv 2, 1 – 4) cho đến nay mặc dầu trong lãnh vực giáo lý, thần học chưa thấy có ai, ở đâu nói tới nhưng trên lãnh vực sống đạo thực hành thì không ai có thể nói được rằng tất cả những ai được Thánh Thần dẫn dắt nên Thánh mà lại không thông qua con đường nội tâm này.

II.- Công việc của nội tâm
 
 Nên Thánh thông qua con đường đi sâu vào nội tâm là một việc, còn đặt vấn đề “ Nước Trời” có ở trong Tâm hay không thì đây lại là một việc khác. Tại sao thế ? Bởi vì nên Thánh thuộc lãnh vực thực hành tức phần Sự, còn thần học thuộc phần Lý. Giữa phần Lý và phần Sự này có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Phần Lý là để soi sáng hướng dẫn cho phần Sự. Còn phần Sự là để minh chứng hòan tất cho phần Lý. Chỉ có lý thuyết mà không có thực hành cũng giống như chỉ có mắt mà không có chân chẳng thể đi tới nơi tới chốn. Ngược lại thực hành mà không có lý thuyết hướng dẫn thì cũng giống như có chân mà không có mắt, cứ cố mà đi thế nào cũng sa hầm sụp hố. Lý và sự phải viên dung  thì  mọi việc ắt sẽ thành tựu. Trở lại vấn đề nên Thánh và thần học, hai vấn đề này từ bao lâu nay chẳng quan hệ gì với nhau, nếu không muốn nói thần học còn gây khó khăn cho việc nên Thánh và có thể nói được rằng tất cả những trường hợp nên Thánh đều do Ơn Chúa  cùng với những cố gắng cá nhân thực hành theo những chỉ dẫn của Kinh Thánh chứ  chẳng liên hệ chi với thần học. Một ví dụ cụ thể và gần đây nhất cho thấy có sự tréo ngoe giữa thần học và việc nên Thánh đó là Con đường Thơ Ấu thiêng liêng của Têrêsa HĐGS đã bị người ta phê phán là lạt lẽo vô vị. !!!

 Sự xa rời giữa thần học hiểu như nó là một môn chuyên nghiên cứu trình bày về Thiên Chúa với việc sống đạo của người tín hữu đã diễn ra ngay từ khi nó ra đời vào khỏang thế kỷ 12 ( Xem dẫn vào thần học của N.V.Tuyên ) Thần học kinh viện dần dần đã đi vào hệ thống và trở thành một thứ sinh họat chỉ dành riêng cho giới giáo sĩ và ngay cả trong giới này cũng tách riêng ra những người chuyên nghiên cứu và giảng dạy gọi là thần học gia. Tình hình phân cách giữa thần học và thực hành tôn giáo cũng giống hệt như sự xa rời giữa triết học và đời sống thường nhật của con người. Chính vì sự xa rời không mảy may liên hệ chi tới đời sống của triết học Platon, Aristote thế nên đã bị triết học hiện sinh ( Existancialisme ) đánh đổ vào thế kỷ 19. Nguyên do sâu xa của sự xa rời đời sống ấy là bởi sự lạc đề của triết học. Thay vì phải tìm biết về chính mình như minh triết chỉ dạy “ Hãy tìm cho biết về chính mình mày” ( Connais toi, toi-même ) thì Aristote học trò của Socrate ( 469 – 399 ) lại quay ra tìm biết về con người với định nghĩa “ người là con vật biết suy lý” ( L’Animal raisonnable ) Triết học hiện sinh đã thức tỉnh và nhận ra sự lạc đề ấy. M. Heidegger bình luận như sau “ nền móng câu định nghĩa đó là thú vật ( Zoologique) chính từ trong khung cảnh của câu định nghĩa đó mà đã kiến tạo nên quan điểm về con người của Âu Tây, tất cả những gì là tâm lý`, luân lý tri thức luận, nhân bản. Đã từ lâu chúng ta bị xiêu bạt trong mớ lộn xộn những ý tưởng và khái niệm mượn từ trong các môn đó, là vì cứ sự nó đã đặt nền móng trên một câu định nghĩa đã sa đọa” ( xem Nhân Bản của Kim Định )

 Sự sụp đổ của triết học duy lý đồng thời kéo theo luôn cả Thần học Kinh viện bởi lẽ thần học này là con đẻ của triết học Aristote. Nếu đối tượng tìm biết của triết học là bản thể của sự vật( con người dưới cái nhìn của triết học cũng chỉ là sự vật, không hơn không kém ) thì của Thần học là Bản thể của Thiên Chúa.. Giữa hai đối tượng này thật ra cũng chẳng có chi khác biệt và cái gọi là bản thể ở đây cũng chỉ là một thứ khái niệm mà người ta có về sự vật chứ không phải là chính thực tại như nó là. Sau sự lạc đề của triết học  duy lý kinh viện đến hiện sinh mặc dầu là đã thay đổi đối tượng tìm biết , trước là sự vật, là Thiên Chúa nay là con người, thế nhưng vẫn chỉ là sự lạc đề không hơn không kém, cũng chẳng hề biết chi về mình. Biết về mình tức là biết mình là ai, từ đâu sinh ra và chết rồi đi đâu. Muốn biết mình là ai thì chẳng có cách nào khác là phải xoay ngược cái tâm trở vào bên trong nội tâm mình.  Quay trở ngược cái tâm trở vào bên trong là công việc nhất thiết phải làm để biết mình, đó là đường lối của tất cả Thánh hiền dù là đông hay tây. Đức Lão tử trong sách Liễu Thuyết Tâm Kinh nói “ Ta từ vô lượng kiếp nhờ nhìn sâu vào Tâm mà tìm ra Đạo ( Lão quân viết= ngô tòng vô lượng kiếp lai quán tâm đắc Đạo ) Cái Đạo mà Thánh nhân do quán tâm mà đắc ấy có thể cạn sâu khác nhau, danh xưng khác nhau, với Lão tử thì Đạo ấy là Xich Tử Chi Tâm. Với Khổng Tử là Lạc Thiên chi mệnh. Với Đức Phật Thích Ca Bản Lai Diện Mục. Còn với Đức Kitô thì đó là Nuớc Trời “ Cha là Thần khí, Cha ở khắp mọi nơi. Cha ở trong mọi sự, không nơi nào mà Cha không có mặt, khi con nhận thức rõ điều ấy thì con hãy biết rằng Nuớc Trời đang ở trong con, con có thể ngưng cuộc tìm kiếm ( bên ngòai ) và quay về nội tâm con. Lúc đó con sẽ tìm thấy tất cả những gì con kiếm tìm. Ngày nay thật quá ít những tâm hồn như thế. Họ đi tìm cách giải quyết ở khắp mọi nơi trừ ở bên trong họ” ( Aileen Caddy Sđd ngày 28 tháng ba )
 
Thật đúng như lời Chúa nói, con người ngày nay tìm cách giải quyết bàn bạc mọi công việc dù lớn dù nhỏ, từ cái ăn cái mặc cho bản thân đến những vấn đề lớn lao ảnh hưởng đến nhân quần xã hội như nạn nhân mãn, ô nhiễm môi sinh, khủng hỏang kinh tế, chiến tranh hòa bình v.v… nhưng không ai lại nghĩ được rằng tất cả những mối lo toan đó đều có nguồn gốc từ nơi nội tâm mình, và nếu muốn thanh tóan những mối lo toan chính đáng hay không chính đáng đó thì cũng chẳng có cách nào khác là phải giải quyết ngay từ nơi mà nó xuất phát tức ở nơi tâm. Xã hội Âu Mỹ hiện nay đang trong cơn khủng hỏang tâm linh trầm trọng, nguyên nhân là bởi sự phát triển một chiều của nền văn hóa duy lý và duy vật. Nó đẩy con người đến chỗ bế tắc cùng cực, hầu như luôn luôn phải sống trong tình trạng tâm lý vội vàng âu lo triền miên. Phần nào ý thức được cái hiểm họa diệt vong đã gần kề, một số trí thức phương Tây đã tìm về với phương Đông , hy vọng có thể tìm thấy ở đó một phương thế khả dĩ có thể cứu giúp họ là Thiền đạo. Thế nhưng như Thiền sư Chang chen Chi nói họ tức trí thức Tây phương mới chỉ có ở giai đọan vỡ lòng, vẫn còn luẩn quẩn  trong cái vùng mơ hồ giữa việc quan tâm đến và…hiểu Thiền và thật ra cũng chưa đủ mức chín chắn trong việc nghiên cứu để có thể thực sự tu tập Thiền ( Chang chen Chi . Thiền đạo tu tập ).

 Quả đúng là tu tập Thiền rất khó, thế nhưng một khi đã nhận thức ra được rằng tất cả những vấn đề dù lớn dù nhỏ, dù của cá nhân hay của cộng đồng chỉ có thể giải quyết ngay ở nơi tâm của mỗi người thì cũng chỉ có một con đường duy nhất đó là Thiền bởi chưng Thiền chính là tỉnh thức từ bên trong, là sự tự tri, biết mình và sự biết mình này không những ai ai cũng có thể mà còn bắt buộc phải làm nếu muốn sống hạnh phúc và sống có ý nghĩa “ Mọi tâm hồn đều đạt tới một trạng thái tâm linh cao vời. Nhưng đó là chuyện phải làm ở nội tâm đi từ một sự hiểu biết từ bên trong . Từ một cảm hứng và một trực quan không cần đến tri thức hay khôn ngoan bề ngòai. Mọi sự là ở đó, ở đáy lòng mỗi tâm hồn đang chờ đợi được nhận ra, được làm nổi bật lên và được người ta sống thật sự” ( Aileen Caddy ngày 6 tháng sáu ) Chân lý không phải để nói mà là để sống, bài học này tuy có vẻ giản đơn nhưng chẳng mấy ai nhận ra nó khi người ta cứ cố bày vẽ ra đủ mọi thứ lý thuyết, mọi thứ thần học rắc rối. Cuộc khủng hỏang tôn giáo như hiện nay đang thấy đó chính là bởi chẳng mấy ai thực sự sống , thực hành lời dạy của Chúa., người ta cứ tưởng chân lý chỉ có ở nơi kia mà không có ở nơi này. Trí thức phương Tây hãnh diện khi nói về v iệc họ rời bỏ Đạo Công giáo để chạy theo Phật giáo thế này “ Tôi sống thỏai mái với Đạo Phật, vì đạo này là con đường tâm linh hòan tòan phù hợp với văn hóa phương Tây ngày nay. Trái ngược với nền giáo dục tôn giáo mà tôi đã hấp thụ trước đây ( Công giáo ) đối với tôi, đạo Phật không có gì xung khắc với việc học tập khoa học cũng như với nghề nghiệp của tôi” ( Tb Giác Ngộ số 110/98 )
 
Sở dĩ vị bác sĩ người Pháp này cho rằng có sự hơn kém giữa Phật giáo và Công giáo như thế là bởi  đã lầm tưởng riêng chỉ  Phật giáo mới có Thiền, còn Công giáo thì không. Điều lầm tưởng này hòan tòan có cơ sở lý do là vì cứu xét ngay cả trong lý thuyết lẫn thực hành của tôn giáo này tuyệt nhiên chẳng thấy ở đâu và bao giờ đá động gì đến bản tâm , đến giác ngộ gì cả. Chẳng những thế, có khi còn ra mặt bài bác là khác . Mỗi khi nói đến đạo giáo thì hầu như ai cũng nghĩ ngay đến cầu nguyện đến lễ bái, phượng thờ cùng với những vấn đề siêu nhiên phép lạ v.v.. và yên trí tất cả chỉ có thế. Thực sự thì không phải hòan tòan như vậy, tôn giáo vừa là siêu nhiên bởi nó nhắm tới một bình diện vượt khỏi cõi trần này, vừa là tự nhiên bởi nó chính là đời sống bình thường của con người, có thể nói nó là không khí để thở hít là năng lực để sử dụng miễn là con người biết quay về với nội tâm mình. Tất cả những hình thức kinh kệ, lễ lạy chẳng qua chỉ là một thứ phương tiện dùng để khai thác cái kho tàng vốn sẵn có đó. Cái kho tàng ấy khi thì Đức Kitô gọi là Nước Trời, khi thì xưng tụng là Đấng Cha. Và trong trường hợp “ Tiếng Thì Thầm” để cho đối tượng có thể dễ dàng tiếp nhận Ngài tự xưng mình là chính Đấng ấy. Điều này rất ám hợp với chân lý Thánh kinh bởi lẽ Chúa Giêsu đã hòan tòan kết hợp với Chúa Cha “ Ta với Cha là một” Ga 10, 30 ) Hãy nghe Ngài nói về Bản Tâm của mỗi người thế này “ Cha đang ở trong con đây, không phải Cha đang ở trong tâm hồn này nhiều hơn tâm hồn khác, đây chỉ là vấn đề ý thức. Có những tâm hồn ý thức sâu hơn về đời sống thiêng liêng của họ. Những tâm hồn này thường có vẻ như biểu hiện một cái gì siêu nhiên. Nhưng chẳng có gì là siêu nhiên đâu, đó chỉ là sống đơn giản theo luật của Cha. Sử dụng cái thế lực đang sẵn có trong mỗi người, đúng như nó phải được sử dụng. Không khí đang sẵn có đó để được hít thở, nhưng nó tùy thuộc vào sự hít thở của con, điện năng cũng đang có đó để được sử dụng. Nhưng nó phải được trang thiết bị rồi mới sử dụng được. Nếu không nó vẫn sẵn có đó nhưng không biểu lộ được năng lực của mình., năng lực đó đang chờ được phóng thích. Đối với năng lực thiêng liêng ở trong con cũng vậy, nó đang sẵn có đó để con sử dụng nhưng ít ra con hãy cắm vào và đốt cháy cái năng lực đó chứ bản thân nó không hành động đâu” ( Aileen Caddy Sđd ngtày 26 tháng bảy )

 Nơi nội tâm của mỗi chúng ta đều chất chứa một kho tàng năng lực vô tận, nhưng nếu không được biết đến và đem ra xử dụng thì cũng vô ích. Đức Kitô xuống thế rao giảng Tin Mừng có nghĩa là Ngài loan báo về cái kho tàng còn ẩn giấu đó và bảo ai nấy phải hết lòng tìm kiếm “ luật pháp và tiên tri đến Jean Baptit là hết, rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời được giảng ra và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” Lcc 16, 16 ) Phải nỗ lực mà vào hoặc hết lòng tìm kiếm, đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai muốn có cho mình một đời sống xứng đáng và cũng duy chỉ với mệnh lệnh này mà tôn giáo mới thực sự có ý nghĩa.

III. Hết lòng tìm kiếm
 
 Nguyên nhân sâu xa của tất cả mọi cơn khủng hỏang là do con người đã không tìm kiếm Thiên Chúa đúng như Ngài cần phải tìm, không tìm thì không thể gặp. Và bởi vì “ Thiên Chúa là Tình Yêu” 1Ga 4, 8 ) thế nên không gặp Ngài tức có nghĩa là không có tình yêu trong cuộc sống , mà đã không có tình yêu trong cuộc sống thì không thể làm được bất kỳ một điều lành Thánh nào “Đức Chúa Trời từ trên trời ngó xuống con lòai người đặng xem thử có ai thông sáng tìm kiếm Đức Chúa Trời chăng ? Chúng nó thay thảy đều quay lui để cùng nhau trở nên ô uế, chẳng có ai làm điều lành, một người cũng không” TV 53, 2 – 3 ) Lời phiền trách này xảy ra trong thời Cựu Ước, còn Tân Ước thì sao? Hiện nay có mấy ai thực thi mệnh lệnh tìm kiếm của Đức Kitô “ Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Trời” Lc 12, 31 ) hay không. Cũng giống như Cựu Ước, câu trả lời là không, chẳng có ai lo tìm kiếm Nước Trời như một điều trước hết nữa. Nói đúng hơn hiện nay nếu còn …quan tâm đến tôn giáo thì người ta chỉ còn nói về, bàn luận về Nước Trời như một vấn đề thần học chứ thật sự chẳng tìm chẳng kiếm gì cả. Thật ra công việc …nói về này chẳng phải đến nay mới có mà nó đã có ngay từ khi thần học đã đi vào hệ thống hóa để tìm hiểu, đào sâu mầu nhiệm Thiên Chúa và các chân lý mạc khải. Trước đây thần học Kinh Viện tìm hiểu đào sâu mầu nhiệm trong bao thế kỷ, đến nỗi Ngài đã bị khai tử. Còn ngày nay khi mà thần học đã trở thành  thần học về cái chết của Thiên Chúa ( Théologie de la mort de Dieu ) thì lại đến lượt  Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài bị gạt bỏ. Bản thân  Đức Kitô thì bị phân biệt thành hai, một của lịch sử ( Trước khi có Kitô giáo ) và một là đức tin ( sau khi có Kitô giáo ) Còn Tin Mừng Nước Trời thì bị tục hóa cách thảm hại để hóa thân thành Tin mừng về sự sống sinh lý. Với Thiên Chúa hay Nước Trời là một thực thể nội tại không thể nào tìm hiểu, nghiên cứu như là một đối tượng của tri thức. Làm như thế chỉ có thể có được một quan niệm, một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa về Nuớc Trời về Đức Kitô chứ không thể nào có đưuợc chính thực tại Thiên Chúa như Ngài là…
 
Bởi kết cuộc của thần học chỉ là những quan niệm, vì thế cũng chẳng lạ gì khi thấy  lịch sử của Thần học, dù là Kinh Viện hay hiện sinh ( Thần học giải phóng ) chỉ tòan những tranh cãi bất tận. Đủ lọai các quan niệm cứ được lập nên, tồn tại trong một thời gian rồi lại sụp đổ. Bao lâu còn chạy theo các quan niệm thì chẳng bao giờ có thể đạt tới thực tại. Tại sao thế ? Bởi vì thực chất của các quan niệm chỉ là những kiến chấp che lấp thực tại, muốn đạt tới thực tại thì cần phải phá bỏ hết kiến chấp mới được. Do ảnh hưởng của tội nguyên tổ thế nên con người sống là sống trong vòng vô minh trói buộc của kiến chấp hiểu như đó là những cái thấy lầm lạc ( Sở tri chướng ), thấy có ta và những cái ở ngòai ta. Bởi thấy có ta và những cái ở ngòai ta là thực có, thế nên mới vọng cầu tham đắm, gây nên tất cả tranh chấp kéo theo mọi thứ tội lụy.  Đức Kitô xuống thế rao giảng Tin Mừng Nước Trời và Kinh Thánh đã nhiều lần ghi lại mệnh lệnh của Ngài “ Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước ĐCT và sự công chính của Ngài” Mt 6, 33 ) Chữ ‘ Trước hết” ở đây cho ta thấy ý của Chúa là muốn cho ta phải lấy sự tìm kiếm Nước Trời làm ưu tiên hàng đầu, đừng nên lo lắng thái quá cho những nhu cầu bản thân hay gia đình phe nhóm. Ngay cả với Mattha lo phục vụ bữa ăn cho Chúa và các môn đệ mà cũng bị Ngài phê bình “Ớ Mattha, con lo lắng và bối rối về nhiều việc quá nhưng chỉ có một điều cần yếu mà thôi , Maria đã lựa chọn phần tốt nhất là phần không ai có thể đọat được” Lc 10, 41 – 42 )

 Những thứ có thể bị đọat mất là tiền của , danh vọng, chức quyền v.v.. đó là những thứ ở bên ngòai mình, còn thứ không ai có thể đọat mất đó là Nước Trời vẫn sẵn có, đủ đầy ở nơi tâm hồn mình. Quả là Nước Trời có ở nơi Tâm mình thật nhưng nó lại quá nhỏ như hạt cải hoặc quá mờ nhạt như men trong bột ( Lc 13, 18 – 21 ) bởi thế cần phải làm cho cái hạt nhỏ ấy có thể mọc và lớn lên thì cách duy nhất là phải hết lòng tìm “ Có tia sáng của Chúa chiếu trong mỗi tâm hồn nhưng ở nhiều tâm hồn cần phải khơi gợi nó lên để làm cho nó cháy bừng, con hãy ra khỏi giấc ngủ mơ của con đi. Hãy nhận ra Thiên Chúa đang ở trong con , hãy nuôi dưỡng sự hiện diện Ngài và làm cho nó lớn lên và bừng sáng ra. Một hạt giống phải được vùi xuống đất trước khi nó mọc lên . Nó mang trong mình cả một tiềm lực, nhưng tiềm lực này như đang ngủ cho đến khi người ta tạo điều kiện tốt cho nó  được mọc lên và tăng trưởng . Con đang mang trong con Nước của Thiên Chúa, Nước Trời nhưng nếu con không đánh thức nó dậy và không khởi sự tìm nó, con sẽ không thể thấy nó và nó cứ  nằm đó y nguyên như cũ. Có nhiều linh hồn không biết thức tỉnh mình về điều đó. Họ như những hạt giống được đóng gói kín, con phải lo bứt hết các xiềng xích của mình ra để được tự do. Ngay khi con ước muốn điều đó thì con đã được sự trợ giúp từ mọi phía, nhưng trước hết con phải ước muốn đã” ( Ailee Caddy Sđd ngày 15 tháng mười hai )
 
Trong việc tìm kiếm này, Chúa nói phải bứt hết xiềng xích của mình ra để được tự do. Vậy ta nên hiểu xiềng xích đó là những gì ? Xin thưa có hai lọai xiềng xích, một là những đam mê dục vọng của mình mà nhà Phật gọi là phiền não chướng và hai là những thành kiến kể cả những quan niệm lập trường thần học triết học này nọ mà mình đã học đã tiếp thu trong nhiều năm gọi là Sơ tri chướng. Trong hai thứ chướng này thì phiền não chương tuy rằng nó có vẻ ồn ào đáng sợ nhưng thật ra nó lại dễ cởi xiềng tháo cũi hơn là chướng sở tri rất nhiều . Với sở tri chướng con người như bị tê liệt về trí não, nó khiến cho con người lao xuống vực thẳm nhưng lại cứ nghĩ mình đang ở đỉnh cao trí tuệ..!!! Mặt khác và điều này mới thật nghiêm trọng, người ta ai cũng đinh ninh  chân lý có thể đạt được bằng cách học hỏi, nghiên cứu, khiến cho việc tu tập tức Thánh hóa bản thân trở thành vô nghĩa. Chẳng biết từ bao giờ giáo dân nói chung đều chỉ biết khóan trắng cho các cha các thầy, còn mình thì hòan tòan thụ động hầu như không đụng đến một ngón tay để cải tạo con người mình, tuy nhiên cái lỗi này chẳng biết là từ đâu ?  Thiên Chúa, Đấng ẩn giấu ấy cần phải hết lòng tìm  “ Nếu con chăm chỉ tìm kiếm chắc chắn con sẽ tìm ra cái “ Trở nên một với Cha” là nguồn mạch của mọi cuộc đời. Nhưng con phải dành thời giờ để tìm ra nó . Vì đó không phải là cái gì rớt xuống đã chín sẵn cho con ăn mà phía con chẳng có một chút ước muốn da diết nào để tìm hiểu Cha, hiểu chân lý của Cha. Và tìm kiếm cho đến khi con thấy được điều gì có ý nghĩa đối với con. Kinh nghiệm sâu sắc của tâm linh về sự hiểu biết ở bên trong chỉ đến với những tâm hồn thực tình muốn biết. Vậy con đừng có bì bõm mơ hồ trong những kinh nghiệm tâm linh. Việc tiến lên và từ đó rút kinh nghiệm cho nội tâm là điều tùy thuộc vào con” ( Aileen Caddy Sđd ngày 14 tháng năm ) Thấy được điều có ý nghĩa sau khi đã hết lòng tìm kiếm, điều ấy chẳng phải là cái gì khác mà là một kinh nghiệm giác ngộ tâm linh để có thể đi đến chỗ kết hợp với Đấng Cha ở nơi chính mình.

IV. Tìm kiếm để kết hợp

Cứu cánh của việc tìm kiếm là kết hợp với Đấng Cha trong chính mình. Phần thưởng ấy chỉ dành cho những ai thực sự khao khát nó và sau khi đã vượt qua được tất cả những trở ngại cần phải vượt. “Phúc cho ai đói khát sự công chính bởi họ là những kẻ được no đầy. Khi ước nguyện của con càng rạo rực bao nhiêu thì con càng toại nguyện bấy nhiêu bởi con cứ tìm kiếm, tìm kiếm hoài lời giải đáp và không thể thỏa mãn khi con chưa tìm ra nó. Con sẽ cương quyết kiên nhẫn chịu đựng và bền bỉ đem hết tâm lực ra để thực hiện cho kỳ được điều mà con mong ước suốt cuộc đời tâm linh của mình. Đó là thực hiện hợp nhất của con với Cha” (Aileen Caddy Sđd ngày 4 tháng 7).

Nếu tôn giáo chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta còn theo đuổi việc tìm kiếm Thiên Chúa thì việc tìm kiếm ấy phải nhắm đến mục đích tối thượng là được kết hợp với Ngài. Chẳng có chi vô lý cho bằng một mặt người ta cứ tiếp tục tìm kiếm một mặt lại không mong muốn gặp gỡ. Như vậy giữa sự tìm kiếm và mong muốn kết hợp có sự liên quan tương hợp với nhau. Không thể có sự kết hợp, nếu không tìm kiếm và ngược lại khi chẳng có nhu cầu kết hợp thì cũng chẳng  tìm và sự tìm kiếm trong tôn giáo vì vậy trở thành vô nghĩa. Thời đại ngày nay sở dĩ chẳng  ai tìm kiếm vì chẳng còn có nhu cầu kết hợp. Làm sao nhu cầu này có thể còn bởi vì thế giới này đã được mệnh danh là “thế giới không cha” (Société sans père). Nhiều nhà thần học bây giờ rất ngại ngần khi đề cập đến Thiên Chúa dưới hình ảnh một người cha. Do đâu mà có sự ngại ngần này? Đó là vì họ không có cách nào đáp trả được những phê phán của các loại triết học chẳng hạn như Sigmund Freud với phân tâm học thì “người cha (Thiên chúa) là sản phẩm của ảo vọng muốn được che chở tuyệt đối cũng như từ mặc cảm oedipe. Nghĩa là từ ý thức về nhu cầu được tha thứ. Chẳng hạn như K.Mark với chủ thuyết Marxisme cho rằng tôn giáo hướng về người cha trên trời là một suy tôn làm cho con người bị vong thân triệt để. Còn Frédéríc Nietzche với hiện sinh thì nói Thiên Chúa là sản phẩm mơ hồ của sự phóng rọi vô ích những ước vọng của con người v.v.…

Những phê phán ấy thật nặng nề chứng tỏ các loại triết học vô thần chẳng hề biết một chút gì về đời sống tâm linh của con người, điều này dẫn đến việc các giá trị tinh thần cứ thay nhau phá sản là điều không thể tránh. Trách nhiệm gây ra sự phá sản này ở nơi thần học, một nền thần học trong bao nhiêu lâu chỉ biết cắm cúi nghiên cứu để rồi định ra những khái niệm chết cứng về Thiên Chúa. Đấng Cha được nói đến trong Kinh Thánh hoặc theo quan niệm bình dân đã gắn liền với hình ảnh người gia trưởng trong chế độ phụ hệ, quyết định mọi sự một cách độc đoán hoặc mang tính triết học cho Đấng Cha ấy là Đấng  Tạo Hóa là đệ nhất động cơ hoặc đệ nhất nguyên nhân, là hữu thể tối cao v.v…. Đấng cha của cả hai quan niệm này đều không dính dáng chi tới mặc khải của đức Kitô bởi chưng đó chỉ là những ý niệm mà người ta có về Thiên Chúa chứ không phải là chính Thiên Chúa của thực tại. Với Đấng Thiên Chúa của thực tại này thì chỉ có  Đức Kitô và những ai mà Ngài muốn mặc khải cho mới biết, còn thế gian thì không “thế gian không thể nhận biết vì chẳng thấy Ngài cũng chẳng biết Ngài còn anh em biết Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (GA 14;17-18).

Tại sao Thiên Chúa vẫn ở với và hơn nữa ở trong tâm hồn của mỗi người mà thế gian lại chẳng thấy chẳng biết? Ấy bởi vì con người cứ mãi hướng cả giác quan cả lý trí ra bên ngoài để cầu tìm. Với giác quan thì Thượng đế của nó là những thần tượng ma môn đủ thứ, còn với lý trí thì đó là Đấng Thiên Chúa siêu việt hoàn tòan cách biệt và xa cách. Tôn giáo một khi đã sa đà vào các hình thức đam mê thờ cúng ngẫu tượng nó sẽ khiến cho con người dễ dàng trở nên sa đọa bạc nhược. Còn nếu hướng về đối tượng siêu việt, ngoại tại sẽ khiến con người bị vong thân, tự làm cho mình trở nên ngày càng xa cách với Thiên Chúa mà Đức Kitô gọi thân mật là Cha.

Việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha không phải chỉ có ở nơi Đức Giêsu Kitô trong kinh thánh Tân Ước mà ngay cả Cựu Ước cũng có “Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một Cha hay sao?” (Malachi 2, 10).

Chẳng những thế Kinh Thánh Cựu Ước còn cho Thiên Chúa là chồng khi tiên báo về giao ước mới thế này “Này những ngày đến bây giờ Ta sẽ lập một giao ước mới với Israen và với nhà Giuđa. Giao ước này Ta sẽ không theo giao ước mà Ta đã kết hôn với tổ phụ chúng nó trong ngày Ta nắm tay  dắt ra khỏi đất Ai Cập tức Giao ước mà chúng đã phá đi, dẫu rằng Ta là chồng chúng nó” (Jer 31, 31-32).

Thiên Chúa từ là chồng trong Cựu Ước đến là Cha trong Tân Ước đã có một bước gần gũi đáng kể nhưng cả hai tính chất ấy chỉ để sửa soạn cho một cứu cánh tối hậu  đó là nên một với nhau. Giữa chồng và vợ dẫu sao cũng vẫn không thể cùng huyết tộc. Giữa Cha và con tuy cùng máu mủ ruột thịt nhưng  vẫn còn ở ngoài nhau. Chỉ có nên một mới ở trong nhau. Mục đích rốt ráo mạc khải của Đức kitô là để cho ta có thể nên một với Thiên Chúa, thế nhưng để có thể thực hiện việc nên một này trước hết cần phải nhận biết và phụng thờ Ngài như là  Đấng Cha. Trong nhiều thế kỷ do ảnh hưởng của thần học kinh viện duy lý đã trở nên xa cách thành ra một  Đấng Thiên Chúa  hoàn tòan ngoại lai chẳng hề có chút liên hệ chi với con người, với cuộc sống. Chính bởi lầm lẫn này mà giáo hội đã tự làm mất đi vai trò hướng dẫn tâm linh của mình. Giờ đây để sửa chữa cần phải trở lại với mạc khải bằng cách chấp nhận một đấng Thiên Chúa ở trong. “con hãy chấp nhận trở nên một với tất cả những gì đang sống, hãy chấp nhận nên một với cha, con đừng nhút nhát lẩn trảnh. Chẳng lẽ con lại cảm thấy mình không xứng đáng chấp nhận sự hợp nhất của chúng ta. Cảm nghĩ mình không xứng đáng đó là cái phân chia chúng con khỏi cha,  là Tạo Hóa của chúng con. Từ quá xa xưa người ta đã nói với con người rằng họ là những kẻ tội lỗi khốn khổ, và họ không đáng được song hành và nói chuyện với cha. Từ quá xa xưa họ tự tách rời khỏi cha cho đến nỗi không còn nhận ra cha nữa, không còn biết rằng cha đang ở trong họ. Con hãy loại bỏ dứt khoát khỏi những quan niệm sai lầm đó về cha. Cha là tình yêu, cha đang ở trong con, con hãy chấp nhận sự hợp nhất của chúng ta với niềm vui sướng. Hãy chấp nhận nó như một em bé và đừng mất thì giờ và nghị lực để hiểu điều đó bằng cái đầu” (Aileen Caddy Sđd ngày tháng 11).

Hiểu bằng cái đầu tức là hiểu bằng lý trí, đây là khả năng phán đóan của con người. Khả năng này rất ư cần thiết cho đời sống thực dụng nhưng lại là một trở ngại đối với đời sống tâm linh. Cùng một lẽ ấy với  Đấng Thiên Chúa  là cha thì cần phải đi theo con đường thơ ấu mới có thế sà vào lòng ngài được. Sà vào lòng có nghĩa là nên một với nhau, giữa cha và con đã có sự hiệp nhất hoàn toàn chẳng còn phân cách nữa. Đây chính là cứu cánh của sự kiếm tìm, tuy nhiên nên hiểu gặp gỡ cha con là như thế nào? Dĩ nhiên đấng Cha ở đây phải là đấng nội tại và như thế phải chăng cuộc tìm kiếm Thiên Chúa cuối cùng chỉ là để gặp gỡ với Đấng đã sẵn có ở nơi mình ?

V. Kết hợp với cái đã sẵn có

 Cái sẵn có ở tâm hồn của mỗi một con người phải là đối tượng của sự tìm kiếm. Với Đạo Chúa thì đối tượng ấy là Đấng Cha. Với minh triết Đông phương là Thiên lý. Với Đạo Phật là Phật. Bất cứ sự tìm kiếm nào nếu không nhắm đến chỗ kết hợp được với cái đã sẵn có đó đều phải coi là ngọai đạo. Quan điểm Nho giáo cho rằng Thiên lý tại nhân tâm và để phân biệt tiểu nhân, quân tử, minh triết cho rằng tiểu nhân không biết đến Thiên lý ấy có ở nơi mình để rồi cứ chạy theo ngọai vật, còn quân tử là người biết quay trở lại sống với Thiên lý nơi mình “ Cố quân tử kính kỳ tại kỷ  giã, nhi bất mộ kỳ tại thiên giã. Tiểu nhân thố kỳ tại kỷ giã nhi mộ kỳ tại thiên giả. Quân tử kính kỳ tại kỷ giả, nhi bất mộ kỳ tại thiên giả thị dĩ nhật tiến giả. Tiểu nhân thố kỳ tại kỷ giả, nhi mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật thóai giả” ( Cho nên người quân tử chỉ kính cái ở mình mà không mến cái ở trời. Kẻ tiểu nhân thì bỏ cái ở mình mà mến cái ở Trời. Người quân tử chỉ kính cái ở mình mà không mến cái ở trời cho nên ngày một tiến. Kẻ tiểu nhân bỏ cái ở mình mà mến cái ở Trời cho nên một ngày một lui ( T.T.Kim Nho Giáo quyển thượng )

 Phật giáo nói “ Tức tâm tức Phật” ( ngòai tâm không Phật, ngòai Phật không tâm) và cho rằng những ai tìm kiếm Phật bên ngòai Tâm đều là người phỉ báng Phật. Bồ Đề Đạt Ma sư tổ nói “ Nếu người chẳng thấy Tánh, suốt ngày lăng xăng niệm Phật tụng kinh, gắng học siêng năng sám hối hành đạo, thường ngồi chẳng dậy, học rộng nghe nhiều. Khởi công dụng hạnh, lấy đó làm Phật pháp, các chúng sanh này đều là người phỉ báng Phật pháp. Phải biết Phật trước Phật sau chỉ nói thấy Tánh , nếu thấy tự tâm là Phật, chẳng cạo bỏ râu tóc, mặc áo trắng cũng là Phật, chẳng thấy Tánh cạo bỏ râu tóc vẫn là ngọai đạo. Nho giáo mặc dầu có đề ra lý thuyết  Thiên lý tại nhân tâm thật đấy, thế nhưng có lẽ may ra chỉ có ông Khổng thi hành được chút nào thôi chứ còn thật ra nó đã sớm bị các chế độ phong kiến lợi dụng và các nho sĩ hầu hết trở thành hủ nho cả.  Phật giáo nêu cao chủ trương tức tâm tức Phật nhưng tuyệt đại đa số lại chỉ thích đúc tượng Phật Thích ca cúng vái khẩn cầu như một đấng thần linh ban ơn giáng họa. Đức Giêsu Kitô rao giảng Tin Mừng là để cho mỗi một người có thể nhận biết và hội nhập với Nước Trời ở trong tâm hồn mình nhưng thần học lại phủ nhận cho đó không phải là thực tại nội tâm. Nước Trời, cái thực tại “Ở trong” mà Đức Kitô rao giảng đó nếu chỉ biết quan niệm một cách máy móc như là một thứ lãnh thổ, một thứ khu vực địa lý thì không sao mà có thể chấp nhận nó “Ở trong” cũng như Thiên Chúa nếu cứ chấp chước là Đấng Thần linh Tạo Hóa thì Ngài chẳng thể nội tại.

 Dù gọi là Thiên lý là Phật là Nước Trời là Thiên Chúa Tòan Năng gì gì đi nữa thì đó cũng chỉ là những danh xưng gượng mà đặt vậy thôi chứ đó hòan tòan chẳng dính dấp chi tới thực tại. Chấp vào những cái tên ( danh tướng ) đó thì muôn đời muôn kiếp sẽ chẳng bao giờ có thể nhận biết được cái thực tại “Ở bên trong” mà chỉ có thể đạt được sau khi đã dũ sạch tất cả những chấp chuớc vào ngôn từ văn tự. Thực tại ấy bởi nghiệp chướng che lấp thế nên tất cả chúng sinh đều không thể nhận biết, duy chỉ có chư Phật là những vị đã thấu triệt Bản Tánh ( Kiến Tánh ) mới biết. Đức Kitô nói “ Các ngươi chẳng từng biết Ngài, nhưng Ta biết Ngài. Nếu Ta nói rằng Ta không biết Ngài thì Ta cũng nói dối như các ngươi vậy” Ga 8, 55 ). Chúa nói “ Biết Ngài” ở đây tức là nhận biết về Đấng Cha nội tại trong chính mình, Đấng Cha ấy là một thực thể vốn dĩ đã sẵn có viên mãn thành tòan ở trong mỗi một người trong chúng ta từ thuở đời đời nhưng lại chẳng ai hay biết. Đức Kitô rao giảng Tin Mừng cũng tức là chỉ cho con người để có thể nhận biết về Đấng Cha ấy. Nhận biết Đấng Cha hay về Nước Trời cũng là nhận biết về Sự Sống Đời Đời vốn sẵn có ở nơi mình “ Sự sống đời đời là nhận biết Cha tức chân thần duy nhất cùng Giêsu mà Cha đã sai đến” Ga 17, 3 ).

 Đấng Cha hay chân thần hay Thần khí “Đức Chúa Trời là Thần Khí”Ga 4, 24 ) chỉ là một thực tại duy nhất, thực tại này trước hết cần phải được nhận biết rồi mới có thể khai thác tức  sống kế`t hợp được. “ Tất cả những gì con đang cần thiết thì con đang có ở trong con, nó đang mong chờ được biết đến. Được triển khai và được phóng ra. Một hạt dẻ  chứa đựng trong nó một cây sồi vĩ đại. Con đang có ở trong con một tiềm năng to lớn , cũng như hạt dẻ phải được trồng xuống đất và được chăm sóc, để nó lớn lên và trở thành cây sồi kỳ vĩ kia. Cái đang ở trong con phải được biết đến đã rồi mới có thể trồi lên và được sử dụng tòan vẹn. Nếu không nó sẽ cứ ngủ yên trong con. Điều mà thường xảy ra cho nhiều tâm hồn là cái tiềm năng to lớn đó không bao giờ được phát triển trong cuộc sống đời này, mà nó cứ bị di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, cái quá trình này thật  vô dụng” ( Aileen Caddy Sđd ngày 11 tháng mười một )

 Một khi đã nhận ra sự sống đời đời ở nơi mình và sống kết hợp với nó thì tuổi tác không còn nghĩa lý gì nữa và quả thật đúng là như thế, ta đã tồn tại và sẽ còn tồn tại mãi tới muôn đời “ Con vẫn tươi trẻ như thời gian và cùng già nua như cái vĩnh hằng” ( Aileen Caddy Ngày 31 tháng giêng ). Nhận ra sự sống đời đời nơi mình tức cũng nhận ra mình vốn là tòan hảo” Con hãy biết rằng và không một chút nghi ngờ là con rất tòan hảo như Cha là tòan hảo, và không có một chút tỳ ố nào ở nơi con. Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ nhận ra cái tốt nhất trong con và khi làm như thế con hãy làm xuất hiện cái tốt nhất của con ra. Nó đang ở đó, nơi sâu thẳm nhất trong con nhưng nó đã trở nên rất ẩn kín và khó mà nhận ra nó” ( Aileen Caddy ngày 12 tháng ba )
 
Nhận ra sự sống đời đời ở nơi mình tức cũng là nhận ra mình vốn tự do “ Mọi con người đều có tự do, chỉ cần một điều là họ phải muốn nhận ra nó và giữ lấy nó. Tự do đó đã được trao phó cho con, nhưng con phải tiếp nhận nó trước khi có thể sử dụng, tại sao lại không chấp nhận tự do của mình ngay từ bây giờ và ý thức rằng mình không phụ thuộc vào người nào hay cái gì cả, mình có thể làm bất cứ điều gì mình muốn ? ( Aileen Caddy Sđd ngày 27 tháng hai ). Lại nữa nhận ra sự sống đời đời cũng tức là nhận ra sự bình an vẫn luôn sẵn đủ ở nơi mình” Sự bình an bắt đầu từ ở bên trong, nó ở tận sâu thẳm trong mỗi tâm hồn, như một hạt giống nhỏ xíu đang chờ nảy mầm, mọc lên và sinh hoa trái. Phải cho nó những điều kiện tốt, môi trường thích hợp và chăm sóc kỹ lưỡng trước khi nó có thể mọc mầm. Con hãy bình tĩnh và tạo những điều kiện tốt, những cơ may để bắt rễ. Một khi thành hình nó sẽ tiếp tục mọc lên, nhưng trong những bước đầu non nớt của nó, nó cần được giúp đỡ và nâng niu. Như vậy là con đang giữ trong con cái chìa khóa của hòa bình thế giới , con đừng mất thì giờ mà nhìn xem cái hỗn độn và rối ren hiện giờ của thế giới nhưng hãy bắt đầu vực dậy mọi thứ.” ( Aileen Caddy Sđd ngày 18 tháng tư ).

 Đã hơn nửa thế kỷ từ khi “ Tiếng Thì Thầm” đến với Aileen Caddy, tình hình thế giới xem ra còn hỗn độn và rối ren gấp bội. Tuy nhiên điều đáng lo không chỉ dừng lại ở cấp độ rộng khắp và dữ dội của nó mà nét đặc trưng đó được nhiều nhà sử học và xã hội học báo động ấy là sự bơ vơ không biết nương tựa bám víu vào đâu của con người “Đặc điểm của thời đại ta là âu lo về lẽ tồn sinh, một sự âu lo không rõ nét nhưng đều khắp khiến cho các cá nhân phải đi tìm cho mình một nơi trú ẩn, một sự chở che” ( Jean Delumeau Tb CG & DT  số 1092 – 1093 ). Khi mà đức tin tôn giáo không còn thì những nơi trú ẩn , những sự chở che mà con người tìm đến lại là “ thuật bói bài, những điều thần bí, những ông thầy lang, những đạo sĩ, những phù thủy…Căn bệnh âu lo của con người thời đại cần phải được chữa trị, nếu không sự diệt vong là điều không thể tránh. Thế nhưng trước hết cần phải thấy được nguyên nhân của nó . Nguyên nhân căn bệnh này là do con người khơng còn biết tựa nương vào đâu . Gia đình từ ngàn xưa vẫn là mái ấm , là nơi chở che thì nay trong xã hội thành thị công nghiệp đã bị lung lay tan rã. Cộng đồng tôn giáo trước đây vẫn là chỗ dựa tinh thần chắc chắn thì nay trong trào lưu tục hóa, chính các giáo hội cũng chẳng còn lý do để mà tồn tại. Các chế độ pháp quyền, những lý tưởng cách mạng trước đây hấp dẫn con người xây dựng, đấu tranh cho một thế giới đại đồng thì nay thực tế cho thấy các chế độ pháp quyền thực chất chỉ là nơi để người ta dễ dàng ăn nuốt nhau một cách hợp pháp, còn lý tưởng cách mạng rút cục chỉ là ảo vọng. Sự tan rã của gia đình, của cộng đồng tôn giáo của các chế độ và lý tưởng cách mạng là điều đương nhiên khi mà những điều kiện hình thành nên chúng đã không còn nữa. Còn xã hội nông nghiệp thì gia đình còn, còn đức tin thì tôn giáo còn, còn ảo tưởng thì còn lý tưởng cách mạng. Tựu chung của tất cả những tan rã ấy là do đã có sự lầm lẫn trong việc nuơng tựa. Lẽ ra con người phải biết tựa nuơng vào chính mình  chứ không phải  những cái ở bên ngòai mình như gia đình, cộng đồng , chế độ…

 Nói như vậy không có ý bảo rằng phải hủy bỏ gia đình, giáo hội hay chế độ xã hội mà trước hết đó chỉ là những phuơng thế , mặc dầu tối ư cần thiết cho sự tồn vong của con người nhưng đó không phải cứu cánh. Vả lại chính khi đã biết đặt gia đình, giáo hội, chế độ vào đúng vai trò phương tiện của nó chứ không phải cứu cánh thì nhân lọai sẽ tránh được tất cả những tỵ hiềm, kỳ thị chủng tộc, cuồng tín tôn giáo và chiến tranh xâm lược…Mặt khác có như thế mới hiểu được lời Đức Kitô “ Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ta sẽ thêm cho” Lc 12, 31 ) Một khi đã hết lòng tìm kiếm thì tất ta sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp tức Sự Sống Đời Đời mà cả gia đình, cộng đòan đất nước quốc gia sẽ được an vui hạnh phúc. Sở dĩ nhân lọai ngày nay lâm phải tình cảnh âu lo thường trực ấy là bởi đã không biết nương tựa vào mình mà lý do không biết nương vào mình là vì đã không tin, không sống Tin Mừng của Đức Kitô. Trước thảm cảnh gây nên đổ vỡ từ trong tôn giáo đến ngòai xã hội , từ chốn gia đình đến cấp quốc gia Đức Kitô thông qua Những “ Tiếng Thì Thầm” lại tái rao giảng Tin Mừng Nuớc Trời hầu có thể một lần nữa cứu vớt nhân lọai. Và bởi vì cả tâm thức lẫn hòan cảnh sống của con người ngày nay đã khác xa với cách nay hai ngàn năm thế nên để thích hợp, tất nhiên cần phải có một Tin Mừng mới.

VI. Tin Mừng mới

Dù được gọi là Tin Mừng mới, thế nhưng cũng vẫn là một với Tin Mừng mà Đức Kitô đã rao giảng cách nay hai ngàn năm. Tính chất mới mẻ này, chỉ mới ở phần hình thức diễn tả chứ phần nội dung thì hòan tòan không thay đổi. Đức Kitô trước sau chỉ rao giảng có một Tin Mừng duy nhất đó là Tin Mừng Nước Trời. Ngòai Tin Mừng này ra Đức Kitô không hề rao giảng bất cứ một Tin Mừng nào khác “ Không có Tin Mừng nào khác đâu, chẳng qua là có mấy kẻ quấy rối anh em, muốn canh cải Tin Mừng của Đức Kitô đó thôi. Nhưng dẫu chúng tôi hoặc thiên sứ trên trời có giảng cho anh em một Tin Mừng nào khác với Tin Mừng mà chúng tôi đã rao giảng cho anh em thì người ấy đáng bị nguyền rủa” Gal 1, 7 – 8 ) Tin Mừng mà Đức Kitô rao giảng đó là Tin Mừng về Nước Trời. Thế nhưng từ bao thế kỷ qua xét trên phương diện giáo lý cũng như thần học Tin Mừng này đã không hề được chính thức  nhìn nhận. Tuy nhiên như thế không có nghĩa Tin Mừng đã bị gạt sang một bên để đi theo một thứ Tin Mừng khác, bởi vì xét trên  phương diện sống đạo thực hành , Đức Kitô vẫn được phụng thờ và Tin Mừng của Ngài, mặc dầu giáo lý không hề được triển khai, nhưng vẫn mang lại những kết quả vô cùng lớn. Tại sao giáo lý không triển khai mà Tin Mừng của Đức Kitô vẫn được thực hành ? Đó là bởi Tin Mừng ấy đã đi qua con đường của Đạo Cứu rỗi, tức là đạo lo phần rỗi ở đời sau trên Nước Thiên Đàng. Với cứu cánh là Nuớc Thiên Đàng như thế Đạo Cứu Rỗi xem ra có vẻ như chẳng quan hệ gì đến Tin Mừng của Đức Kitô bởi lẽ với Nước Thiên Đàng, người ta chỉ có thể đạt được khi bước vào đời sau tức là phải qua cái chết. Đang khi đó Tin Mừng rao giảng Nước Trời nội tại mà nước này lại đòi hỏi cần phải đạt đến ngay ở đời này. Hễ đã nội tại tức đã sẵn có, mà đã sẵn có thì phải đạt đến ngay ở đời này, còn phải chờ đến đời sau thì không thể nói nội tại. Mặt khác để có thể bước vào đời sau trên Nước Thiên Đàng thì cần phải khinh chê xác thịt, từ bỏ cõi đời.  Không khinh chê từ bỏ thì không có cách chi bước vào đời sau được. Tuy nhiên việc khinh chê thân xác, từ bỏ thế gian đã bị người ta công kích mạt sát dữ dội. Nietzche nói “ Trong những ngõ hẻm tối tăm, bọn nhu nhược và bệnh tật dạy người đời rằng khôn ngoan làm chi cho mệt xác. Thôi cứ sống yên lành là hơn cả, cứ sống nhỏ nhoi đừng nuôi những hòai bão lớn lao làm chi. Trời ơi tâm trí chúng như một chiếc bao tử ốm yếu, nên chúng chỉ biết khuyên người ta chờ chết” T.T. Đỉnh Triết Học Hirện Sinh ).
 
Phải chăng cũng vì những lời thóa mạ ấy mà thần học hiện nay đang làm cái việc duỵêt lại vấn đề khinh chê thế gian để đi vào tục hóa ? Một khi đã bước vào con đường tục hóa thì trước tiên Nước Thiên Đàng phải biến, bởi chẳng có đời sau thì Thiên Đàng tồn tại sao được ? Tục hóa sẽ đương nhiên giết chết tôn giáo. Tại sao thế ? Bởi chưng mục đích của tôn giáo không phải là để thỏa hiệp với thế gian mà là để giải thóat khỏi sự trói buộc của nó. Thỏa hiệp hòan tòan khác với giải thóat, thỏa hiệp tức là lấy cõi thế gian này làm cứu cánh, còn giải thóat có nghĩa cho thế gian là trở ngại. Sự trói buộc naỳ con người đã vướng phải từ muôn kiếp, bởi thế tự mình chặt đứt cái mối gút đó là điều không thể. Đức Kitô xuống thế rao giảng Tin Mừng là để nói lên sự thật rằng tất cả mọi người đều là Con Thiên Chúa, khi nào ta tin và nhận ra sự thật đó là lập tức được giải thóat “ Sự thật sẽ giải thóat các ngươi” Ga 8, 32 ). Hiểu như thế thì giải thóat khỏi thế gian không có nghĩa là phải đợi đến sau khi chết, hoặc ra khỏi thế giới này. Nếu vẫn còn ở trong thế gian, trong xác thân này mà vẫn tin vẫn nhận mình là Con Thiên Chúa thì đâu cần gì mà phải khinh chê hay từ bỏ “ Con đang ở trong thế gian, nhưng  con không thuộc về thế gian , không cần phải để cho thế tục dìm con xuống. Con cứ thưởng thức nó nhưng đừng có chiếm đọat nó và cũng đừng để nó chiếm đọat con. Trong thời mới này, không cần phải mặc rách rưới và rắc tro trên đầu, hoặc đi khắp nơi tuyên xưng mình là kẻ tội lỗi khốn nạn và không xứng đáng được gọi là Con Cha yêu quý. Lời dạy này thuộc về thời xưa rồi, nó sai và và không còn phải vậy nữa. Con hãy chấp nhận việc chúng ta là một  và Cha ở trong con. Con hãy tự cảm thấy mình thóat ra khỏi những tối tăm của lời dạy sai lầm đó mà vươn tới ánh sáng vinh quang. Hãy để cho cái cũ lùi lại phía sau và hãy để cho nó chết đi một cách tự nhiên. Con hãy đi vào cái mới, hãy tái sinh trong thần khí và sự thật và hãy khám phá ra ý nghĩa của sự tự do đích thực” ( Aileen Caddy Sđd ngày 11 tháng tư )

 Tin nhận mình là Con Thiên Chúa, điều này phải chăng cũng rất bình thường ? bất cứ ai ai trong chúng ta một khi đã qua phép Rửa Tội cũng có thể nói mình là con cái Chúa và ngay cả giáo lý cũng dạy bảo như vậy. Thế nhưng trong thực tế cuộc đời cũng như trong kinh nguyện lại không thấy ai hoặc ở đâu dám nói lên chân lý ấy. Đâu đâu cũng rặt chỉ thấy những là chúng ta là xác đất vật hèn, là kẻ tội lỗi đáng xót thương, là van vỉ ăn năn kêu xin, giáo dân đa phần đều mang cái tự ty mặc cảm  cho rằng chỉ có cha, thầy là biết, biết hết mọi sự vì đã học lý đóan, thần học còn mình thì không đời nào dám so sánh với …các đấng, các bậc v.v… Điều này khiến cho đời sống tôn giáo xưa kia mang nặng tính chất mặc cảm mà Freud đã gọi không sai là mặc cảm muốn được chở che. Còn ngày nay thời tục hóa thì hoặc là chẳng ai còn đọc kinh cầu nguyện gì nữa hoặc nếu có đọc thì cũng như những cái máy vô hồn. Bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy chân lý Con Thiên Chúa đã không được nhìn nhận và rao giảng đó là khoa thần học. Khoa này trước đây khi còn là Kinh Viện thì đối tượng nghiên cứu của nó là Thiên Chúa, còn ngày nay là Đức Kitô. Tuyệt nhiên không thấy ở đâu có đá động gì tới chân lý mà Chúa Giêsu Kytô muốn mạc khải . Chẳng những chỉ có Đức Kitô trong Tân Ước mới nói lên chân lý đó mà KT Cựu Ước cũng đã nói rất rõ thế này “ Ta ( Thiên Chúa Giêhova ) đã nói = các ngươi là Thần, hết thảy đều là con trai của Đấng Chí Cao” Tv 82, 6 )

 Đức Kitô đang khi rao giảng bị người Do Thái ném đá vì cho rằng “ ngươi vốn là người mà lại dám tự tôn là Đức Chúa Trời thì Ngài bèn trích dẫn KT để đáp trả thế này “ Trong sách luật của các ngươi há chẳng chép rằng Ta đã nói các ngươi là Thần hay sao. Nếu Thiên Chúa gọi những kẻ đơuợc nghe Đạo ĐCT phán là Thần , mà KT thì không bác bỏ được thì Ta đây là Đấng Cha đã biệt ra Thánh và sai xuống thế gian nói rằng Ta là Con Thiên Chúa, cớ sao các ngươi lại cáo Ta là nói phạm thượng” Ga 10, 33 – 36 ). Đối với Chúa Giêsu như lời Ngài nói đã được biệt ra Thánh mà người Do Thái còn ném đá và sau đó giết chết vì cho rằng đã  lộng ngôn phuơng chi là chính họ và chúng ta bây giờ có dám nhận mình là Con Thiên Chúa hay không ? Chắc chắn là không bởi lẽ trong thời đại hắc ám này ngay cả với Đấng Thiên Chúa mà còn bị khai tử huống chi là Con Thiên Chúa ? Thế nhưng sự thật muôn đời  vẫn là sự thật. Điều Đức Kitô xưa kia rao giảng Tin Mừng là để cho con người có thể hiệp nhất với Đấng đã có sẵn nơi mình thế nào thì nay trong

“ Tiếng Thì Thầm” Ngài vẫn chỉ nhắc lại chân lý ấy đồng thời còn ân cần khuyên nhủ hãy can đảm vuợt thóat ra khỏi nỗi tự ty trong thân phận người hèn yếu “ Con hãy tiến lên mà không sợ gì cả và hãy làm cột trụ trên những những con đường, những tư tưởng và những quan điểm bề ngòai có vẻ mới lạ. Con hãy ước muốn phá đổ những rào cản cũ kỹ và khám phá ra ánh sáng của sự thật. Cha nói là = bề ngòai có vẻ mới lạ” bởi vì chẳng có vẻ gì là mới lạ cả. Phải chạy cho đủ vòng = tìm lại sự hiệp nhất giữa Con và Cha, học lại một lần nữa bước đi và nói chuyện với Cha như lúc ban đầu. Phải tái sinh trong thần khí và sự thật. Con hãy cảm thấy mình đang lớn lên và đang lan tỏa ra. Con hãy cảm thấy cái cũ kỹ đang vuột khỏi con và con hãy mặc lấy  cái mới trong vui mừng và cảm tạ. Cái mới đó mới thật tuyệt diệu làm sao. Những đường lối của Cha và sự hiện diện của Cha và con hãy vui mừng vì Nước của Cha đang ở trong con” ( Aileen Caddy Sđd ngày 27 tháng sáu )

 Giáo hội đã nhiều lần hô hào cần phải tái rao giảng Tin Mừng thì đây Đức Kitô thông qua những “ Tiếng Thì Thầm” đã chủ động thực hiện bằng cách đưa ra một Tin Mừng mới. Tin Mừng này như đã nói, mới mà không mới bởi chưng trước sau vẫn là mạc khải về Đấng Cha nội tại. Cái mới của Tin Mừng như vậy không phải ở nội dung mà ở đường lối thực hiện Trước đây đường lối ấy chỉ là một thứ lý thuyết xuông mang tính  giải nghĩa này nọ còn bây giờ là của từng mỗi cá nhân . Tính chất cá nhân trong việc thực hiện mạc khải của Đức Kitô là một đòi hỏi tất yếu mà thần học không thể có bất cứ một can dự nào, bởi lẽ đơn giản vì đây là công việc của nội tâm, không ai có thể làm thay cho ai được. Mặc dầu Tin Mừng mới là việc chỉ dành cho từng mỗi cá nhân nhưng đây là khởi đầu của cuộc cách mạng tâm linh nhằm khai sinh một thời đại mới “ Những cánh cửa to lớn đều quay trên những cái bản lề bé nhỏ. Những biến cố lạ lùng đều phát xuất từ những cái bắt đầu nhỏ bé. Con có biết không vụ xảy ra ở Findhorn nó bắt đầu rất là đơn giản rồi sau đó, nó phát triển thành một phong trào tòan thế giới, tòan cầu, một nhận thức rồi cũng mau biến thành một cuộc cách mạng. Những đường lối của Cha thì rất lạ và tuyệt diệu chứ không giống đường lối của các con đâu. Hãy đi trên đường của Cha với niềm tin và cậy trông tuyệt đối rồi con sẽ thấy những kỳ công và vinh quang của Cha tràn lan khắp nơi. Mùa xuân của Thời mới đã đến, nó bừng nở trong một sự hài hòa, mỹ miều và phong phú tuyệt diệu, mà không có gì ngăn nổi nó. Mọi sự đều có lúc có mùa của nó và bây giờ là mùa là lúc cho việc khai sinh của Thời Mới” ( Aileen caddy Sđd ngày 1 tháng năm )

VII. Thời đại mới
 
 Nhân lọai đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba, một thiên niên được nhiều lời tiên tri cho biết sẽ là thời đại của tâm linh, chẳng biết lời tiên tri ấy mang tính xác thực được bao nhiêu, thế nhưng có một điều không ai có thể phủ nhận , đó là nhân lọai nói chung và các tôn giáo nói riêng đang trải qua một cơn khủng hỏang hết sức trầm trọng mà khía cạnh nguy hiểm nhất đó là hiện tượng tục hóa ( Laicité ) Tục hóa có nghĩa là lấy thế tục làm cứu cánh, khi ấy tôn giáo bị đẩy ra bên ngòai như một chuyện riêng tư, đôi khi bị coi là có hại cho việc xây dựng xã hội trần thế. Ở đây ta thấy giữa lời tiên tri về thời đại tâm linh và hiện tượng tục hóa hiện nay phải chăng có gì đó mâu thuẫn ? Làm sao lại có thể bước sang thời đại tâm linh bằng cách  lọai trừ tôn giáo ? Hay phải chăng đã đến lúc tôn giáo phải chấm dứt để cho thời đại tâm linh xuất hiện ?
 
Vấn đề sẽ sáng tỏ khi ta xác định được tâm linh là gì. Nói rằng thời đại này là thời tâm linh, điều ấy không có nghĩa chỉ nay mới có tâm linh còn trước đó thì không; chẳng phải thế thực ra nếu hiểu tâm linh là lãnh vực của đời sống linh hồn thì trước đây trong Đạo Cứu Rỗi tất cả mọi tín hữu khi biết chăm lo cho đời sống phần rỗi của mình thì đều sống đời tâm linh cả. Nhưng nay thì khác, có hai trường hợp xảy ra= một là nếu không tin có linh hồn và đời sau gì hết thì vấn đề tâm linh chẳng cần đặt ra làm gì và hai là là vẫn tin có linh hồn nhưng quan niệm cứu rỗi đã đổi khác. Trước đây sống đời tâm linh là để lo cho phần rỗi đời sau trên Nước Thiên Đàng . Còn nay thì cũng vừa phải lo cho đời sau mà cũng vừa phải lo cho đời này, thậm chí phải lo cho đời này tốt hơn mới có thể b ước vào đời sau. Trong trường hợp thứ hai thì đó là quan niệm coi tục hóa như là một dấu chỉ của thời đại ( Xem T.Cẩm Ns CG&DT số 13/66 ) Có nghĩa là một hình thức tôn giáo tương tự như vô thần sẽ xuất hiện, còn tôn giáo quy phạm tức Đạo Cứu rỗi ( Công giáo truyền thống ) sẽ chấm dứt “Ông Jean Francois Mayer nhà sử học người Thụy Sĩ chuyên nghiên cứu về các giáo phái trước hiện tượng này đã tự hỏi = trong thời gian bao lâu nữa chúng ta còn có thể nói về lòng đạo đi song song với tôn giáo quy phạm ? Sự tồn tại của một quy phạm của các giáo hội cơ chế càng ngày càng trở nên mờ nhạt. Liệu trong tương lai còn tồn tại những cơ chế có khả năng cung cấp một quy luật cho tòan thể xã hội chứ không chỉ cho một nhóm nhỏ ? hãy nghĩ rằng mặc dầu có những dấu chỉ tôn giáo bao bọc chúng ta trong bầu khí văn hóa, người ta vẫn có thể sống trong một thế giới mà trong đó các truyền thống tôn giáo chủ đạo của Tây phương không đóng một vai trò nào cả” ( Ns Cg & Dt số 29/97 )

 Đúng là người ta có thể sống trong một thế giới mà trong đó các truyền thống tôn giáo chủ đạo của Tây phương (ám chỉ Kitô giáo ) không đóng một vai trò chủ đạo, thế nhưng thực sự thì  người ta có thể sống không cần tôn giáo hiểu như  là một sinh họat tâm linh hay không ? Chính cuộc sống thiếu phần tâm linh đã đẩy nhân lọai vào cơn khủng hỏang như hiện nay đang thấy chứ không phải nguyên nhân nào khác. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây không thể phủ nhận tôn giáo quy phạm, coi nó như một thứ chỉ đáng…vứt đi mà cần phải tìm ở đó các yếu tố tâm linh đích thực. Yếu tố tâm linh cách nay hai ngàn năm Đức Kitô đã truyền đạt cho người đàn bà xứ Samari bên bờ giếng Giacop thế này “ Hãy tin Ta, giờ đến các ngươi thờ lạy Cha chẳng tại trên núi này, cũng chẳng tại Giêrusalem. Các ngươi thờ lạy điều các ngươi không biết, còn chúng ta thờ lạy điều chúng ta biết. Vì sự cứu rỗi đến từ Itsraen. Nhưng giờ sắp đến mà nay đã đến rồi khi kẻ thờ lạy Cha, hãy lấy tâm linh và lẽ thật mà thờ lạy. Cha vẫn hằng tìm kiếm người như vậy để thờ lạy Ngài, Đức Chúa Trời là Thần khí, nên những ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm linh và lẽ thật mà thờ lạy Ngài” ( Ga 4, 21 – 24 )

 Đức Kitô nói “Đức Chúa Trời là Thần khí” và Thấn khí đó có thể tồn tại ở đâu để con người thờ lạy nếu chẳng phải ở trong chính tâm hồn của mỗi người ? Bởi ĐCT ở trong Tâm thế nên phải xoay cái Tâm trở ngược vào bên trong mà thờ lạy. Trước đây trong Đạo Cứu Rỗi dẫu thần học không có nói chi đến niềm tin vào Đấng TC nội tại thế nhưng trong thực hành mọi tín hữu vẫn tin có linh hồn, tin có sự thưởng phạt đời sau. Đấy là đạo vừa dễ làm lại vừa đạt hiệu quả tối đa. Thế nhưng nay niềm tin đơn sơ đó đã không còn và để thay thế người ta đòi hỏi đủ thứ lý luận, đủ thứ khảo sát phân tích nghiên cứu giải thích chán chê rồi lại quay sang bảo không được giải thích mà phải…cải tạo, biến đổi bộ mặt thế giới v.v…Tôn giáo thay vì là con đường thực hiện tâm linh tính thì lại trở thành một thứ nhân bản chủ nghĩa không tưởng, rút cục nhân bản chẳng thấy đâu mà chỉ thấy tòan là gấu ó , chia rẽ, đổ lỗi cho nhau không ngớt. Tình trạng này sẽ còn kéo dài mãi và rất có thể sẽ chỉ chấm dứt ở dưới đáy hố diệt vong nếu con người không chịu tìm đường trở về với bản tâm, nguồn an vui phước hạnh đã sẵn đủ ở nơi mình “ Có quá nhiều tâm hồn phí phạm thời giờ và nghị lực để tố cáo mọi người về việc bất ổn định của thế giới này. Thay vì họ nhận thức rằng họ có thể làm một cái gì đó cho nó khi họ biết bắt đầu ngay từ chính mình. Con hãy trước hết bắt đầu dọn dẹp nhà cửa của con. Khi người ta ném một hòn đá xuống cái hồ nuớc, những gợn nhăn lan rộng ra, nhưng chúng đi từ hòn đá đó. Con hãy bắt đầu từ chính mình, rồi con mới có thể chiếu rãi ra sự bình an yêu thương hài hòa và thông cảm đến với mọi tâm hồn chung quanh con. Ngay từ bây giờ con hãy hành động đi, con khao khát thấy một thế giới tốt đẹp hơn, vậy con hãy làm một cái gì theo hướng đó, không phải chỉ tay năm ngón cho người khác nhưng là hãy nhìn vào con, moi tìm ở trong tim con. Vực những gì không được ngay ngắn và tìm ra lời giải đáp ở trong con. Như vậy con mới có thể tiến lên một cách uy phong và trở nên ,một cánh tay đắc lực cho những người xung quanh và cho những ai đến với con. Sự đổi thay phải và chỉ bắt đầu từ cá nhân rồi mới lan rộng ra cộng đòan, thành phố, đất nước và thế giới” ( Aileen Caddy Sđd ngày 13 tháng bảy )
 
Tất cả mọi sự, cho đến thay đổi cả một thời đại, đều bắt đầu từ ở nơi mỗi một cá nhân. Điều này xem ra có vẻ quá ư hoang đường thế nhưng sự thật lại đúng như thế. Đông phương có đề ra nguyên tắc “ Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” Cần phải hiểu “ Bình” ở đây không phài là mang quân đội đi bình trị các quốc gia bộ tộc khác mà là đem lại bình an cho hết thảy mọi người không phân biệt màu da chủng tộc…hoặc cao hơn một bậc nữa đó là đem lại an bình cho tòan thể chúng sinh vạn vật. Và để có thể đem lại bình an cho hết thảy thì Tâm mình phải được bình an trước đã. Một khi tâm đã được bình an thì đi đến gặp gỡ trao đổi với bất cứ ai cũng là trao đổi sự bình an, điều này chẳng khác nào ta chỉ cần mang vào đôi chân hai mảnh da (đôi giày ) thì đi đến bất cứ nơi nào cũng là đi trên da thay vì phải trải những tấm da  thuộc khắp nơi khắp chốn. Trải những tấm da thuộc khắp nơi khắp chốn đó là việc bình thiên hạ, điều ấy không thể làm. Còn mang giày vào chân tức tu thân , là sống cuộc sống tâm linh thì ai cũng có thể làm dù là ngu dốt hay già lão bệnh họan v.v…Thế nhưng một việc phải nói là rất lớn, vô cùng lớn , đem lại bình an cho chính mình và mọi người nhưng lại chẳng mấy ai chịu làm. Tại sao như vậy ? Bởi vì trước hết để có thể thực sự sống cuộc sống tâm linh trong thời đại mới này đòi hỏi phải có sự dũng cảm. “ Thời đại mới này đòi hỏi sức mạnh , dũng cảm và nhiệt tình cũng như một đức tin và niềm cậy trông vững chắc như đá tảng. Đây là cuộc phiêu lưu diệu kỳ và như vậy phải có tinh thần phiêu lưu để xông tới và xâm nhập vào nó” ( Aileen Caddy Sđd ngày 6 tháng mươi một )

 Sao có thể nói con đường tâm linh đi vào thời mới này là cuộc phiêu lưu ? Bởi vì con đường này không hề có sẵn mà phải tự mình khai phóng. Tất cả những gì có trước đó mang tính chính thống dẫu cho được cả thế giới công nhận, cũng cần phải biết duyệt xét lại. Ngay cả những gì được gọi là đức tin thế nhưng nó mang nặng tính chất công thức giáo điều cũng đều trở thành vô giá trị. Tóm lại đây phải là một cuộc mạo hiểm cá nhân mà không một kinh nghiệm nào dù là của bất cứ một nhân vật nào có thể giúp ích. Tuy nhiên như vậy phải chăng muốn tiến hành cuộc phiêu lưu tâm linh này cần phải gạt bỏ tất cả mọi hình thức tôn giáo quy phạm mà mình và cha ông trước đó vẫn theo ? Không, chẳng phải vậy mà ý nghĩa cuộc phiêu lưu này là ở nội tâm chứ không phải hình thức bên ngòai. Về hình thức thì hầu như vẫn giữ nguyên, chỉ có nội dung là đổi mới, sự đổi mới này  thật triệt để , có nghĩa rất khác với truyền thống , cả những điều phải tin và phải làm. Với phần nội dung đổi mới triệt để như thế có thể có nguy cơ đưa đến rối hay lạc đạo không ? Điều này có quan hệ với phần hình thức sống đạo bề ngòai. Nếu phần hình thức vẫn giữ nguyên , có nghĩa vẫn sống một cuộc sống của người tín hữu bình thường , kinh hạt lễ lạy nghiêm chỉnh thì bảo đảm không lạc, không rối bởi chưng ngòai nỗ lực bản thân còn có được những ơn đòan sủng cần thiết. Vả lại chứng cớ cho thấy cuộc mạo hiểm đã đi đúng hướng đó là sự an thỏa tâm linh , ý thức những gì mình đang theo đuổi là vâng theo Thánh Ý Chúa. “ Con có cảm thấy con là thành phần của cái gì mới mẻ không ? Con có cảm thấy con đang hòa tan trong cái tổng thể một cách hài hòa tuyệt hảo hay con  cảm thấy vướng víu khó chịu ? nếu như vậy thì con  hãy nên ra khỏi đó và tìm một lối  đi khác. Chỉ có những linh hồn  biết hài hòa với cái mới , biế`t để lại đằng sau tất cả những cái cũ và không thương tiếc và có tinh thần mạo hiểm mới sẵn sàng tiếp xúc với  cái mới và có khả năng dấn bước vào một cách tự do. Nếu con còn muốn níu bám vào những lề thói cũ và những tư tưởng cục bộ, sợ phải đập vỡ những cái khuôn đúc , vậy là con chưa sẵn sàng cho cái mới đâu. Điều này đòi hỏi dũng cảm, sức mạnh, quyết tâm và nhận thức sâu  xa trong nội tâm là những gì con đang làm là đúng” ( Ailee Caddy Sđd ngày 17 tháng mười một ).
 
Thời đại mới rồi sẽ đến, rất nhiều dấu chứng cho thấy điều đó thế nhưng cũng như bất cứ một cuộc cách mạng xã hội hoặc tâm linh nào khác, bao giờ cũng phải khởi phát nơi một cá nhân và sự khởi phát mang tính cá nhân ấy chẳng phải là cai chi khác mà là khởi phát của một quan niệm.Thọat kỳ thủy quan niệm cũng giống như một hạt giống cần phải có thời gian cho nó và thời gian ở đây không phải chỉ tính từ khi bắt đầu được gieo xuống mà là từ rất lâu xa trong quá khứ. Rồi đến khi hạt đâm chồi nẩy mộng lớn lên thành cây, nó cũng cần phải được tiếp tục vun trồng cho đến chịu cả vùi giập của nắng mưa mới có thể chứng tỏ sức sống. Một quan niệm mới cũng giống như một hạt giống được trồng trong hơi ấm của mái nhà. Hạt giống này chưa thể  đưa ra ngay khỏi bầu khí ấm áp đó khi nó chưa hội đủ sức mạnh để có thể trồng ở nơi nó phải đương đầu với những yếu tố bên ngòai. Một quan niệm mới cũng vậy, nó không thể được bốc ra như một con thỏ từ một cái mũ của nhà ảo thuật. Để nó có được bản chất và hình hài thì phải cho nó có thời gian. Nó phải được thử sức nhiều lần trước khi đem ra cho mọi người . Điều đó đòi hỏi một Tình Yêu lớn lao và một sự kiên nhẫn tột bực. Điều đó đòi hỏi sự cống hiến và sự tận tụy. Quá trình này đang được thực hiện trong lúc này cho thời kỳ mới. Đây là một cái gì hòan tòan mới, có nhiều ý tưởng mới và nhiều quan niệm mới đang được nảy sinh và mỗi cái phải được thử nghiệm, thông hiểu, yêu mến và trân trọng. Nếu con là trụ cột của Thời Mới con phải sẵn sàng tiến bước, không chút sợ hãi và sẵn sàng thử thách cái mới nhất của cái mới” ( Ailee Caddy Sđd ngày 27 tháng mười ).
 
Phải sẵn sàng tiến buớc và sự tiến bước này chắc hẳn phải là tiến buớc trên đường tâm linh, thế nhưng tại sao tiến bước mà lại có thể gây nên sợ hãi ? Bởi vì sự tiến bước này, đòi hỏi cần phải được thực hiện cuộc vượt qua chính mình hay nói cách khác phải vượt thóat mọi kiến chấp.

 VIII. Thóat  khỏi kiến chấp
 
Kiến chấp tức là thấy sai lạc và cái chấp sai lạc nhất gồm có hai, đó là chấp xác thân này là mình và chấp tâm tức những nghĩ suy lo lường là mình. Từ nơi hai cái chấp căn bản này mà con người vướng vào đủ mọi thứ chấp chước sâu nặng khác nhau. Chấp xác thân là mình ắt không thể thóat khỏi sự trói buộc của tham ái, nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau. Chấp tâm phân biệt này là mình ắt không sao tránh khỏi sân si, đầu mối của mọi giống tội. Đức Kitô ra đời rao giảng Tin Mừng nước Trời chính là để cho con ngừời thóat khỏi mọi ràng buộc của những cái thấy sai lạc bằng cách nêu cao chân lý Con Thiên Chúa ( Xem lại phần VI ). Chân lý này đã được Thánh Gioan xác nhận “ Hãy xem Cha đã ban cho chúng ta sự thương yêu bực nào để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa mà chúng ta cũng quả thật là như vậy” 1Ga 3, 1 ) Khi nhắc lại “ Cũng quả thật như vậy” Thánh Gioan muốn ám chỉ địa vị đích thực là Con Thiên Chúa để phân biệt với câu “được gọi là con cái Thiên Chúa” liền trước đó. Giữa hai câu đó  có sự khác biệt thế này, một đàng đúng thật là Con Thiên Chúa, con từ trong mbản chất đích thực của nó. Một đàng chỉ được coi là con trên danh nghĩa. Từ bao lâu nay chúng ta đã được trình bày, học hỏi về chân lý Con Thiên Chúa thế nào ? Thông thường ta vẫn cho rằng chỉ những ai đã được chịu phép rửa tội mới được nhận là con cái Thiên Chúa. Điều này mặc nhiên không chấp nhận những người ngòai đạo cũng là con cái Thiên Chúa như mình. mặt khác, mặc dù những người chịu Phép Rửa được gọi là Con cái TC thế nhưng đây chỉ là một thứ con có danh mà không có thực, không thể sánh ngang hàng địa vị Con Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Quan niệm trên đây phải nói đó là một sai lầm, bởi đã tạo ra hố cách biệt thẳm sâu không những với Thiên Chúa là Cha mà còn cả với Chuá Giêsu vì Ngài là trưởng tử, là hoa quả đầu mùa (1C 15, 23 ) Nếu Đức Giêsu Kytô là trưởng tử thì tất cả mọi người có hay không có tôn giáo đều phải là anh em với Ngài. vả lại chính Ngài cũng xác nhận điều này khi nói với Madalena khi nàng ra viếng mộ Chúa Phục Sinh “ Ta lên cùng Cha Ta cũng là Cha các ngươi , cùng Đức Chúa Trời Ta cũng là ĐCT các ngươi” Ga 20, 7 ) Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô cũng là Cha của hết thảy con người , thế nhưng lại chỉ có Ngài mới thấy được tính chất là Cha của Thiên Chúa , còn tất cả phàm nhân chúng ta thì không. Nếu có sự khác biệt nào giữa Đức Kitô và con người thì duy nhất chỉ ở điều này. Ngài thấy biết cề Cha còn chúng ta thì không “ Các ngươi chẳng từng biết Ngài nhưng Ta biết Ngài” Ga 8, 35 ) Bởi Đức Kitô thấy biết về Đấng Cha, thế nên Ngài mới xuống thế để mạc khải cho chúng ta để được biết về Đấng ấy. Nhận biết về Đấng Cha có nghĩa chúng ta là con của Ngài, một người con thực sự và không chút chi khác biệt với Chúa Giêsu. Do nơi sự thấy biết hòan tòan ( triệt ngộ) ấy mà Ngài được Cha xưng tụng là Con rất yêu dấu ( Mt 3, 17 ), còn chúng ta do tin theo mạc khải thế nên được vinh dự lớn lao trở thành anh em với Ngài. Tin theo để tiến tới sự hiệp nhất với Đấng Cha là một cuộc sống tâm linh đòi hỏi rất nhiều nỗ lực  và đòi hỏi trước hết những ai muốn thực sự bước vào Thời Mới là phải thay đổi lối sống “ Con không thể lớn lên về tâm linh nếu không được chuẩn bị để thay đổi. Để bắt đầu, những cuộc thay đổi này có thể đến từng chút một, nhưng con càng tiến sâu  vào cái mới, những biến đổi đó càng trở nên quan trọng và sẽ liên quan đến cả cuộc đời. Đôi khi phải có một cuộc xáo trộn từ trên xuống dưới để dẫn đến một lối sống hòan tòan mới. nhưng thật là ngỡ ngàng khi con có thể làm quen một cách nhanh chóng với sự thay đổi trong lúc con còn can đảm và trin vững chắc rằng đó là để đi tới cái tốt hơn, chớ gì sự trọn lành luôn là mục đích của con. Con hãy tiếp tục vươn lên mãi. Hãy cố gắng đạt tới cái coi chừng như không thể” ( Aileen Caddy Sđd ngày 19 tháng giêng )

 “ Cái coi chừng như không thể” cần phải đạt tới ở đây chắc hẳn ai cũng hiểu, đó là hiệp nhất với Đấng Thiên Chúa là Cha, thế nhưng do đâu mà sự hiệp nhất lại là cái không có thể ? Đó là bởi những giới hạn mà con người đã tự đặt ra cho mình. Một khi đã chấp xác thân này là mình rồi thì mình chỉ là cái khối vật chất nặng chừng vài chục kílô chứa đầy máu mủ tanh hôi sao mà có thể kết hợp được với Thiên Chúa Đấng Tòan năng Tòan Thiện cao cả vô biên ? Một khi đã chấp tâm phân biệt này rồi thì mình chỉ là những ý nghĩ vui buồn hy vọng, thất vọng bất chợt , khởi rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh liên tu bất tận thì làm sao có thể kết hợp được với Thiên Chúa Đấng vô thủy vô chung, Sự Sống vĩnh cửu đời đời ? Do nơi hai cái chấp căn bản này mà đã nảy sinh vô vàn vô số những cái chấp khác, chấp vào sở học, vào gia thế, chủng tộc, tôn giáo v.v.. Thật khó để mà có thể lôi kéo con người ra khỏi những giới hạn chật hẹp đó để đi tới với Đấng là vô giới hạn. Con hãy ra khỏi cái ổ của con đi và hãy mở rộng tâm hồn con rồi hãy thực hiện điều này là không có giới hạn nào cả. Có nhiều người không thể nhìn xa hơn bản thân họ, hay nhóm người của họ, hay cộng đòan nơi họ đang sống. Họ quá bị ràng buộc bởi những điều vụn vặt đến nỗi họ không thể nào lớn lên được chính lúc nó phải cần đến thật nhiều những thay đổi lớn lao và cho thật mau. Con đừng thỏa mãn vỏn vẹn với những gì con đã hiểu được , nhưng hãy sẵn sàng đi xa hơn nữa, dám đi đến những nơi không thể đến được. Chính như vậy mà con thăng tiến. Con hãy chấp nhận để mình bị kéo dãn ra cho đến mức muốn bị cắt đứt và cứ kéo xa hơn nữa. Con hãy nhìn xem, sau cùng việc nào qua đi cũng để lại một cái gì hòan tòan mới. Con đừng sợ cái mới và cái lạ, nhưng hãy dấn bước vào với một lòng tin và trông cậy  tuyệt đối, biết rằng mỗi bước đều dẫn con đến một trời mới  tuyệt vời, một đất mới kỳ diệu” ( Aileen Caddy Sđd ngày 24 tháng năm )
 
Tất cả những chấp chước tự giới hạn như vừa nêu, tuy cũng là những trở ngại đáng kể thế nhưng không ghê gớm cho bằng việc “ thỏa mãn vỏn vẹn với những gì con đã hiểu được”. Những gì đã hiểu, đó là Sở Tri, còn thỏa mãn tức là chấp vào những gì mình cho rằng đã hiểu, đấy là một thứ sở tri chướng cực kỳ tai hại. Chính là sở tri chướng chứ chẳng phải cái chi khác nó đã giết chết tất cả mọi sáng tạo, đây là sức ì ghê gớm nhất mà con người ta lại bám vào nó như thể đó là những chân lý ngàn đời không thể sai lầm. Tất cả những quan niệm duy lý của thần học từ bao lâu nay đều là những sở tri chướng ngăn ngại cho Thời Mới. Nên phân biệt thế nào là sở tri, thế nào không phải sở tri. Sở tri là những cái thấy biết do ý thức suy tư phân biệt, còn không phải sở tri là phát khởi của trí vô phân biệt tức trực giác. Để có thể hiệp nhất với Đấng Thiên Chúa nội tại cũng là Bản Tâm vô phân biệt của chính mình thì quá trình thực hiện tâm linh tất cả chỉ là việc thóat khỏi kiến chấp tức bỏ hết những chướng ngại do sở tri gây nên để cho trực giác phát khởi “ Chỉ khi nào lòng trí con nhẹ nhàng con mới mở trộng tâm hồn và có khả năng đón nhận những cái mới xung quanh con , và con mới có thể hòa vào với những tư tưởng mới, ý kiến mới và lối sống mới. Con hãy chuẩn bị để nhìn cao hơn và xa hơn những lãnh vực rộng lớn hơn và con hãy thả bước trên những con đường của Thánh Thần. Có nhiều điều con có thể hiểu và chấp nhận bằng trực giác, còn lý luận ( suy tư phân biệt ) trên những việc đó là vô ích. vậy thì tại sao lại mất thì giờ mà tìm hiểu với lý lẽ ? Tại sao con không sẵn sàng để sống và hành động bằng trực giác và cảm hứng ? Khi con làm như vậy là con đang họat động trong tâm hồn hướng thượng và con sẽ có khả năng đón nhận cái mới, con sẽ trở thành một con kênh trong sáng để cái mới có thể triển nở trong và qua con” ( Aileen Caddy Sđd ngày 7 tháng tư )

  Sống và hành động bằng trực giác và cảm hứng, đó là họat động của những tâm hồn có chí hướng thượng và đây quả thật là lý tưởng tuyệt vời đáng để ước ao thành tựu.

Thế nhưng bất cứ cái gì cũng có cái giá phải trả của nó, càng muốn lên cao bao nhiêu càng phải biết trút bỏ những gánh nặng trì kéo bấy nhiêu. Đường trọn lành là đường kết hợp với Đấng Vô Sở Bất Tại, bởi thế cho nên không thể bám víu vào Ngài như một thứ đối tượng dù là vật chất hay tinh thần, du là cụ thể hay trừu tượng. Thánh Grégorio giám mục Nitxê ví Thiên Chúa như một vách đá  trơn nhẵn và dựng đứng không có chỗ nào cho trí khôn con người có thể bám víu. Một Thiên Chúa mà suy tư( lý trí) có thể nhận biết thì đó chắc chắn không phải là một TC chân thật mà chỉ là một quan niệm nào đó về Ngài . Kinh Kim Cang nhà Phật nói “ Này Tu Bồ Đề, các đại Bồ Tát nên sanh tâm thanh tịnh như vầy = chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng nên sanh tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp( mà ) nên sanh tâm không chỗ chi trụ (Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ) Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ( mắt tai mũi lưỡi thân ý ) là những thứ có hình tướng, cảm giác thuộc hiện tượng giới. Để có thể hiệp nhất với Đấng vô sở bất tại đó thì không được phép “ Trụ” vào bất cứ một thứ hình tướng hoặc chấp vào một quan niệm nào , hễ có hình có tướng trạng hoặc quan niệm được thì đều hư vọng. Có hiểu như thế mới rõ tại sao trong Kinh Thánh Cựu Ước luôn mô tả Thiên Chúa Giavê là Đấng hết sức gớm ghét và đòi gắt gao cần phải thẳng tay diệt trừ thần tượng đủ lọai. Không được phé`p bám vào bất cứ một thứ gì thuộc hiện tượng giới, chẳng những đó là những thứ thô phù như thần tượng bóng đá, điện ảnh, rượu chè trai gái cờ bạc…mà còn với cả những tình cảm quyến luyến , những hy vọng hão huyền…Tất cả những việc..lìa tướng này khiến cho tâm trải qua những phút giây trống rỗng tưởng chừng không thể chịu đựng nổi, dường như mình đang đi vào …cõi chết.” Cuộc sống thì đầy tràn cái mới ( do trực giác mang lại ) nhưng cần phải gạt bỏ cái cũ để có chỗ cho cái mới xâm nhập. Quá trình  dẹp bỏ  để trở nên trống rỗng có thể là rất đau đớn bởi khi con đã vứt bỏ cái cũ đi, con có thể cảm thấy không còn gì nữa cả để bám víu mà chỉ thấy còn có một mình, một mình trống rỗng không còn một chút gì cả. Con có thể cảm thấy cuộc đời đã chết hòan tòan và rỗng tuếch, không một ý nghĩa và con như muốn giơ đôi tay thất vọng lên trời. Con hãy nên nhận định rằng nếu con trải qua một đôi lúc như thế thì đó đang là giai đọan tước bỏ cái cũ để con có thể một lần nữa dành chỗ cho một cái mới. Con đừng bao giờ thất vọng mà hãy đứng vững cho tới khi nào con hòan tòan trống rỗng và được tẩy rửa và tống khứ mọi thứ ra ngòai. Rồi con lại có thể bắt đầu trong một bầu khí mới mẻ của Thánh linh và trong sự thật. Con có thể trở nên như một đứa trẻ, thiết tha trân trọng vẻ diệu kỳ của cuộc sống mới và đồng thời nó cũng tràn ngập dần vào cuộc đời của con” ( Aileen Caddy Sđd ngày 16 tháng giêng )
 
Qua lời khai thị này ta thấy có điều xem ra thật phi lý, đó là nỗ lực tối đa của việc thực hiện tâm linh, tưởng sẽ thu đạt được kết quả lớn lao tương xứng nào đó nhưng rút cục lại chỉ được một “ Cái tâm hòan tòan trống rỗng”. Với mục tiêu là “ Cái tâm hòan tòan trống rỗng” thế này thì tôn giáo có thể còn có vai trò nào không ? Vâng, đúng là tôn giáo nếu hiểu như là một mớ những giáo điều và kinh kệ thì không thể đóng vai trò gì, nhưng nếu hiểu đó là con đường thực hiện tâm linh hay một thứ Thiền Đạo thì đây đúng là cứu cánh của nó. Cứu cánh “ Tâm trống rỗng” cũng chính là cái tâm vô niệm của Phật Giáo mà Thiền sư Hòang Bá xác nhận “ Phàm người học đạo, muốn được thành Phật, tất cả Phật pháp đều chẳng nên học, chỉ học “ vô cầu, vô trước “ Vô cầu thì tâm chẳng sanh, vô trước thì tâm chẳng diệt. Chẳng sanh, chẳng diệt tức là Phật”. Cái học vô cầu vô trước đó tức là Thiền Định, vậy thử xem “ Tiếng Thì Thầm” nói thế nào về con đường này ?

IX. Đường lối thực hành

 Con người từ trong thâm tâm, ai ai cũng muốn sống một cuộc sống an bình hạnh phúc chứ chẳng ai lại muốn tai ương  khốn  khổ và quả thực không ai bảo ai tất cả cũng đều lăn xả giống như những con thiêu thân lao đi kiếm tìm sung sướng hạnh phúc cho mình. Thế nhưng thực tề cho thấy một điều khác hẳn, càng kiếm thì càng mất tăm mất tích, điều này ví như người rượt đuổi theo cái bóng của chính mình mà  không bao giờ gặp. Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao ai cũng muốn an vui hạnh phúc mà lại chỉ gặp tòan những tranh chấp khổ đau ? Câu trả lời một là tại người ta ước muốn hạnh phúc nhưng lại thực sự chẳng biết nó là gì, ở đâu. Và hai là có khi được dạy bảo cho biết nó là gì , ở đâu nhưng lại không có đủ năng lực thực hành “ Biết bao nhiêu thì giờ và nghị lực để có được sự bình an và phục vụ Cha. Đây quả là một bí quyết giải đáp cho mọi tình huống. Tại sao con không tự chứng minh điều đó bằng cách đem ra thực hành xem sao ? Bao lâu con chưa làm gì để thử nghiệm điều đó , nó vẫn chỉ là lý thuyết. Cuộc sống này là một cuộc sống rất thật, rất thực tế, một cuộc sống thực hành. Nó không có gì là lý thuyết nhưng nó tùy thuộc vào con để đem ra thi hành một điều gì đó có đúng không. Ánh sáng ban ngày vẫn còn đó, nhưng bao lâu con chưa vén màn lên, con vẫn ở trong tối tăm. Nước vẫn ở trong ống dẫn nhưng bao lâu con chưa mở vòi nước ra thì nước không chảy. Thức ăn có thể đang ở trên đĩa  nhưng nếu con không đưa nó lên miệng mà ăn thì nó chẳng đem đến gì cho con cả. Vậy con hãy bắt đầu hành động đi và làm việc đó ngay bây giờ” ( Aileen Caddy Sđd ngày 4 tháng ba ). Phải thực hành, không thực hành thì không thể đạt được bất cứ thứ gì, thế nhưng đâu có phải cứ lăn xả vào làm mà được đâu ? Minh triết Đông phương đưa ra lời cảnh cáo “Đi trong đường lớn , nếu có một chút tri thức, cái đáng sợ nhất duy chỉ là muốn thi thiết thực hành” ( Sử ngã giới nhiên, hữu tri hành ư đại  đạo, duy thi thị úy )
 
Tại sao Đạo lớn phải hết sức cẩn thận trong việc thực hành như thế ? Bởi vì Đạo lớn rất khó để “ Vào”, muốn vào Đạo lớn ấy phải đi bằng lối cửa hẹp “ Hãy gắng sức mà vào cửa hẹp. Vì Ta nói cùng các ngươi, nhiều kẻ sẽ tìm vào mà không thể được” Lc 13, 24 ) Đạo lớn ở đây chính là một thứ Đạo có thể làm cho con người có được an vui hạnh phúc thật sự, vĩnh viễn và đó cũng là Sự Sống Đời Đời, là Đấng Cha nội tại. Muốn xác định việc thực hành cho đúng thì phải biết đến cái mục đích của nó là để tìm kiếm sự sống đời đời, hạnh phúc vĩnh cửu. Không xác định  đúng được  mục tiêu, thế nào cũng lạc, cửa vào càng hẹp bao nhiêu thì nguy cơ trệch mục tiêu càng lớn bấy nhiêu, chỉ sai một ly là…đi một dặm. “ Con đừng mất thì giờ cũng đừng mất sức lực để vùng vẫy như con cá ở ngòai nước, cho rằng những điều kiện sống, những hòan cảnh con đang có là do kẻ khác, con hãy chỉ cần biết mọi sự đều ở trong tay Cha. Bởi thế con có thể tự điều chỉnh mọi sự mà không cần đến ai khác khi con biết dành thì giờ tìm sự bình an và sự tĩnh lặng trong tâm hồn và phụng sự Cha. Không một cái gì sẽ bị che giấu nếu con tìm kiếm nó và nếu con đặt mọi sự trước mặt Cha và chỉ muốn làm theo Ý Cha, chỉ Ý Cha thôi. Con chỉ có thể hiểu được thế nào là Ý Cha khi con tập để trong lòng lắng đọng lại thanh thản và bình lặng” ( Aileen Caddy ngày 10 tháng mười hai ).

 Như vậy là đã rõ, con người muốn có được hạnh phúc thực sự thì phải quay về với cõi lòng mình. Việc quay về này gọi là VÀO, là hết lòng tìm kiếm Thánh Ý Thiên Chúa, là thực hành Đạo lớn. Công việc ấy cần phải được thực hiện trong thinh lặng hòan tòan “ Con hãy học cách tìm ra những câu trả lời trong con. Hãy dành thời giờ ngồi yên tĩnh và tìm ra câu trả lời trong thinh lặng. Đừng bao giờ thất vọng nếu câu trả lời chưa đến ngay tức khắc. Con chỉ việc chờ đợi Cha và hãy biết rằng Cha họat động đúng lúc và rất ư nhịp nhàng  với tòan thể tạo vật, khi cuộc sống không mấy tốt đẹp thì thật dễ dàng mà giơ tay lên cầu trời. Đó là tâm trạng thất  vọng và để cố gắng lẩn tránh mọi sự thay vì trực diện với những trách nhiệm của mình và dựa vào sự bình thản và tin tưởng. Hãy tìm kiếm Ý của Cha trước mọi chuyện khác, khi con yêu mến Cha thật tình, con sẽ muốn làm theo ý Cha, bởi tình yêu luôn có lòng ao ước mãnh liệt làm tất cả vì người yêu. Vì thế khi con nghe Tiếng Thầm Lặng và êm nhẹ của Cha tận đáy lòng con thì hãy làm đến cùng tất cả những gì Cha xin con, chỉ vì Tình Yêu Mến Cha” ( Aileen Caddy ngày 10 tháng giêng )
 
“ Hãy tìm kiếm Ý của Cha trước mọi chuyện khác”,mệnh lệnh này cũng là một trong hai  điều răn quan trọng nhất của Đạo lớn “ Hãy hết lòng hết ý mà thương yêu Chùa là Thiên Chúa ngươi” Mt 22, 37 )Ta chỉ có thể hiểu và thi hành được mệnh lệnh này khi Thiên Chúa là nội tại, bởi lẽ làm sao mà có thể biết được Thánh Ý cũng như yêu mến khi Thiên Chúa lại ở bên ngòai và hòan tòan cách biệt khỏi ta ? Thế nhưng nếu hiểu Thiên Chúa Đấng ấy nội tại trong ta, là chính Bổn Tánh mình mà Bổn Tánh ấy lại là Giác Tánh tức Cái Biết Thường Hằng thì vấn đề lại hòan tòan khác. Khi ấy tìm kiếm Thánh Ý hoặc yêu mến Thiên Chúa chính là tìm kiếm để biết và yêu mến Giác Tánh ( Lương Tâm ) ở nơi mình. Việc tìm kiếm và yêu mến tức sống với Giác Tánh ( Tánh Biết ) đó là Thiền, đồng thời cũng là việc cầu nguyện mà Đức Kitô đã truyền dạy “ Còn ngươi khi cầu nguyện hãy vào phòng kín, đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi, là Đấng ở nơi ẩn mật và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” Mt 6, 6 ) Thiên Chúa ở nơi ẩn mật tức là ở sâu kín trong cõi lòng, còn vào phòng đóng kín cửa lại tức là phải quay cái tâm trở ngược vào bên trong bằng cách thu thúc lục căn ( mắt tai mũi lưỡi thân ý ) lại không để cho nó dong duổi nơi ngọai vật. Tâm ý của ta là cái tâm phan duyên, vọng động được ví như lòai khỉ vượn ngựa hoang ( Tâm  viên ý mã ) nó cứ chuyền leo không ngớt hết chỗ này sang chỗ khác khiến cho Chân Tâm Bản Tính không thể được nhận ra. Chân Tâm tức là cái tâm chân thật không bao giờ thay đổi, vĩnh viễn trường tồn không sinh không diệt. Con người khi chưa ngộ được Chân Tâm, tất cả đều sống trong vọng động mê lầm mà đã sống trong mê thì không thể không bị nghiệp dĩ cuốn lôi để rồi lăn lóc trong bể khổ không có ngày ra. Chính bởi những lẽ đó mà mười phương chư Phật ra đời mục đích chỉ là để khai thị ( Mạc khải ) cho chúng sinh con đường trở về và sống với Bản Tính Chân Thật của mình mà thôi. Đường về thì rất nhiều , Nhà Phật nói có tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị lại tám vạn bốn ngàn phiền não còn Đức Kitô ở đây nói mỗi người cần phải tìm ra phương cách tu cho mình “ Tại sao con không trực tiếp đón nhận ngay từ những cảm hứng và cách ứng xử cho cuộc sống tâm linh mà phải hỏi han ai khác ? Con không thấy rằng con đang có trong con mọi khôn ngoan, mọi hiểu biết, mọi sáng ý ? Con đâu phải tìm kiếm những thứ đó ở bên ngòai nghĩa là con phải dành thời giờ để ở yên tĩnh và để đi sâu vào đáy lòng mình mà tìm ra chúng. Không có gì tuyệt vời hơn hay bõ công hơn để tiếp xúc  trực tiếp với Cha là nguồn mọi sáng tạo. Điều đó có nghĩa là con phải dành thời gian và nếu cần phải sáng chế ra cách nào đó để tiếp xúc với Cha. Con phải đạt tới mức độ con mong ước là đem Cha đi vào thấu suốt cuộc đời con và song hành với Cha. Cả những thành công cũng như thất bại, khi nào tình yêu lai láng và con là một với Cha con sẽ thật sự muốn chia xẻ hết với Cha, hơn bao giờ hết” ( Aileen Caddy Sđd ngày 19 tháng tám )
 
 “ Tiếp xúc với Cha” có nghĩa là nhận ra sự hiện hữu của Giác Tánh nơi mình, sự nhận biết này thọat đầu chỉ thỉnh thỏang lóe lên rồi tắt, nhưng nếu cứ tiếp tục cố gắng thực hành thì Giác Tánh sẽ thể hiện thường trực hơn đến độ có thể nói là mình sống đồng hành với nó trong cuộc sống. Tuy nhiên công việc thực hành để có được sự tiếp xúc này đòi hỏi rất nhiều công phu. Vọng tưởng như những đám mây đen dày cứ hết lớp này lại đến nlớp khác che mờ khiến cho ánh sáng mặt trời Chân Tâm khó bề ló dạng. Tu Thiền chẳng qua cũng chỉ là cái việc quét hết lớp mây vọng tưởng ấy thế thôi. Công phu này đòi hỏi cần phải hết sức kiên trì bền bỉ coi một năm như một ngày , một ngày như một phút, nhưng muốn được như thế ban đầu phải thiết lập công khóa cách cụ thể mới mong đắc lực “ Nếu một em bé đang tập đi mà té ngã, nó không thất vọng nhưng nó lại lồm cồm bò dậy và cố gắng rồi cố gắng nữa cho tới khi nó làm chủ được bước đi. Sự sống tâm linh cũng vậy đó, con chớ bao giờ để cho những thất bại bên ngòai khiến con nản lòng không còn muốn bước tới trên con đường tâm linh. Nếu có té ngã, con hãy bò dậy một cách bình thản lại tiếp tục đi. Con đừng ngồi ỳ đó mà than thân trách phận nói rằng mình không thể tiếp tục vì  cuộc sống khó khăn quá. Thái độ của con luôn phải dựa trên niềm thâm tín tuyết đối trong con rằng con sẽ đạt tới đích, bất kể những cản trở con sẽ gặp, con sẽ thấy là thời gian con ngồi thinh lặng một mình sẽ tích lũy cho con về mặt thiêng liêng và giúp con đương đầu với tất cả những gì có thể xảy đến mà không do dự cũng không nao núng. Vì thế, thời gian ngồi một mình với Cha mỗi buổi sáng sẽ giúp cho con có sức mạnh để đối phó với tất cả những gì mà ngày sống có thể đem lại” ( Aileen Caddy Sđd ngày 12 tháng giêng ).

 “ Ngồi một mình với Cha” đó chính là Tọa Thiền, là tìm cách tiếp xúc với Giác Tánh của mình. Tại sao lại phải ngồi ? Bởi vì trong bốn oai nghi = đi, đứng, nằm, thì ngồi thế hoa sen kiết già là một tư thế vững chãi lại vừa giúp cho tinh thần tỉnh táo nhất. Tuy nhiên Thiền không cứ là chỉ có ngồi. Tổ Huệ Năng đã nặng lời phê phán những kẻ chỉ biết chấp vào việc ngồi thế này “ Khi sống ngồi không nằm, chết rồi nằm chẳng ngồi, gốc thiệt đầu xương thúi, làm sao lập công tội ?” Vấn đề quan trọng của Thiền như vậy không phải là tư thế, mà ở nơi sự tỉnh thức của hành giả và sự tỉnh thức này dĩ nhiên không phải chỉ đòi hỏi ở chỗ thời công phu mà là trong tất cả mọi thời với bất cứ tư thế nào. Đức Kitô đã nhiều lần nói đến sự tỉnh thức ( Mt 25. Mt 26, 41 …) Thế nhưng trước đây chúng ta vẫn hay hiểu đó chỉ là để khuyến cáo trong lúc lâm chung sắp bước vào đời sau mà quên đi rằng sự tỉnh thức ấy phải được thực hiện ở mọi thời. Lúc bình thời không tỉnh thì làm sao lúc sắp chết mà có thể tỉnh , đợi cho đến lúc khát mới lo đào giếng sao  kịp ? Trong Tin Mừng mới này Đức Kitô đặc biệt đề cao sự tỉnh thức, coi đó là một lẽ sống cần phải đạt “ Bằng cách sống tràn đầy và nồng cháy trong cái hiện tại vĩnh viễn, con luôn tươi trẻ như cái hiện tại, con liên tục tái sinh trong Thánh Thần và chân lý, con không thể ở mãi trong dạng tĩnh của cuộc đời tâm linh, vì luôn luôn sẽ có cái gì mới và rất lôi cuốn để con học tập và làm. sự tỉnh thức luôn giữ con trong tình trạng tinh tường lanh lợi và trẻ trung, khi mà tinh thần trở nên già nua và chán ngán thì lúc đó cuộc đời mất cả tia sáng của nó và cái vô giá của nó nữa. Nếu con không thể hiểu được một chân lý mới với lý trí thì con hãy bình tĩnh và nâng tâm hồn lên, hãy hòa nhập với trí tuệ phổ quát và hãy là một với nó. Với Cha, rồi con sẽ hiểu được mọi sự, hãy giữ cho tinh thần con được lanh lẹ và như vậy con sẽ không bao giờ già đi. Tâm hồn con là mạch nuớc tươi mát trẻ trung, niềm vui sống là một thứ rượu bổ của cuộc đời” ( Aileen Caddy Sđd ngày 31 tháng giêng ).

 Sống trong hiện tại tức là tỉnh thức mà tỉnh thức tức là sống trong hiện tại. Chân lý huyền vi nằm ngay ở nơi từng giây phút thực tại đó chứ chẳng ở đâu khác. Tuy nhiên để có thể sống từng giây phút thực tại đó là điều vô cùng khó. Bởi thế cho nên Đức Kitô đã đề ra một phưong cách để ta có thể thực hiện bằng cách hãy bắt đầu sống tỉnh thức  một ngày mới trong tinh thần hiệp nhất với Đấng Cha nội tại. Sự hiệp nhất này còn là một cố gắng hết sức khó khăn bằng tọa thiền, bằng sống tỉnh thức trong mọi giao tiếp với tha nhân . Nhưng lâu dần thì nếp sống hòan thiện bản thân đã đi vào nề nếp thì đây quả thật là một cuộc sống đầy tính chất lạc quan hăng nồng “ Con hãy bắt đầu một ngày cho thật tốt trong sự hiệp nhất với Cha. Như vậy không gì có thể làm con mất quân bình trong suốt ngày đó. Lúc ban đầu khi con bắt đầu cuộc sống tâm linh này con phải cố gắng để tự hài hòa với mọi sự rồi trong quá trình con sống như thế mỗi ngày mỗi sâu đậm hơn và cuộc sống đó trở nên thành phần cuộc đời con..nó không đòi hỏi phải cố gắng nữa và con sống nó với một tư cách như thể nó chính là bản thân con. Con sẽ tìm được một sự vui mừng lớn lao và một sự tự do thênh thang. Con không phải dành một nửa thời gian của mình để cầu nguyện xin tha thứ, để lo sợ làm điều không nên hay lo lắng đang đi lạc đường hoặc chạy ngược chiều. Khi con phạm sai lầm, lập tức con hãy lãnh nhận ơn tha thứ và cương quyết không lập lại sai lầm đó nữa. Con cứ thế mà tiến, đến nỗi sống như thế đối với con không còn là một cố gắng nhưng trở thành một niềm vui thật sự, và như vậy con biết thế nào là Nên Một với Cha và hòan tòan trong sự bình an” ( Aileen Caddy Sđd ngày 8 tháng giêng )
 
Ở đây con đường tâm linh khi được trình bày bằng phương thức Thiền đạo ta thấy tín nguỡng dường như không giữ một vai trò nào, chẳng có cầu nguyện xin tha thứ, chẳng có bí tích hòa giải v.v.. Tuy nhiên bởi vì Đức Kitô trước sau vẫn y nguyên là một và Ngài chẳng có rao giảng một Tin Mừng nào khác..thế nên dù là với hình thức của Đạo Cứu Rỗi bởi đức tin hay giải thóat bằng Thiền Định thì vẫn cần có đầy đủ ba nhân đức Tin, Cậy và Mến ( Tương đương với ba món tư lương Tín Nguyện Hạnh của Tịnh Độ tông Phật giáo ) Duy có điều khác bịệt mang tính chất nền tảng thế này. Trước đây với Đạo Cứu rỗi mà nếu chỉ biết dựa vào tha lực ( Thiên Chúa, Nước Trời ngọai tại ) hòan tòan không có một c hút tự lực nào thì nay với Thiền đạo lại trái ngựơc hẳn.  Bởi có sự trái ngược ấy mà tuy vẫn có đầy đủ ba nhân đức đối thần nhưng Thần ở đây là Thần khí nội tại chứ không phải ngọai tại “ hãy nhớ, luôn luôn đặt niềm tin và lòng cậy trông vào Cha. Chúa của Thiên Chúa con, Thần tính ở trong con” ( Aileen Caddy Sđd ngày 5 tháng ba ). “ Thiên Chúa là Thần Tính ở trong con” nhưng bởi đó mới chỉ là chân lý mạc khải phải tin, thế nên đường lối thực hành tâm linh là phải làm cách sao để có thể hiệp nhất, có thể Thấy ( Kiến Tánh) được Đấng là Thần Tính đó ở nơi mình. Tất cả đường lối thực hành tôn giáo đều phải nhắm tới mục đích duy nhất là sự hiệp nhất ấy nếu không đều chỉ là những họat động lăng xăng vô bổ và rồi sẽ bị trách cứ “ Dân này chỉ kính thờ Ta ngòai môi miệng, còn lòng trí chúng thì xa Ta lắm” Mt 15, 8 – 9 )
 
Việc cầu nguyện phụng thờ đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính là phụng thờ chính Giác Tánh của mình và cũng có thể nói chỉ trong ý hướng đó mà sự cầu nguyện mới mang tính chất tỉnh thức của Thiền đạo như lời Đức Kitô  “ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” Mt 26, 4 ) và nay trong Tiếng Thì Thầm, Ngài nhắc lại “ Cuộc sống không có cầu nguyện thì trống rỗng và vô nghĩa, bởi cầu nguyện là hiệp thông với cái phần cao đẹp nhất trong con. Từ đó con khám phá ra sự viên mãn của cuộc đời tươi sáng này vốn thật là gia tài của con. Chớ gì những lời cầu nguyện của con thật tích cực và xây dựng. Con hãy cám ơn cho những gì con sắp sửa nhận được ngay cả trước khi con cầu xin. Khi con cầu nguyện con hãy cảm nhận ra sự hiệp nhất của trọn cuộc đời mà không gì phân chia được, bởi tất cả là một. Lời cầu nguyện làm cho mọi sự nên một, lời cầu nguyện tập trung tất cả và tạo nên sự hiệp nhất tòan vẹn. Hãy nói với Cha và hãy nghe Cha nói. Đừng mất thì giờ mà kêu xin Cha điều này điều kia và mọi thứ bởi đó không phải là cầu nguyện thực  sự. Kêu nài thì sinh ra chia rẽ và Cha muốn rằng trong mọi lúc con phải xây dựng  sự hiệp nhất, chúng ta chỉ là một thôi, Cha ở trong con, con chẳng phải tìm Cha ở bên ngòai, Cha luôn ở đó đang chờ đợi con nhận ra Cha. Con hãy nhận ra sự hiệp nhất bây giờ : Cha trong con và con trong Cha” ( Aileen Caddy Sđd ngày 17 tháng giêng ).
 
Cầu nguyện là để xây dựng sự hiệp nhất giữa Cha và con chứ không phải để kêu xin điều này điều kia. Quan điểm này thật là mới, hết sức mới và cái mới ở đây sở dĩ như thế là ở nơi mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Trước đây mối tương quan ấy không thể thiết lập bởi lẽ người con trong mối quan hệ ấy chưa bao giờ được hiểu đó là con người ( chúng sinh vạn vật ) mà chỉ có thể là Chúa Giêsu Kitô, duy có Ngài mới nói được Ta với Cha là một( Ga 10, 30 ) còn con ngừời thì hòan tòan không. Bước vào Thời Mới này chân lý về sự hiệp nhất lại được xiển duơng và Đức Kitô lần này trong vai trò của một vị Thầy, Ngài sẽ huớng dẫn để chúng ta thực hiện mối tương quan ấy.

X. Đức Kitô vị Thầy của thời đại mới.

 Giáo hội hiện đang trong cơn khủng hỏang và có thể nói nguyên nhân sâu xa của nó là do việc cầu nguyện đã không được thực hiện trong tinh thần tìm kiếm. Đức cố hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã đặt câu hỏi và tự trả lời thế này “ Tại sao HT khủng hỏang? Vì đã hạ giá việc cầu nguyện” ĐHV 134 ) Nhận định này rất xác đáng, tuy nhiên nên hiểu thế nào là hạ giá sự cầu nguyện ? Đó là đã không coi sự cầu nguyện như là một nhu cầu thiết yếu và sở dĩ không coi là nhu cầu bởi  con người ngày nay không còn tìm kiếm Thiên Chúa nữa. Thay vì phải hết lòng tìm kiếm theo như mệnh lệnh của Thiên Chúa cũng như cuả Đức Kitô thì người ta lại quay ra phân tích , suy niệm, lý giải về Thiên Chúa như là đối tượng của tri thức. Không thể suy lại cứ suy thì cái đạt được chỉ có thể là những ý niệm về Thiên Chúa chứ không phải là Thiên Chúa của Thực Tại. Cứ nhất định suy tư về điều không thể suy tư đó là một thứ tai nạn của con người thời mạt pháp đúng như lời Bồ tát Mã Minh nói “ Phàm phu thời mạt pháp căn cơ thấp kém, có cái nạn thiên chấp danh tướng một cách kiên cố, muốn mổ xẻ luôn cả hư không, để rồi thành ra cái lỗi chuốc lấy văn tự mà quên mất ý chỉ” Đại Thừa khởi tín luận )  Ý chỉ ở đây là phải hết lòng tìm kiếm Thiên Chúa bằng cách quay trở về với Bản Tâm và bởi vì đường về này là đường tâm linh là sự sống đời đời, thế nên đòi hỏi cần phải có Đấng là đuờng, là sự thật, sự sống ( Ga 14, 6 ) mới có thể dẫn đưa an tòan tới nơi tới chốn được. Nếu cơn khủng hỏang hiện nay là do đã có sự hạ giá cầu nguyện thì ngay trong cầu nguyện  mặc nhiên đã có khủng hỏang, người ta chẳng còn biết cầu nguyện mục đích để làm gì ngòai ra chỉ để xin hết ơn này đến ơn khác mà thường là những ơn nhỏ nhặt và hết sức ích kỷ. Bởi không còn tìm kiếm Thiên Chúa nữa thế nên khi cầu nguyện vớ Chúa Giêsu người ta không coi Ngài như Đấng dẫn đường mà đơn thuần chỉ là vị thần ban ơn giáng phúc.

 Dì Brìege Mc Kenna OSC, một trong những “ Tiếng Thì Thầm” chuyên giảng tĩnh tâm cho các linh mục theo yêu cầu của Chúa Giêsu, hàng ngày phải có ít nhất ba tiếng đồng hồ trước Thánh Thể đã nói về ý nghĩa việc cầu thế này “ Tôi phải luôn nhớ rằng tôi cần Chúa Giêsu hơn những vị cần đến tôi ( giảng tĩnh tâm ). Nếu tôi không cầu nguyện Chúa Giêsu, tôi chẳng có gì tặng cho họ. Không phải vì đã Thánh thiện mà tôi cầu nguyện, nhưng tôi cầu nguyện vì tôi ao ước trở nên Thánh thiện ( tìm kiếm TC ) và tôi cần được Chúa Giêsu dạy bảo” ( Trích quyền năng của Chúa Giêsu Thánh Thể ). Cần được Chúa Giêsu dạy bảo, đó là thực tế cuộc sống của bất kỳ một tín hữu nào dù là giáo sĩ hay giáo dân nếu kẻ đó muốn sống cuộc sống tâm linh thực sự. Và sự dạy bảo này tất cả cũng không ngòai việc tìm kiếm để đi đến sự kết hợp với Đấng Thiên Chúa ở nơi mình. Nói tìm kiếm, nếu nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng ở bên ngòai mình hoặc có thể dùng lý luận để suy tư thì với cả hai trường hợp này Đức Kitô không thể thể hiện chức năng vị Thầy dẫn đạo của mình. Ngược lại nếu hiểu tìm kiếm là tìm  Thánh Ý Thiên Chúa mà Thánh Ý lại chính là lương tâm giác tánh mình vấn đề lại khác. Giác Tánh là cái vẫn luôn có sẵn đó nhưng mình không thể nhận biết, cần phải có Đức Kitô chỉ và dẫn đường cho mới biết và nhờ đó có đủ sức mạnh để đương đầu với ưu tư phiền não, cám dỗ nặng nề của ba thù thế gian ma quỷ xác thịt “ Những tâm hồn cư ngụ trong Cha, họ sống và họ rung động và lấy chất liệu ở trong Ánh Sáng và Tình yêu của Cha thì họ được che chở hòan tòan khỏi mọi thế lực thù địch. Vậy con đừng để mình bị đè bẹp bởi những ưu tư thế gian hay những điều kiện cuộc sống của bạn bè trần thế. Nếu con bị dằn vặt con sẽ không thể giúp đỡ được ai, bởi con cũng sa vào sự lộn xộn và cái lộn xộn trong thế gian này. Trong lúc bóng tối của trần gian đang gia tăng thì ánh sáng trong con phải tăng cường năng lực và sức mạnh để có thể vượt thắng thế gian và biểu lộ sức sống và ánh sáng bất diệt. Đừng để cho điều gì tiêu cực trong con làm lu mờ ánh sáng cho dù bộ mặt thế gian này ra sao đi nữa. Bởi gương sống động của con, con có thể giúp vào việc biến đổi bóng tối thành ánh sáng. Con hãy liên lỉ tiếp xúc với Cha, hãy để Cha soi sáng cho con trong mọi sự” ( Aileen Caddy Sđd ngày 9 tháng giêng ).

 Trong việc liên lỉ tiếp xúc với Cha, tức hết lòng tìm kiếm thực thi Thánh Ý TC này, mục đích trước hết là để nhận biết đúng về Ngài thế nhưng sự nhận biết ấy hòan tòan không giống như tri thức tức cái biết về sự vật nhưng biết là yêu mến, là Sống. Đây chính là chỗ khác biệt sâu xa giữa triết học và tôn giáo, một đàng cứu cánh ấy là tri thức , một đàng là sự sống và cũng do nơi khác biệt này mà vai trò của người thầy cũng khác. Nếu vị thầy thế gian nhiệm vụ của họ là truyền trao kiến thức thì vị Thầy tâm linh  lại là sự sống đời đời. Với Đức Kitô, việc truyền trao Sự Sống này không phải đã được thực hiện bằng cách trình bày diễn giảng về sự sống nhưng là trao ban Sự Sống của chính mình “Điều răn của Ta đây này= các ngươi hãy thuơng yêu nhau, cũng như Ta đã thương yêu các ngươi, chẳng ai có sự thương yêu lớn hơn là vì bạn hữu mà bỏ mạng sống mình” Ga 15, 12 – 13 ). Vì đã hiến dâng hiến Tình Yêu bằng chính mạng sống mình, thế nên Đức Kitô có quyền đòi buộc những ai tin theo Ngài cũng cần phải thực hiện cùng một công việc hiến dâng giống như Ngài. Chính bởi vậy mà Đạo Cứu rỗi là Đạo được làm nên bởi những chứng nhân chứ không phải của những người chuyên môn tuyên truyền. Nhưng để có thể xứng đáng với vai trò của những chứng nhân cần phải được huấn luyện đào tạo. Khi còn tại thế, Chúa Giêsu đã đào tạo được những tông đồ cốt cán là trụ cột cho giáo hội và giờ đây để dựng xây thời đại mới Ngài cũng cần phải có những con người như vậy “ Khi trách nhiệm đưộc giao cho con, con hãy nhận lấy mà vác trên vai cho vui vẻ và đừng để nó đè bẹp. Con hãy thi hành nhiệm vụ của con không bỏ sót trong lúc đó nó có thể là nặng nề lắm. Hãy luôn nhớ rằng Cha không bao giờ bắt con phải chịu đựng quá sức mình mà lại không giúp sức cho con. Khi con thi hành nhiệm vụ, con sẽ lớn lên về thể xác cũng như năng lực và được mọi người tin tưởng. Như vậy Cha có thể trao cho con những nhiệm vụ lớn hơn. Cha luôn luôn cần nhiều tâm hồn có thể tin tưởng  để giao phó nhiệm vụ. Cha cần con phải sẵn sàng và đủ khả năng nhận lãnh trách nhiệm mà không lo sợ
. Con đừng bao giờ, chớ khi nào trở thành một kẻ phá họai. Con có thể làm được bất cứ điều gì, nếu con quả quyết là mình có khả năng và nhất định không chịu thua. Chỉ cần biết con sẽ thành công là con sẽ như vậy” ( Aileen Caddy Sđd ngày 5 tháng hai )

 Để có thể hòan thành tốt nhiệm vụ chứng nhân này, cần có được hai điều kiện, thứ nhất phải có khả năng, thứ hai không chùn bước. Khả năng ở đây dĩ nhiên không phải là những kiến thức phần đời nhưng là Tuệ Giác do việc giác ngộ bản tâm mang lại. Cũng chính Tuệ Giác ấy sẽ gíup cho những chứng nhân tiến sâu vào cuộc hành trình tâm linh này hết sức mới mẻ, hòan tòan khác với những giáo huấn chính tông mà mình đã tiếp nhận từ trước tới giờ và tính chất mới này có thể nói là cuộc phiêu lưu đầy cam go và thử thách.  Người môn đệ cần phải đầy đủ khả năng trí tuệ vững tâm quyết chí mới có thể tiến bước trên con đường tự giác, giác tha “ Xe của con đang ngừng ở số không, hãy chuyển nó qua một tốc độ đi, và hãy làm một cái gì từ cuộc đời mình, có nhiều đại lộ mà sao con không thám hiểm nó ? Đừng bao giờ sợ bước vào vùng xa lạ trong cái mới, con cứ tiến bước đi và luôn tin cậy vào cái tốt nhất. Cuộc đời thì rất hấp dẫn và rất lôi cuốn. Nhưng con phải ham muốn, phiêu lưu trong cái mới với một đức tin và đức cậy tuyệt đối
. Hãy để Cha làm hướng dẫn viên và làm bạn đường trung thành của con. Có rất nhiều cái đang chờ được tỏ lộ ra nếu con sẵn sàng. Con phải được trang bị đầy đủ cho cuộc phiêu lưu này. Con phải học những bài học nền tảng về đức vâng lời và về tính kỷ luật.  Vì thế con phải được thử thách và được thăm dò. Con đừng bực bội khi phải chịu thử thách và thăm dò nhưng hãy biết ơn vì đã được chọn để đi theo con đường linh thiêng này” ( Aileen Caddy Sđd nga2y 22 tháng giêng )

 Tôn giáo mà lại có thể là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm hay sao ? Nội cái việc nhen  nhúm ý tưởng này thôi cũng đủ để  phải e dè phân vân bởi lẽ nó trái ngược hẳn với truyền thống của một giáo hội đã được khuôn đúc từ bao thế kỷ nay và luôn sẵn sàng can thiệp để bảo vệ cơ chế vốn rất hòan hảo của mình. Nhưng nếu cứ ở yên trong tình trạng như bấy lâu hoặc vẫn còn đắn đo với cái mới thì đây là trường hợp được ví như “ Cái xe đang ngừng ở số không” tức vẫn còn đứng ỳ tại chỗ. Thực ra trong đời sống bất kể là đời thường hay đời tâm linh không thể có cái chuyện “đứng ỳ “ Không tiến tức phải lùi mà lùi  ở đây  là không tìm kiếm, là tra tay cầm cày mà còn ngóai lại đàng sau ( Lc 9, 62 ) đồng nghĩa với việc phản bội Tin Mừng , không xứng với Nước Trời. mặc cho bao gian nan hiểm trở đang chờ, người môn đệ vẫn cứ một lòng tiến bước bởi luôn vững tin rằng cuộc đi này đã có Đấng là đường, là sự thật và là sự sống hướng dẫn “ Không ai đòi hỏi con phải đi vào vùng đất xa lạ mà không có người đưa đường dẫn lối, Cha là người dẫn đường cho và Cha sẽ không bao giờ để con vấp ngã đâu. Hãy hòan tòan tin tưởng vào Cha. nếu đường có khó đi, con đừng sợ. Dù có nguy hiểm con cũng đừng lo Cha sẽ dẫn con đi ngang qua tất cả. Nhưng con hãy nhớ rằng phải buông lỏng ra, cứ để Cha làm và đừng chống lại” ( Aileen Caddy Sđd ngày 29 tháng giêng ). Đường tâm linh là đường khó đi và có cả nguy hiểm, nhưng ta không phải sợ, phải lo vì đã có Chúa dẫn đường. Nói thì có vẻ dễ, nhưng trong thực hành thật không đơn giản và cũng chẳng dễ chút nào. Vấn đề ở chỗ là  làm cách sao để có thể đặt hết lòng tin cậy vào Chúa như Đấng dẫn đường ? không tin cậy, hay lòng tin cậy ấy quá yếu làm sao mà có thể nuơng theo sự chỉ dẫn của Chúa, mà đã không cậy nhờ thì chắc chắn cũng không thể tránh không sợ, không lo ? Đến đây mới thấy giá trị lời khuyên của Chúa “ Phải buông lỏng ra, cứ để Cha làm và đừng chống lại”

 “ Cứ để Cha làm và đừng chống lại” có nghĩa cứ để cho Giác Tánh tự thể hiện. Giác Tánh như đã nói là kho tàng ẩn giấu sâu kín nơi tâm hồn mỗi người. Khai thác, làm cho Giác Tánh thể hiện bằng cách Tọa Thiền hoặc cầu nguyện trong tính chất Thiền tức là tỉnh thức. Cả hai cách thế này đều lấy lìa tướng tức dứt vọng hay “ buông lỏng” làm phương châm hành động. Với pháp môn tọa thiền không có công án hay đề mục quán chiếu gì cả, chỉ cần nếu niệm khởi biết đó là vọng không theo, vọng liền dứt. Phương pháp này tuy hết sức đơn giản nhưng khó cực kỳ, trong muôn môt họa may có được một người. Trái lại, với phương pháp cầu nguyện tỉnh thức thì ai ai cũng có thể thực hành và một khi đã quyết chí theo đuổi thì thế nào cũng thành công đắc lực. Tất cả các việc đọc kinh, lần chuỗi, ngắm đàng Thánh giá nghe Sách Thánh trong nhà thờ đều thực hành trong tỉnh thức , có nghĩa không chia lòng chia trí giữ cho nhất tâm là được. Phương pháp này rất dễ duy chỉ cần bền bỉ trung thành lâu dần sẽ nảy sinh lòng tin cậy yêu mến Chúa Giêsu. Lòng tin yêu này sẽ lớn dần và tỷ lệ thuận với việc cầu nguyện. Càng cầu nguyện nhiều và đắc lực bao nhiêu thì lòng tin cậy càng tăng trưởng bấy nhiê, càng có lòng tin cậy lại càng ham muốn cầu nguyện bấy nhiêu. Giữa niềm tin yêu Đức Giêsu Kitô và việc thực hành Đạo như vậy là có quan hệ hai chiều và quan hệ này có được là do sự thúc đẩy của một động cơ khác đó là sự tìm kiếm Thánh Ý Chúa. Không có động cơ này thúc đẩy thì không thể nhận ra được Tin Mừng Nước Trời nội tại. Với động lực thúc đẩy là sự tìm kiếm Thánh Ý đồng thời được Đức Kitô Đấng Trung Gian duy nhất ( 1Tm 2, 5 ) hướng dẫn thì con đường tâm linh ắt sẽ trở nên xuông xẻ. Mặc dầu không thể tránh được những gian nan thử thách nhưng chắc chắn cuối cùng thì sự nên một với Cha sẽ được thành tựu “ Không hề có thể có những giây phút chán nản nếu Cha chỉ đường và dẫn dắt con. Con hãy tìm Cha và sẽ thấy Cha trong mọi lúc con không phải nhìn xa lắm đâu, Cha ở chính trong tâm con nhưng con phải nhận ra Cha một cách có ý thức. Nếu con sống và rạo rực sống và đặt nhựa sống của con ở trong Cha là con đã tạo Trời Mới Đất Mới đó. Trong việc tác tạo này, không cần phải một cố gắng nào. Cha đã từng nói= hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Bây giờ thì Cha nói = Hãy nhìn ngắm Trời mới Đất Mới của Ta. Vậy con hãy nhìn ngắm đi, hãy muôn đời tạ ơn cho chúng và hãy ở lại trong Tình Yêu hòan hảo, sự bình an và hài hòa trọn vẹn” ( Aileen Caddy ngày 15 tháng bảy )

 Với Tin Mừng mới, ta thấy quan niệm về Tạo Hóa đã hòan tòan thay đổi, trước đây công cuộc tạo dựng ấy là do Đấng Thần linh tạo,  còn nay  lại   do Tâm tạo. Tất cả đều do ở nơi Tâm ( Vạn pháp duy tâm  ) Tâm tạo địa ngục, tâm tạo Thiên Đường và như vậy Tâm  cũng  tạo Trời mới Đất mới. Trước đây bởi lời phán “ hãy có” mà từ hư không đã trở thành có, còn nay thì cái có ấy có từ vô thủy mà đã  vô thủy thì cũng vô chung, chẳng bao giờ diệt.. Trong quan niệm Thần tạo thì địa vị con người trong không gian mờ mịt kia và thời gian bất tận này trở thành vô nghĩa. Còn với Trời mới Đất mới chẳng ở đâu khác ngòai Tâm thì con người trở thành vô giá, chẳng phải chỉ là một thứ tiểu vũ trụ mà tòan thể vũ trụ đã đuợc nó gồm thâu chỉ trong một niệm. Để cho quan niệm Trời Mới Đất mới ở trong Tâm hết sức mới mẻ này được khai sinh, hầu có thể triển khai trong thời đại mới, chắc chắn đó không phải bỗng dưng hoặc bất chợt nhưng đã được chính Đức Kitô chuẩn bị và sắp xếp từ rất lâu trong quá khứ và mặt khác sự chuẩn bị không phải chỉ có tính chất chung chung cho cả thời đại mà là cho từng mỗi cá nhân với những giai đọan cụ thể của mình “ Con đã phải ngỡ ngàng vì những cuộc biến đổi đã đến quá mau lẹ. Từ lâu con đã được chuẩn bị cho những cuộc đổi thay này. Qua muôn thế hệ, từng ngày từng tháng từng năm, Cha đã kiên nhẫn chuẩn bị từng hòan cảnh để những cuộc đổi biến được thực hiện. mọi cơ hội đã được đem đến cho con để lắp ráp con vào và chuẩn bị c ho con  nên con phải được tiến lên một cách dễ dàng. Đây là vấn đề của sự hiểu biết của sự khả dĩ nâng tâm hồn lên và lắp ráp mình vào tất cả những gì đang xảy đến” ( Aileen Caddy Sđd ngày 24 tháng mười hai )

 “ Tất cả những gì đang xảy đến” mà ta thấy, đó là gì ? Đó là cuộc khủng hỏang đang ở vào giai đọan cuối cùng của nó với hai đánh giá khác hẳn nhau thế này. Hoặc bi quan thì đây là ngày tận số của cả nhân lọai vẫn được gọi là Ngày Tận Thế. Hoặc lạc quan thì lại cho rằng cuộc khủng hỏang này là để tiến lên ( Crise de croissance ). Thật ra trong việc đánh giá này cả hai đều đã không hề nhận thức được vai trò của cá nhân đối với khủng hỏang và vì thế không thể trung thực. Nếu hiểu khủng hỏang là hậu quả của những sai phạm  thì bất cứ khủng hỏang về phương diện nào cũng là do sai phạm của con người tức của những cá nhân. Đánh giá khủng hỏang với thái độ bi quan tức là đã tự để mình rơi vào hòan cảnh không thể cứu vãn. Còn nếu cho đây là khủng hỏang để tiến lên, vậy thử hỏi căn cứ vào yếu tố nào để nói thế ? Chính tự mình có làm gì để tiến lên hay không và …tiến lên đâu ? Nếu tự mình đã không làm gì để tiến và như thế cũng chẳng biết sẽ tiến về đâu  thì còn trông mong vào ái được nữa ? Không có năng lực tự cứu thì Thiên Chúa cũng bất lực dẫu lời nói cuối cùng của Đức Kitô sau khi nếm giấm chua khi Ngài còn trên Thánh Giá “ công cuộc cứu chuộc đã hòan tất” Ga 19, 30, ) Thế nhưng  sự hòan tất ấy mới là phần công nghiệp của Ngài, còn mỗi một con người nếu muốn hưởng nhờ công nghiệp ấy để vào Nước Trời cùng cai trị với Ngài thì về phần mình cũng phải “ Hòan Tất” mới được. Nói một cách khác có tự giác thì mới giác tha được, lý ấy quá hiển nhiên. Quả thật đã qua rồi cái thời mà các tín hữu chỉ biết thụ động giữ Đạo như một thứ truyền thống xưa bày nay làm, để được cứu, bất kỳ là ai cũng phải góp phần mình cùng với Đấng Cứu Thế mới có thể cứu được mình và thế giới “ Con là tay của Cha, chân của Cha. Cha phải làm việc trong con và qua con để mạc khải những kỳ công và vinh hiển của Cha. Cha phải dùng con để cho Nước Cha trị đến, cho Trời Mới Đất Mới được thực hiện. Bao lâu con chưa ý thức được là Cha đang cần con thì con còn cứ tiếp tục nghe nói về Trời Mới Đất Mới thật kỳ diệu đó nhưng con sẽ không được chiêm ngưỡng nó, sẽ không được sống ở đó và sẽ khơng được nó ảnh hưởng đên con và xung quanh con, ước mơ hão huyền thì có ích gì ? ( Aileen Caddy Sđd ngày 30 tháng mười hai ).

 Phải chăng từ bao lâu nay chúng ta đã chỉ nghe hoặc …luận bàn về Nước Trời chứ không hề tìm kiếm, không hề sống Nước ấy ?

XI. Trời mới - Đất mới.

 Trời mới - Đất mới là thị kiến của Thánh Gioan được ghi lại trong sách Khải Huyền “Đọan tôi thấy Trời Mới và Đất mới vì trời  cũ đất cũ đã qua rồi, biển cũng không còn nữa. Tôi cũng thấy thành Thánh Giêrusalem từ trời ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống sửa sọn như một Tân Nương trang sức đợi chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ ngai ra nói rằng “ Kìa Nhà Trại  của ĐCT ở giữa lòai người , Ngài sẽ đóng trại giữa họ và họ sẽ làm dân  Ngài. Chính ĐCT sẽ ở với họ, Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ khỏi mắt họ, sự chết không còn nữa, cũng chẳng có tang chế hoặc kêu khóc , hoặc đau khổ nữa vì những sự trước đã qua rồi. Đấng ngự trên ngai phán rằng “ Này Ta làm mới mọi sự, lại rằng = Hãy chép những lời này đáng tin và chân thật” Kh 21, 1 – 5 ). Những điều được ghi chép trong Kinh Thánhy nói chung, sách Khải Huyền nói riêng và đặc biệt thị kiến Trời Mới Đất Mới này đều chân thật và đáng tin, thế nhưng cũng chẳng dễ hiểu chút nào. Chính bởi vậy mà có những quan điểm rất ư khác biệt, chẳng hạn về ngày tận thế hay còn gọi là Ngày
Chúa tái lâm vẫn được giáo hội trước đây hiểu đó là biến cố cuối cùng kết thúc lịch sử  trần thế của cả vũ hòan. Biến cố ấy cũng là Ngày Phán Xét chung để cho Trời Mới Đất mới xuất hiện. Nhưng hiện nay với Cánh C hung học (Eschatologie ) vấn đề lại hòan tòan khác “ Những sự sau hết không phải là những biến cố sẽ đến sau cùng, chúng còn là điểm kết thúc con đường tiến hóa đã tới lúc thành tựu. Chúng không phải chỉ là kết liễu lịch sử cứu độ, chúng còn là mục đích lịch sử cứu độ tiến tới và thực hiện chung cuộc mọi lời hưa đã làm chuyển động lịch sử ấy và đưa lịch sử ấy tới chỗ chung hòan. Điều này có nghĩa là sự cứu độ do Đức Giêsu Kitô thực hiện tự bản chất có tính lịch sử hay sử tính” ( Jean Hervé Nicolas OP – Cánh Chung học )

 Quan điểm Cánh Chung học, mặc dầu không nhắc nhở gì tới Trời Mới Đất Mới nhưng khi nói ơn cứu độ có  sử tính, điều ấy mặc nhiên công nhận Trời mới Đất mới là kết quả của một quá trình tiến hóa của lịch sử. Trong quan niệm cũ thì Trời mới Đất mới hay thành Thánh Giêrusalem là một thực tại được đem từ trời xuống dành thưởng cho những kẻ lành Thánh. Còn thần học nay lại cho rằng đó là kết quả của tiến hóa. Cả hai quan điểm này có đúng với mạc khải của Đức Kitô về Trời mới Đất mới hay không ? Để có thể nhận ra điều này nhất thiết cần phải liên hệ với phần thị kiến tiếp đó về “ Nhà Trại của ĐCT ở giữa lòai người…chính ĐCT sẽ ở với họ”. Nên hiểu thế nào là Đức Chuá Trời sẽ ở với lòai người …ở giữa hay ở trong ? Nếu hiểu .. ở giữa có nghĩa là .. ở gần hay cạnh bên thì lòai người là lòai xác thịt , có hình có tướng sao mà ĐCT là Đấng vô hình vô ảnh lại có thể sống cùng , sống với ? Ngôn ngữ đầy tính chất biểu tượng như thường thấy của Thánh Gioan chỉ có thể giải thích Thiên Chúa.. ở với lòai người là Đấng nội tại và
Đấng ấy cũng chính là Đấng Cha chưa ai từng thấy biết mà Đức Kitô muốn mạc khải “ Chẳng ai từng thấy ĐCT bao giờ, duy Con ở trong cung lòng Cha là Đấng đã giãi bày Cha” Ga 1, 18 ).

 Bởi Đấng Cha nội tại cũng là Giác Tánh, là Tâm Vô Phân Biệt thế nên chưa Biết Cha ( Kiến Tánh ) tức còn sống trong vòng vô minh lầm lạc tức cũng có nghĩa còn sống với Tâm phân biệt của hiện tượng giới thuộc Trời cũ Đất cũ . Trái lại một khi nhận biết được Cha tức đã thóat vòng vô minh để bước vào Bản Thể giới tức Trời mới Đất mới của Tâm vô phân biêt. Còn trong vô minh tức còn chấp mình là thân xác mà nếu là thân xác thì không thể tránh khỏi nỗi chết. nhưng khi đã nhận ra mình không phải là cái xác thịt hư hèn này nhưng cùng với Giác Tánh thường hằng không hai thì khi ấy “ Sự chết sẽ không còn nữa, cũng chẳng có tang chế hoặc kêu khóc , hoặc đau đớn nữa”. Hiểu như thế thì Trời mới Đất mới không phải là một thứ thực tại từ ở đâu mang lại hoặc là kết quả của quá trình tiến hóa nhưng là một trạng thái tinh thần của những ai đã thấy biết được Đấng Cha ơ nơi chính mình ( Kiến Tánh ). Quan niệm về Trời mới Đất mới như thế xem ra rất khác biệt với thần học, thế nhưng cũng chẳng mới mẻ gì , cách nay nhiều thế kỷ Thánh Grégorio giám mục thành Nicée cũng nói không khác “ Đây là ngày Chúa đã làm ra khác xa với những ngày vẫn trôi theo dòng thời gian. Còn ngày nay là khởi đầu một cuộc sáng tạo khác ( Ta sẽ làm mới mọi sự ) Quả vậy trong ngày này Thiên Chúa đã làm ra Trời mới như vị ngôn sứ nói Trời nào đây ? Thưa là bầu trời của lòng tin vào Đức Kitô và Đất nào đây ? thưa là tâm hồn thiện hảo như Chúa nói tựa thửa đất thấm nhuần mưa từ trời rơi xuống làm trổ sinh nhiều giẽ lúa trĩu hạt” ( Kinh Sách các bài đọc Tập 2 )

 Nếu Trời mới Đất mới là một trạng thái tinh thần thì trạng thái ấy hẳn nhiên không phải đợi đến sau ngày tận thế hoặc do tiến hóa mà có, nhưng nó có ngay ở đây, lúc này mỗi khi Tâm ta là Tâm vô phân biệt “ Trời mới Đất mới là ở đây và ngay lúc này, điều cần thiết là biết nhận ra và đón tiếp những gì xảy đến , biết nâng tâm hồn lên để hòan tòan nhận thức được tất cả những gì đang xảy đến, biết nâng tâm hồn lên để hòan tòan nhận thức được tất cả những gì đang xảy ra ở bên trong và xung quanh mình. Nếu con không thấy được mọi chuyện , điều đó không có nghĩa là không có gì xảy ra. Mà đó chỉ là vì con đã ném tất cả ra ngòai do lòng tự mãn và tính hung hăng của con làm cho con như mù, không thấy được những điều tuyệt diệu xung quanh con.  Cho nên phải tiếp ụcc nâng tâm hồn lên, con càng nâng nó lên cao bao nhiêu con càng có thể thấy rõ chân lý bấy nhiêu, và không còn gì có thể che chắn nó nữa và làm mất tầm nhìn tòan diện của con. Một khi đã chiêm ngắm được cái tuyệt đẹpo của cảnh quan đó, con hãy hạ nó xuống, hãy sống và thưởng thức nó, chớ gì cảnh quan đó trở nên thành phần của cuộc sống mọi ngày của con. Nếu một ảo ảnhy mà không được biểu lộ bằng hình thể thì nó không phẢi là thực tại. Còn Cha nói với con hãy nhìn ngắm Trời mới Đất mới của Cha trong hình hài của hiện tại” ( Aileen Caddy Sđd ngày 9 tháng hai )
 
 Chỉ có thể nhìn ngắm Trời mới Đất mới trong hình hài của hiện tại bởi như đã nói Trời mới Đất mới là trạng thái của Tâm Vô Phân Biệt chứ không phải là một thực thể tồn tại ở đâu đó ngòai không và thời gian.  Tuy nhiên thế nào là nhìn ngắm Trời mới Đất mới trong hình hài của hiện tại ? Đó là trước bất kỳ một sự vật, một cảnh trí một con người v.v… đều không khởi ý phân biệt tốt xấu thiện ác , vinh nhục khen chê … Thấy một bình hoa biết đó là bình hoa, không khởi lên tâm phân biệt đẹp xấu đó là nhìn ngắm Trời mới Đất mới trong hình hài của hiện tại……Không khởi tâm phân biệt là sống  thực tại, trái lại là đánh mất thực tại. Tội nguyên tổ là tội phân biệt khiến cho nguyên tổ phải rời khỏi Địa Đàng ( Thực Tại )” Đức Chúa Trời phán dạy rằng, ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn, nhưng về cây biết ( phân biệt ) điều thiện, điều ác thì chớ hề ăn đến vì một mai ngươi ăn ắt là phải chết” ( Stk 2, 16 ). Tội nguyên tổ chính là ý thức phân biệt, điều ấy đã rõ, nhưng tại sao phân biệt mà lại có thể là tội ?
Bởi khi đối cảnh ( người, vật….) mà khởi lòng phân biệt đẹp xấu, thiện ác, vinh nhực…. thì nếu cho là đẹp , là thiện, vinh …tất sẽ tham đắm muốn giữ lấy, ngược lại thì sẽ sân hận ghét bỏ. Tham sân là hai phiền não gốc ở nơi con người, nó sở dĩ phát sinh là do hậu quả của tâm phân biệt tức còn thấy có ta ( tôi, mình, ngã ) trong tư tưởng lời nói việc làm. Khi đối cảnh mà Tâm không khởi phân biệt tức không tham không sân mà Tâm không tham, không sân thì phiền não cũng không. Đây là Nước Trời ở trong lòng, là bình an đích thực. Một khi Tâm đã được bình an thì sự bình an ấy sẽ chiếu giãi ảnh hưởng ra bên ngòai đến những người chung quanh, cho cả cộng đồng xã hội và như thế Trời mới Đất mới không chỉ có cho riêng mình mà cho hết thảy “ Con có trong đợi một phép lạ không ? Con có mong chờ các phép lạ cứ kế tiếp nhau kéo đến và con thì không đưa ra bất cứ một giới hạn nào ? Con càng mở rộng lòng ( Vô phân biệt ) bao nhiêu càng tốt, bởi không có gì có thể chắn ngang m đường đi của lề luật Cha bởi các phép lạ chỉ là lề luật của Cha đang họat động. hãy đi the0 đường hướng của lề luật Cha rồi tất cả có thể đến. Con hãy nhìn xem sự trọn lành của kế hoặch Cha đang phát triển, không có gì phải gấp gáp vội vã cả, khi một việc nào đó đang triển khai, nó có thể đi rất mau nhưng phải trong một sự an bình và hòan tòan thanh thản vào đúng lúc và rất chính xác. Con đừng sợ gì cả, bởi không có gì phải sợ khi đức tin và đức cậy của con đang ở trong Cha và Cha đang ở trong con. Vậy hãy nhìn xem cái trọn hảo của kế hoặch Cha đang đến bên trong con và bên ngòai nữa. Mọi sự đều bắt đầu từ bên trong và vạch ra một đường đi ra bên ngòai. Vậy đừng để cái nhìn trong con cản trở tiến trình của nó. Hãy để mọi sự xảy đến và hãy nhìn ngắm Trời mới Đất mới” ( Aileen Caddy Sđd ngày 1 tháng ba ).
 
Mọi sự bắt nguồn từ bên trong, nghĩa là con đường tâm linh chỉ có thể thực hiện bằng cách hướng nội để rồi từ đó ảnh hưởng ra bên ngòai. Chân lý này thọat nghe có vẻ đơn giản dễ chấp nhận, nhưng ntrong thực tế áp dụng thì nó vấp phải những trở lực không thể vượt. Một trong những trở lực đó là việc chấp chước nơi quan niệm Đấng TC ngọai tại. Một khi đã chấp chước vào quan niệm ấy thì việc thực hiện tâm linh không còn là con đường của mỗi cá nhân và dĩ nhiên cũng chẳng thể  nào là việc của nội tâm, do đó làm sao mà có thể nhận ra Trời mới Đất mới chỉ là một trạng thái tinh thần chứ không phải một thực thể tồn tại ngòai Tâm ? Nếu cho Trời mới Đất mới là một thực thể thì cá nhân không thể có vai trò nào cả. Cá nhân mà đã không có vai trò thì không thể nói đến Thánh hóa bản thân, đến tu tập gì nữa, mọi sự chỉ lại như trước kia tức là khóan trắng cho thần học. Khỏang mấy thập kỷ gần đây, thường nghe nói đến cụm từ Tin Mừng hóa xã hội, thế nhưng thiết tưởng nếu có Tin Mừng hóa thì cần phải Tin Mừng hóa cá nhân có nghĩa làm sao cho Tin Mừng của Đức Kitô có thể sống có thể tồn tại ở nơi mình để rồi  lan tỏa ra xã hội chung quanh.  Cũng vậy không ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không sống Tin Mừng ấy “ Tôi đã tin nên tôi mới nói” ( 2C 4, 13 ) Rao giảng Tin Mừng cũng là sống chứng nhân cho Đức Kitô bởi thế cho nên, cần phải làm sao để có thể chứng minh cho người khác chẳng những về lòng tin của mình mà còn cả những kết quả do lòng tin ấy mang lại. Kết quả ấy là sự bình an đích thực của tâm hồn do việc kết hợp với Đấng hiện hữu ở nơi mình. Chính Đấng ấy là nguồn sức mạnh, là nguồn động viên khích lệ để ta có thể thực hiện công việc Phúc Âm hóa xã hội tức đem Trơ2i mới Đất mới cho trần gian “ Lâu lâu các con phải tách mình ra khỏi thế giới để tìm đến sự bình an vượt khỏi mọi sự hiểu biết. Mỗi tâm hồn đều cần phải lắng đọng lại và điều đó chỉ có thể làm được ở trong sự bình an và thinh lặng. Một khi sự lắng đọng nội tâm đó được thiết lập con có thể đi đến bất cứ nơi đâu, và làm  bất cứ việc gì mà không sợ những xáo trộn và hỗn nđộn bên ngòai xâm lấn. Đó là đi vào nơi thầm kín của Đấng Tối Cao, đó là tìm được sự hiệp nhất với Cha để con còn có thể tiếp tục mỗi khi con tự cảm thấy mình hết hơi rồi, và không còn lê bước được nữa. Chính những bước đi trong vùng xa lạ trong đức tin trong sức mạnh của Cha mà chúng làm nên những việc kỳ diệu và thay đổi nhiều cuộc đời. Chính những bước đó biến đổi  những cái mà không thể trở nên có thể và đem Nước của Cha xuống trần gian này. Cái Trời mới đó và cái Đất mới hiển vinh đó, con hãy tiến lên tới đích đó. Hãy thay đổi và thay đổi lẹ lên, khi sự thay đổi đang cần thiết, Cha đang ở với con mãi mãi. Hãy múc lấy ở trong Cha” ( Aileen caddy Sđd ngày 27 tháng năm )

 Cần phải thay đổi hơn nữa, phải thay đổi lẹ. Tại sao thế ? bởi vì trong thời đại mới đang tới nếu không thay đổi thì mình không thể gia nhập. Phần khác cũng cần phải mau chóng thóat ra khỏi những ngục tù kiến chấp đã giam hãm mình quá lâu “ Mùa xuân đang đến yêu kiều và diễm lệ, đây mùa xuân của Thời Mới và nó cũng đang trải ra vô cùng tuyệt mỹ, con cũng góp phần nào đó và nó đem đến cho con một đời sống mới. Nó đem đến cho con một cảm giác tự do và hòan tòan phó thác. Cảm giác vượt qua được những lề lối cũ xưa và cầm tù để mở lòng ra đón chào một chân trời mới rộng thênh thang, ở đó không còn một giới hạn nào” ( Aileen Caddy Sđd ngày 1 tháng tư ). Nói đến thay đổi thì ai cũng nghĩ ngay đến cơ chế, đến hình thức bên ngòai, thế nhưng sự thay đổi bao giờ cũng bắt nguồn từ bên trong và quả thật mọi thay đổi mà ta thấy tất cả đều diễn ra ở nơi tâm, hình thức chỉ là thành hình của tư tưởng. Mọi sự đều diễn ra ở nơi Tâm, do Tâm quyết định “ Tâm làm ra địa ngục, tâm làm ra chúng sinh, tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma’ Kim Cang luận ) Nếu tất cả đều do tâm tạo  như thế, vậy tại sao ta lại không tạo ra Trời mới Đất mới nơi Tâm để cho ta có thể ngụ cư tại đó “ Con cứ tự nhiên mà tiến lên và đến ngồi vào trong Nước của Cha đang ở đây và đang chờ được thật nhiều linh hồn biết đến và ca ngợi nó. Con cầu nguyện cho Nước Cha trị đến, cho Ý Cha được thể hiện trên trần gian. Bây giờ con đừng cầu nguyện theo ý đó nữa mà hãy sống như thế” ( Aileen Caddy Sđd ngày 28 tháng hai ).
 
 Từ trước đến giờ, Kinh Lạy Cha vẫn chiếm vị trí ưu đẳng trong phụng vụ của giáo hội và một trong những lời cầu nguyện mang tính quan trọng nhất là xin cho Ý Cha thể hiện dưới Đất cũng như trên Trời. Thế nhưng trong Tin Mừng mới lại nói “ con đừng cầu nguyện theo ý đó nữa mà hãy sống như thế”. Phải chăng Chúa nói cách riêng thôi đừng cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha nữa và cách chung là đừng có đọc bất cứ một kinh nào khác ? Hòan tòan chẳng phải như vậy mà ý Chúa ở đây chỉ muốn nhấn mạnh cần phải sống đúng những  lời cầu của mình, chỉ cầu xuông ngòai miệng mà không thực hiện thì có khác nào lừa dối Chúa ? Nếu cầu xin cho có lòng tin thì hãy tin đi, nếu cầu cho có lòng trông cậy thì hãy cậy trông đi. Trong lời cầu xin cho Ý Cha thể hiện cũng vậy, nếu chỉ cầu xuông thôi mà không thể hiện thì chẳng nghĩa lý chi cả, chẳng lẽ Đấng Cha lại đi làm cái việc thể hiện đó thay cho mình ? Nếu phải đó là công việc của Đấng Cha thì Ngài không đến nỗi phải đợi chờ con người nài nẵng cầu xin rồi mới thể hiện ? Đấng Cha không thể hiện mà chính là con ngườ,  là chúng ta đây phải thể hiện Ý của Ngài. Bởi vì thể hiện Ý Cha tức là sống theo Thánh Ý Thiên Chúa mà Thánh Ý Chúa cũng chính là Thiên tính là lương tâm Giác Tánh ở nơi mỗi người. Thuận theo Tánh đó thì sống, nghịch lại thì chết “ Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong ). Cuộc khủng hỏang dữ dằn như hiện nay đang thấy mà nguyên nhân gây ra cho nó cũng không ngòai việc con người sống không thuận phục Thánh Ý Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô một lần nữa qua những “ Tiếng Thì Thầm” Ngài đã rao giảng Tin Mừng mới tất cả cũng không ngòai mục đích để cho con người tái hòa nhập với Bản Tính mình, hòa lại với mình tức là hòa lại với tòan thể sinh linh vạn vật “ Con đừng chỉ nói xuông về Trời mới Đất mới mà hãy đem nó vào chính cuộc sống của con để nó trở nên hiện thực, con đừng nói về Tình Yêu mà hãy sống nó để làm chứng cho mọi nguời thế nào là yêu. Lời nói mà không có hành động thì lời đó không có ý nghĩa gì và vô ích. Nó chẳng khác gì hơi nóng bốc lên trên không. Con phải làm sao cho Nước của Cha xuống trần thế này bằng lối sống của con, cách ứng xử của con để cuộc sống của con là một mẫu sống, một mẫu sống lạc quan mà mọi người đều muốn làm theo. Chẳng ai muốn trải qua cuộc đời này phải vất vả cực nhọc, chẳng một niềm vui và hưng phấn . Thật phúc cho ai đem niềm vui đến cho những người đang sầu khổ và thiếu ánh sáng của cuộc đời” ( Aileen Caddy Sđd ngày 19 tháng bảy).

Phùng văn Hóa

Các sách tham khảo
- Kinh Thánh Tân và Cựu ước……………………………..Hội Guideon
- Tiếng Thì Thầm………………………………………… UBĐKCG Tp HCM
- Quyền năng Chúa Giêsu Thánh Thể…………………….. Tardy Quercy ( USA )
 ( Des Miracles Aujourd’hui )
- Nho Giáo Quyển thượng………………………………. …TTHL BGD 1971
- Kim Cang thuyết giảng………………………………………HT Tuyên Hóa – NXB TG
- Đại Thừa Khởi Tín Luận……………………………………..HT Thích Thanh Từ 

 NXB TP HCM.
 Nguồn Dũng Lạc