Quanh chuyện cành đào Hồ Chí Minh gởi vào Nam |
Tác Giả: © Nguyễn Quang Duy | ||||
Thứ Ba, 02 Tháng 11 Năm 2010 16:33 | ||||
Ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý Văn Phòng Tổng Thống Ngô Đình Diệm xác nhận một Tết Nguyên Ðán, một cành đào đỏ lộng lẫy được trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Ðộc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội Miền Bắc” (Lâm lệ Trinh, trang 89). Một số người đã gắn liền câu chuyện cành đào và một vài tin đồn khác để lý luận ông Diệm và ông Nhu đã đi đêm, hoà giải, ve vãn, bắt tay, đầu hàng, …hay mắc lừa phe cộng sản. Đến đánh mất tín nhiệm và hậu thuẫn cuả Hoa Kỳ, để dẫn đến đảo chánh 1-11-1963. Nhiều người khác lại cho rằng miền Nam mất đi một cơ hội hòa bình, trung lập, không cộng sản, … Gần 50 năm qua, không ít người đã tranh luận về đề tài này. Tháng 3 -2003, trên diễn đàn Giao Điểm, nhà sử học Vũ Ngự Chiêu chứng minh việc hai ông Diệm và Nhu ve vãn nhằm bắt tay với Việt cộng. Thì chỉ đến tháng 7, cùng trên diễn đàn ông Nguyễn Ngọc Giao lại chứng minh điều trên không đúng sự thật. Cần phải nói là cả hai lập luận cùng chủ yếu dựa trên hồi ký của Mieczyslaw Maneli, nguyên Trưởng Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến Ba Lan. Sự mâu thuẫn này không phải chỉ xảy ra riêng với các nhà nghiên cứu gốc Việt. Hầu hết các học giả Tây Phương cũng mắc chung một hoàn cảnh. Một phần vì nhãn quan mỗi người mỗi khác, Maneli chỉ viết lại công việc của mình, không đề cập đến một số việc chung quanh, sinh ra nhiều câu hỏi để tùy người đọc diễn giải. Bài viết này dựa trên một số tài liệu mới từ Đảng Cộng Sản và từ Bộ Ngọai Giao Ba lan và Liên Sô, cũng như từ phía Việt Nam để làm rõ hơn vấn đề như: Có thật hai ông Diệm – Nhu muốn thương lượng với cộng sản hay không ? Chuyện cành đào có thực hay không? Hồ chí Minh có muốn thương lượng với miền Nam hay không? Thế Giới Những Năm Đầu 1960. Khi đã củng cố được quyền hành, Khruschev đề xướng một chiến lược mới cho toàn khối cộng sản. Chiến lược này chủ trương chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau. Theo đó, Liên Sô tập trung vào việc xây dựng kinh tế cho khối cộng sản, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng sản xuất. Thông qua tăng trưởng kinh tế, Liên Sô kỳ vọng đủ khả năng để ủng hộ các nước đang phát triển và ủng hộ các phong trào cộng sản trên tòan thế giới, mở rộng ảnh hưởng của Quốc Tế Cộng Sản. Phía Trung cộng không chấp nhận chiến lược trên. Họ cho rằng Liên Sô sợ chiến tranh với Mỹ, sợ bom nguyên tử của Mỹ, đầu hàng đế quốc Mỹ. Theo quan niệm của họ có chiến tranh cách mạng quốc tế càng mau thắng lợi, càng sớm tiến đến thế giới đại đồng. Phiá Hoa Kỳ, tổng thống Kennedy khi ấy vừa đắc cử đã phải đương đầu với tranh chấp ở Tây Bá Linh (Tây Đức), thất bại trong cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo (Cu Ba), và tính sai trong việc trung lập hoá Lào. Những thất bại liên tục này đã dẫn đến một chiến lược chống cộng thiếu tích cực “vừa dọa vưà đàm”. Toà thánh Vatican cũng thay đổi chiến lược chấp nhận chung sống hòa bình với những người cộng sản. Pháp thì muốn tạo lại ảnh hưởng ở các quốc gia cựu thuộc địa, vận động cho giải pháp trung lập hoá Đông Dương. Tranh chấp giữa Liên Sô và Trung cộng càng ngày càng căng thẳng. Bắc Việt càng ngày càng nghiêng về phiá Trung cộng, chủ trương xử dụng vũ trang để chiếm miền Nam . Phe Liên Sô đánh giá một Việt Nam trung lập theo đề nghị của Pháp sẽ có lợi hơn một Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung cộng. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38) Ấn Độ khi ấy lại có chiến tranh biên giới với Trung Cộng. Theo hiệp định đình chiến Genève, Ấn Độ và Ba Lan là hai quốc gia trong Phái Đoàn Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam. Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai cũng đương kim chủ tịch Phái Đoàn. Theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, vào tháng 1-1963, Ngoại trưởng Ba Lan Adam Rapacki sang thăm Ấn Độ. Ông đã được Thủ Tướng Ấn Jawaharal Nehru và Ngoại trưởng Ấn M.J. Desai tiếp đón. Trong cuộc gặp, Rapacki bàn đến một giải pháp trung lập hoá cả hai miền Nam Bắc và tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Thủ Tướng Ấn Độ Nehru cho biết Hoa Kỳ cũng muốn giải quyết những mâu thuẫn ở Việt Nam bằng giải pháp trung lập. Từ cuộc gặp trên, Rapacki đã tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ tại Ấn Độ, ông John Kenneth Galbraith để tìm giải pháp trung lập Việt Nam. Trong cuộc họp từ ý kiến riêng, ông Galbraith đã đề nghị trước tiên hai phía cùng tiến hành việc ngừng bắn trong vòng sáu tháng. (G. K. Magaret tài liệu số 1 trang 37). Trong nhật ký công tác ngày 21-1-1963, ông Galbraith xác nhận việc này. Sau đó đã báo về cho Tổng thống Kennedy đề nghị của mình. (G. K. Magaret tài liệu số 2 trang 38) Như vậy tám tháng trước ngày hai ông Nhu và Maneli gặp nhau, phiá Hoa kỳ và Ba Lan đã thảo luận về một giải pháp cho Việt Nam . Nhưng không biết vì lý do gì đề nghị cuả Đại Sứ Mỹ Galbraith đã không được tiến hành. Cũng như không hiểu giữa Mỹ và Ba Lan sau này còn có các cuộc gặp gỡ khác hay không? Maneli và các cuộc gặp gỡ hai phía Bắc Nam Cũng theo những tài liệu mới từ phía Ba Lan, trong trừơng hợp của Maneli, Ba Lan hoàn toàn không có ý định xen lấn vào nội tình Việt Nam. Thượng cấp Maneli đã chính thức cấm ông ta làm trung gian hay gặp riêng ông Nhu, ngay cả nếu ông bị áp lực từ phía Bắc Việt. Họ chỉ cho phép ông ta thực hiện vai trò giám sát quốc tế. Phía Ba Lan đã thấy được Maneli chỉ là một chuyên viên luật, không kinh nghiệm ngọai giao, thiếu kiến thức và kinh nghiệm chính trị, dễ bị vướng những bẫy ngầm làm ảnh hưởng đến phía Ba Lan. (xem G. K. Magaret) Tuy vậy, Maneli với bản tính tính cực và phấn đấu, công việc giám sát quốc tế thì lại rất nhàm chán chủ yếu chỉ viết báo cáo, lại lỡ trớn và tò mò mới xảy ra câu chuyện gặp gỡ với ông Nhu. Maneli cho biết các Đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Ram Goburdhun (Ấn độ) và Salvatore d’Asta (Tòa thánh Vatican) là những người đã trực tiếp thúc đẩy việc ông gặp gỡ ông Nhu. Gián tiếp thì có Đại sứ Anh Hohler. Do những thúc đẩy từ nhiều phía như đã kể ra, Maneli đã bay ra Hà Nội để xin ý kiến của phía Liên Sô và đã được Đại sứ Liên Sô tại Hà Nội đồng ý. Lúc này Ba Lan đang là một chư hầu của Liên Sô, sự đồng ý của Liên Sô đủ bảo kê cho cuộc gặp gỡ. Những tài liệu mới phát hiện cũng cho biết Liên Sô không mấy quan tâm đến việc Maneli muốn làm. Có lẽ cả Ba Lan lẫn Liên Sô đều đã rõ khi ấy Bắc Việt đã ngã hẳn về phiá Trung Cộng. Liên Sô chấp nhận cuộc gặp chẳng qua chỉ muốn thu nhặt thêm tin tức của cả hai phía Bắc và Nam Việt. Vào tháng 5-1963, ngay khi kế họach liên lạc với ông Nhu được chuyển cho phía Hà Nội, Maneli đã nhận ngay hồi đáp như sau: “Phạm văn Đồng xác quyết đề nghị (ngừng bắn và trung lập) của chủ tịch Hồ chí Minh và tuyên bố của chính phủ (VNDCCH) vẫn còn hiệu lực: Chính phủ nhân dân (VNDCCH) đã sẵn sàng bắt tay thương lượng vào bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai.” (M. Maneli, trang 121). Sau đó trong lần gặp gỡ Phạm văn Đồng còn khéo miệng tuyên bố: “Ông Nhu chắc chắn có khả năng suy nghĩ thực tế, vì ông đã tốt nghiệp cao đẳng (lycée) ở Chartres” Khi Maneli kể lại chuyện này cho Đại sứ Pháp ông ta đã phải thốt lên “quá thích thú, quá quan trọng” (M. Maneli, trang 122). Ngay sau đó Maneli đã gặp, và được Xuân Thủy cho biết: “… đầu tiên là trao đổi văn hóa và buôn bán (gạo đổi than) trước khi bàn đến chuyện chính trị” (G. K. Magaret tài liệu số 16 trang 59). Vài ngày sau Maneli đã nhận được một lời nhắn của phái đòan Ba Lan từ Hà Nội: “Các đồng chí Vịêt Nam rất mong tất cả chi tiết liên hệ đến việc thu xếp cho cuộc gặp với Nhu và chi tiết về cuộc gặp gỡ này” (M. Maneli, trang 123). Trưởng đòan Kiểm Soát Đình Chiến Bắc Việt, Hà văn Lâu còn gởi cho Maneli một điện tín: “Các đồng chí lãnh đạo đòi hỏi thông báo ngay tức thì những bước tiếp và mong rằng mọi việc sẽ tiến hành tốt đẹp, trước khi gặp Nhu, đồng chí cần ghé Hà Nội để thảo luận” (M. Maneli, trang 123). Đầu tháng 7-1963, Maneli trở lại Hà Nội. Lần này, Maneli được gặp Hồ chí Minh, Phạm Văn Đồng, Xuân Thuỷ và Ung văn Khiêm. Trong hồi ký, Maneli cho biết: “Tôi hỏi Phạm Văn Đồng và Xuân Thuỷ nên làm gì nếu Ngô Đình Nhu mời tới nói chuyện. Họ trả lời ngay lập tức: nhận gặp và lắng nghe. Tôi lại hỏi họ có muốn tôi nói gì (với Nhu). Họ trả lời: ‘Tất cả những gì đồng chí biết về lập trường của chúng tôi trong sự trao đổi và hợp tác kinh tế và văn hoá (giữa hai miền). Một điều chắc chắc là: Mỹ phải rút đi. Trên cơ sở chính trị ấy, chúng tôi có thể thương lượng bất cứ điều gì’”. Maneli hỏi thêm về khả năng một chính phủ liên hiệp ở miền Nam hay một hình thức liên bang Bắc Nam, Phạm văn Đồng trả lời: “Trên cơ sở độc lập và chủ quyền của Việt Nam, mọi điều đều có thể thương lượng. Hiệp định Genève đã đặt ra nền tảng pháp lý và chính trị: không có căn cứ hay quân đội nước ngoài trên lãnh thổ đất nước chúng tôi. Như thế, chúng tôi có thể đi tới thoả thuận với bất luận người Việt Nam nào.” (M. Maneli, trang 127-28). Khi nhận được dấu hiệu khuyến khích từ Đại sứ Liên Sô và biết được sự phấn khởi từ phía Hà Nội, trở vào Sài Gòn, Maneli báo cho Lalouette và d’Asta biết để thu xếp cuộc gặp với Ngô Đình Nhu. Trong cuộc tiếp tân chiều ngày 25-8 của Quyền Ngọai Trưởng VNCH Trương Công Cừu, các ông Lalouette, d’Orlandi, Goburdhun and d’Asta đã giới thiệu Maneli với ông Nhu. Ông Nhu đã vui vẻ ngỏ lời mời Maneli thu xếp gặp riêng. Ngay ngày hôm sau văn phòng của ông Nhu đã liên lạc và hẹn cuộc gặp vào sáng ngày 2-9-1963. Trong cuộc gặp gỡ tại dinh Độc Lập, Maneli cho biết ông Nhu dành cả hai tiếng đồng hồ nói về chủ nghĩa cần lao nhân vị, chính sách ấp chiến lược, thành quả cuả Việt Nam Cộng Hoà .v.v… Riêng về vấn đề hiệp thương giữa hai miền Nam-Bắc, Maneli cho biết ông Nhu chỉ có ý như sau: “…Tôi không chống lại việc đàm phán và hợp tác với miền Bắc, và như ông biết, nhiều nhà ngoại giao phương Tây đã đề nghị với tôi. Ngay trong những trận giao tranh tàn ác nhất, người Việt Nam cũng không quên ai là người Việt, ai là ngoại quốc. Nếu có bắt đầu đối thoại trực tiếp, thì có thể tiến tới xích lại gần. Và Uỷ hội quốc tế – cũng như bản thân ông – sẽ đóng vai trò tích cực ở đây… Trong tương lai gần, tôi không dự liệu điều gì dẫn tới nói chuyện trực tiếp, nhưng sớm muộn có thể sẽ hé ra khả năng…” (M. Maneli, trang 146) Như vậy ông Nhu chưa có một ý để đi xa hơn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo cộng sản Bắc Việt. Ngay sau cuộc họp Maneli đã báo cáo về Ba Lan với một kết luận như sau “Những tuyên bố thiếu vững chắc của ông Nhu chính là kết qủa của sự bất ổn và kỳ vọng cây cầu với người Mỹ vẫn chưa bị đốt cháy”. (Magaret K. G. tài liệu số 21, trang 67) Phần vì tò mò phần vì muốn thâu nhặt tin tức, Maneli đã đặt câu hỏi về mối liên lạc hay đàm phán trực tiếp giữa hai miền Nam-Bắc với ba ông Nhu, Thủy và Đồng. Xuân Thủy vừa giỡn vừa trả lời: “Có phải ông thực sự tưởng tượng rằng chúng tôi thương lượng hay đồng ý với ông Nhu?” (M.K. Gnoinska, trang 147) Ông Nhu và ông Đồng thì cho biết đây chỉ là những lời đồn đãi: “Ông Nhu hỏi lại, có phải ông đã chịu thua dư luận? đó chỉ là chuyên đùa” (Maneli, trang 147) và ông Đồng có cùng chung phản ứng đã hỏi lại “Có phải đồng chí đã tin vào những câu chuyện như vậy hay không?” (Maneli, trang 147) Sau 1/11/1963, Phạm văn Đồng đã giải thích cho Maneli các nguồn tin từ tướng đảo chánh về các cuộc đàm phán Bắc Nam như sau: ”Đó chỉ là giả dối, phe đảo chánh thông báo tin này chỉ để giải thích lý do phản lại Diệm”. (G. K. Magaret tài liệu số 21, trang 67) Ngay chiều hôm đó, ông Nhu đã tiếp Đại sứ Hoa kỳ Lodge, Đại sứ Ý d’Orlandi và Khâm sứ tòa thánh Vatican d’Asta. Ông Nhu cho biết về cuộc gặp gỡ với Maneli vào ban sáng. Ông Nhu nói Maneli đã yêu cầu ông chú ý đến tuyên bố của De Gaulle và Hồ Chí Minh về giải pháp trung lập Việt Nam và tiến hành tổng tuyển cử, rồi hỏi ông Nhu muốn chuyển lời gì cho Phạm Văn Đồng. Ông Nhu trả lời “Chẳng có gì cả.” Không một dấu hiệu nào cho thấy ông Nhu muốn tiếp tục quan hệ với Maneli trong vai trò “đi đêm” với Hà Nội. Cuộc gặp gỡ tại Dinh Độc Lập cho thấy ông Nhu chỉ muốn chứng minh với Hoa Kỳ rằng nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi ông ta có khả năng thương lượng trực tiếp với Bắc Việt. Không như ông tính đây lại chính là bằng chứng duy nhất để phía Hoa Kỳ lập luận ông Nhu muốn thay đổi chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ. Ngược lại phía Bắc Việt lại rất mong Maneli đứng ra làm trung gian. Trước khi xem xét về phía Bắc Việt thật giả ra sao người viết sẽ phân tích một vài tin đồn khác có liên quan. Chuyện đồn Ngô Đình Nhu gặp Phạm Hùng Ông Cao Văn Vỹ cho biết trong một chuyến đi săn với ông Nhu và trung tá Bường (tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận) tại khu rừng Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, ông Nhu đã bí mật tiếp xúc với hai người. Ông Vỹ và trung tá Bường cả hai đều không được tham dự buổi họp. Họ chỉ quan sát từ phiá ngoài, ông Vỹ chỉ biết ông Nhu ngồi trong lều săn nói chuyện với hai người, nhưng không biết là ai, vì lúc đó là ban đêm. Theo ông, có lẽ trung tá Bường biết vì chịu trách nhiệm an ninh và tổ chức cuộc gặp gỡ. (Vĩnh Phúc, trang 336) Ông Quách Tòng Đức cho biết: “Chính ông Nhu có nhắc đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán bộ xây dựng Ấp Chiến lược khóa 13.” (Lâm lệ Trinh trang 98) Ông Trần văn Đôn tìm hiểu và biết rõ nhân vật ông Nhu gặp trong rừng Tánh Linh chính là Phạm Hùng (Trần văn Đôn trang 183) Thực ra vào năm 1963, Phạm Hùng là uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam, phó thủ tướng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Do đó ông họat động tại miền Bắc. Trong khi ấy, người lãnh đạo Trung ương cục miền Nam là ông Nguyễn Văn Linh. Năm 1964 tướng Cộng sản Nguyễn Chí Thanh lên thay. Tháng 7 năm 1967, tướng Thanh trên đường về Bắc nhận chỉ thị tổng tấn công Mậu Thân bị bom chết dọc đường. Phía cộng sản đưa tin ông Thanh đột ngột qua đời ở Hà Nội do bị đau tim. Tháng 10 năm 1967, Phạm Hùng mới vào Nam thay thế tướng Thanh. Phạm Hùng thuộc phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, chủ chiến không chấp nhận thương thuyết với miền Nam . Tin đồn Ngô đình Nhu gặp Phạm Hùng đã được cựu đại sứ William Colby ghi trong hồi ký của ông. Colby còn cẩn thận ghi thêm “Giai thoại này có thể là chuyện bịa” (xem Nguyễn Ngọc Giao) Chiếu theo bản tóm lược về Mục tiêu cuả Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, tháng 9 năm 1963, nhiệm vụ cuả các nhân viên Hoa Kỳ là phả: ”… Ngụy tạo những tài liệu liên kết Nhu với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Hà Nội) làm cho Nhu mất tín nhiệm với các tướng lãnh…” (Phạm Văn Lưu, trang 246). Ở thời điểm này, ông William Colby đang làm vụ trưởng Vụ Viễn Đông của Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ (CIA). Câu chuyện biết đâu lại do chính Colby bịa rồi cho CIA tung ra trước ngày đảo chánh. Sau hơn 35 năm, Cộng Đồng Người Việt Hải Ngọai vẫn không chấp nhận mọi liên lạc với nhà cầm quyền cộng sản. Người miền Nam lúc ấy so ra chỉ chưa đầy 9 năm thoát khỏi Việt Minh. Cá nhân ông Nhu lại xác nhận có liên lạc với cộng sản. Hiểu được như vậy mới thấy Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ quá sức thâm độc khi đề ra nhiệm vụ nói trên. Đây chính là ngòi nổ cho cuộc đảo chính 1/11/1963 và dẫn đến sự hy sinh của anh em ông Diệm. Trở lại câu chuyện ở rừng Tánh Linh, không thấy ông Vỹ nhắc đến việc bảo vệ ở phía bên kia, như vậy chỉ có 3 người họp và 2 người bảo vệ vòng ngoài. Một cuộc họp như vậy chỉ có thể xảy ra khi hai bên cùng một phía và phải hết sức tin tưởng nhau. Như vậy có thể hai người được ông Nhu gặp là gián điệp Quốc gia về trực tiếp báo cáo tình hình với ông Nhu. Chuyện đồn từ những người đi từ miền Bắc Ông Trần Hùng Văn một nhà báo đi từ miền Bắc cho biết ông Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công An Bắc Việt, được lệnh vào Nam để thu xếp cuộc gặp giữa hai ông Ngô đình Nhu và Phạm Hùng. (Vĩnh Phúc, trang 339-340) Nguyễn Tài sau khi vào Nam bị quân đội Quốc Gia bắt. Sau năm 1975 ông lại bị Lê Đức Thọ giam lỏng để điều tra. Ông Tài có viết hồi ký cho biết Lê Đức Thọ đã từng nói thẳng với ông bị bắt sao không chịu chết đi. Xuyên suốt hồi ký hình như Nguyễn Tài vẫn thắc mắc không biết tại sao Lê Đức Thọ lại đối xử quá nghiệt với mình (một đồng chí trung kiên) như vậy. Câu trả lời có thể là chính Lê Đức Thọ tung tin Nguyễn Tài làm trung gian giữa hai ông Nhu và Phạm Hùng. Lê Đức Thọ không ngờ rằng ông Tài còn sống để cho chúng ta biết rằng ông đã được điều động vào Nam năm 1964. Khi ấy ông Nhu đã về đất Chúa. Liên lạc để kêu gọi chiêu hồi Tháng 4-1963, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) ban hành chính sách Chiêu Hồi. Ông Nhu cũng nhiều lần xác nhận có liên lạc với Việt Cộng để thuyết phục họ mang quân về hàng. (Chính Đạo, trang 309) Ông Nguyễn văn Chức, một nhân sỹ tại Canberra, đã kể cho người viết và rất nhiều đồng hương câu chuyện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đã có ý định xin hàng. Ông Chức trước đây ngoài làm cho Đài Gươm Thiêng Ái Quốc, ông còn dịch và thẩm định những tài liệu cuả cộng sản. Ông Chức cho biết sau Biến Cố Mậu Thân, trong một trận phục kích quân đội VNCH đã bắn chết 1 cán bộ, 2 giao liên và thâu được một tài liệu quan trọng. Theo tài liệu này một số cán bộ cao cấp cuả MTGPMN đã họp bàn với ý định mang toàn thể MTGPMN ra hàng. Nhiệm vụ của người cán bộ bị phục kích là mang tài liệu nói trên đến một số cán bộ cao cấp khác cũng có ý định ra hàng. Cơ quan tình báo Hoa Kỳ cho dịch tài liệu này ra Anh ngữ. Ông chức được giao trách nhiệm thẩm định tài liệu. Ông chức đã kết luận đây là một tài liệu thực, nhưng không biết Hoa kỳ có sử dụng tài liệu này hay không ? Xem chủ trương cuả Hồ chí Minh về MTGPMN: “Mình phải đưa Mặt trận Dân tộc Giải Phóng ra. Phải chú ý đến bọn leo nheo, theo đóm ăn tàn…” (HCM, BNTS, tập 8, trang 368) Rồi mới thấy ông Nhu đã nhìn ra tổ chức này để đề ra chính sách Hồi Chánh. Đến năm 1974, sau 10 năm chính sách Hồi Chánh được ban hành, đã có trên 200.000 hồi chánh viên. Nhiều đơn vị cộng sản cấp đại đội, tiểu đoàn đã ra hồi chánh tập thể. Hồi Chánh là một chính sách nhân đạo và thành công nhất của chính quyền Quốc Gia, nhưng lại ít hay không được giới sử gia để ý tới. Sau 1968, Bắc Việt đã công khai điều động chiến tranh xâm lược miền Nam. Năm 1975, họ cho quân chính quy trực tiếp vượt vĩ tuyến 17, đánh chiếm miền Nam, rồi vội vàng giải thể MTGPMN. Nhiều cán bộ MT cao cấp đã bị bắt, bị quản thúc hay phải trốn tránh ra hải ngoại. Hà Nội phải mang cả một guồng máy cầm quyền từ miền Bắc vào áp đặt lên miền Nam . Hy vọng tài liệu về MTGPMN xin hàng sẽ được tìm thấy trong núi hồ sơ cuả CIA để chúng ta hiểu rõ hơn về tổ chức này. Hoa kỳ quyết định đảo chánh ngày 24-8-1963 Song song với việc bổ nhiệm Đại Sứ Henry Cabot Lodge, phe chủ chiến Hoa kỳ M – W. Averell Harriman, Roger Hilsman, Ball, Getsinger và V. Forrestal, đã đồng ký một công điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation immediate). Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã góp ý kiến vaò việc soạn công điệp này. Công điện đã được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24-8-1993. Công điện ghi rõ: “Chính phủ Hoa Kỳ không thể để cho Nhu nắm quyền hành trong tay. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể tìm được. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và đối kháng, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại.” (Nguyễn kỳ Phong, hình công điện bià sau sách) Như vậy việc lật đổ Chính phủ Ngô đình Diệm đã được quyết định trước ngày Maneli gặp ông Nhu. Tất cả những tin đồn, tin chính thức, báo cáo chỉ được dựng lên hay thêm bớt nhằm thực hiện chỉ thị trên. Tranh chấp giữa hai phe lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt Từ những năm đầu 1950, Trung Cộng đã trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, chỉ đạo cuộc chỉnh huấn (một hình thức thanh trừng nội bộ) và cuộc cải cách ruộng đất. Mao Trạch Đông không hề che giấu ý đồ dùng Đông Dương làm bàn đạp và đảng Cộng sản Việt Nam làm công cụ để bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Do đó không lạ gì khi thành phần công khai thân Trung Cộng như Lê Duẩn (bí thư), Lê Đức Thọ (Tổ Chức Đảng), Trần Quốc Hoàn (Công An), Nguyễn chí Thanh (Quân Đội), … nắm đa số lãnh đạo miền Bắc. Phe thân Nga chỉ là thiểu số, họ lại còn bị mang tiếng là thiếu tích cực thống nhất đất nước, không cổ vũ việc “giải phóng” miền Nam. Về mặt chìm phe thân Trung Cộng luôn luôn thắng thế, như Hội nghị lần thứ 15 cuả Trung Ương tháng 1-1959, bí mật ra quyết định điều động bộ đội miền Bắc chuyển vũ khí vào Nam, để tiến hành võ trang thống nhất đất nước. Hay Nghị Quyết 49/NQ/TVQH, được Quốc Hội Cộng Sản ban hành ngày 20-6-1961, cho phép bắt giam công dân 3 năm không cần thủ tục tố tụng. Chiếu theo Nghị Quyết này hàng trăm, cán bộ lãnh đạo thân Liên Sô sau này đã bị bắt giam không cần xét xử và nhiều người đã chết trong tù. Qua báo Nhân Dân có thể thấy nhiều xung đột xảy ra công khai giữa hai phe nhóm kể trên. Qua những tài liệu có được, việc nghiên cứu quá trình xung đột giữa hai nhóm này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về giai đọan lịch sử này. Ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Sô), Hồ chí Minh chính thức xác nhận bản chất đánh thuê của tập đoàn Cộng sản Bắc Việt, (tự ví là “bộ đội biên phòng”): “Như vậy là ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hoà bình toàn thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (HCMTT, tập 8, trang 258) Tháng 11-1960, Hồ chí Minh tham dự “Đại Hội Mạc Tư Khoa”, đồng ý ký vào Tuyên Bố chung, đồng thuận với chiến lược thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau do Liên Sô đề xướng. Ngày 2-10-1961, dự phiên họp Bộ Chính trị, Hồ chí Minh giải thích lý do theo Liên Sô như sau: ”… Miền Nam đối với Mỹ rất quan trọng. Trước nó nói “Bắc tiến”, nay nó nói “Nam trị”, nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu Bắc Tiến. Nó sợ mình đánh nó. Địch quân sự mạnh nhưng chính trị yếu. Ta, chính trị mạnh nhưng quân sự yếu. Nếu lấy sức độ sức để tiêu hao thì không lợi. Ta không lấy đấm chọi đấm mà lấy mưu mẹo diệt nó, trừ bọn ác đi bảo vệ cơ sở, phong trào dân sẽ lên…” (HCM, BNTS, tập 8, trang 150) Chủ trương này được các phe nhóm trong đảng Lao Động chấp nhận cho đến khoảng đầu năm 1963. Ngày 1-1-1962, trên báo Nhân Dân có đăng “Lời chúc tết đồng bào cả nước”, trong đó Hồ chí Minh nhận xét “… lực lượng xã hội chủ nghĩa hơn hẳn lực lượng đế quốc, lực lượng hoà bình hơn hẳn lực lượng chiến tranh.” Và công khai đề nghị: ”Chúng ta luôn luôn chủ trương rằng: Thống nhất Việt Nam là sự kiện thiêng liêng cuả toàn dân Việt Nam . Đại diện của hai miền có thể gặp nhau, cùng nhau bàn bạc, tìm con đường tốt nhất để hoà bình thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở độc lập, dân chủ như Hiệp định Giơ-ne-vơ đã quy định.” (HCMTT, tập 9, trang 272) Ngày 28-3-1962, để trả lời phóng viên báo “Tin Nhanh Hàng Ngày” ở Luân Đôn (bài này đã được đăng trên báo Nhân Dân), Hồ chí Minh khống thiết kêu gọi: “Chính phủ nước VNDCCH đã nhiều lần đề nghị với chính quyền miền Nam, hai bên phái đại diện gặp nhau để bàn bạc cách giải quyết theo phương pháp hòa bình, và vưà rồi, trong bản Tuyên Bố ngày 18-2-1962, chính phủ nước VNDCCH lại một lần nữa yêu cầu hai chủ tịch và các nước tham gia Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương nghiên cứu gấp những biện pháp có hiệu qủa để chấm dứt cuộc vũ trang xâm lược của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, nhằm bảo vệ hòa bình cuả Đông Dương và Đông Nam Á. Việc miền Nam theo chế độ trung lập hay một chế độ nào khác là do nhân dân miền Nam quyết định… Chính phủ nước VNDCCH đã từng đề nghị (Công hàm ngày 22-12-1958) với chính quyền miền Nam bình thường hoá quan hệ giữa hai miền về mặt kinh tế và văn hóa, về việc đi lại và thư tín giữa hai miền, v.v…” (HCMTT, tập 9, trang 319-320) Ngày 22-7-1962, trả lời phóng viên báo Tin Tức và Sự Thật Thanh Niên (Liên Sô) về đường lối và biện pháp Hồ tuyên bố: “Chúng tôi luôn luôn chủ trương thống nhất tổ quốc bằng đường lối hòa bình, luôn luôn đòi phải thực hiện đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vờ, đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào chuyện nội bộ Việt Nam”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 267) Ngày 6-11-1962, kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng 10 Liên Sô, Hồ đã gởi điện tới Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô trong đã nhấn mạnh: “Từ ngày thành lập Liên Sô luôn luôn thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và kiên trì đấu tranh cho chính sách chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.” (HCM, BNTS, tập 8, trang 317) Ngày 22-1-1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội. Ngày 26-1, Hồ chí Minh và Novotny đã ký một Tuyên Bố Chung phản ánh quan điểm của Liên Sô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.” Ngay sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai phe trong đảng Lao Động căng thẳng hơn. Ngày 17-2-1963, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị, Hồ chí Minh đã phải yêu cầu “đoàn kết nhất trí trong đảng” trước tình hình hiện nay. Về vấn đề trung lập, Hồ đã phải gỉai thích như sau: “Mỹ bối rối, mình đề xướng trung lập. Đó là thắng lợi của mình. Nói hai bên đình chiến, mình không đánh, đình chiến gì?” (HCM, BNTS, tập 8, trang 367) Kết quả, Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm vì đã soạn thảo Tuyên Bố Chung và bị thay bằng Xuân Thủy. Nguyễn văn Trấn cho biết Hồ chí Minh đã đọc và sửa lại bản nháp của bản Tuyên Bố nhưng làm ngơ, tránh trách nhiệm (NVT, trang 328). Đây là lần đầu Hồ chí Minh bán phe thân Liên Sô để nhập vào hàng ngũ thân Trung Cộng. Nhờ đó mới dẫn đến thắng thế đầu tiên của phe chủ chiến chuẩn bị cho chuyến thăm Hà Nội vào tháng 5-1963 của Chủ tịch Trung Cộng, Lưu Thiếu Kỳ. Chuyến thăm này đưa Bắc Việt đứng hẳn về phía Trung Cộng, Hồ và Lưu Thiếu Kỳ ký một Tuyên Bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào Cộng sản Quốc tế. Trong vòng chưa đầy 4 tháng, hai Tuyên Bố Chung phản ảnh hai quan điểm trái ngược, Hồ đã chuyển hẳn từ nhóm thân Nga sang nhóm thân Tàu. Cần nhắc lại vào tháng 7, Maneli gặp Phạm văn Đồng và Xuân Thủy có cả sự hiện diện của Hồ chí Minh. Theo Hồi ký của Maneli, Hồ chỉ lắng nghe hai phía và không có ý kiến gì. Trong khi Maneli gặp ông Nhu thì Hồ chí Minh đang nghỉ mát tại Quảng Đông, Trung Quốc. Hồ họp riêng với Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và đã tuyên bố như sau: “Đừng nói là phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn!”. (HCM, BNTS, tập 8, trang 457) Câu tuyên bố trên chỉ nhái lại khẩu hiệu: “Đánh đế quốc, đánh, đánh, đánh, đánh cho đến thắng lợi” do Mao Trạch Đông đề ra, nhằm biểu lộ chủ trương hiếu chiến và lòng trung thành cuả Hồ với Mao. Cùng lúc ấy, một bài báo của Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong bài, nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng. Bài báo là một bước trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 tiến hành vào tháng 11 cùng năm. Ngày 20-10-1963, Hồ chí Minh tiếp đoàn Đại biểu viện kiểm soát tối cao Liên Sô do ông R.A.Rutencô làm trưởng đoàn. Hồ tuyên bố: “Để hoà bình giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam hiện nay, chỉ có một cách là: Đế quốc Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, vấn đề miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự gỉai quyết lấy, như hiệp định Giơnevơ đã quy định”. (HCM, BNTS, trang 471) Tuyên bố này được đăng báo Nhân Dân 24-10-1993, như vậy Hồ đã chính thức từ bỏ chủ trương chung sống hoà bình cuả Liên Sô. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam. Bùi Công Trừng đã kể lại cho Nguyễn văn Trấn như sau : “ Cái thằng Lê Đức Thọ trước giờ họp, nó đi đi, lại lại trong phòng, như thể đội trưởng một tổ pháo đi kiểm tra đốc thúc pháo binh chuẩn bị… Tao đếm lão Hồ, đưa tay mấy lần, lần nào thằng Thọ cũng kịp ngăn : ‘Bác hãy để cho anh em nói mà’…” (NVT, trang 328) Phe thân Liên Sô chưa biết họ đã bị Hồ chí Minh bán sống nên Lê Đức Thọ mới dám lộng quyền như trên. Sau Hội nghị Trung Ương lần thứ 9, nhóm Lê Duẩn tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Sô, Khrushchev, cổ vũ). Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của Lê Đức Thọ, được đăng trên báo Nhân Dân, đã thừa nhận một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm… những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn – Lê Đức Thọ trong Hội nghị 9. Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị Trung Ương 9. Tại hội trường Ba Đình, tháng 1-1964, trước các cán bộ cao và trung cấp học tập nghị quyết 9, Trường Chinh tuyên bố : “Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Đảng Cộng Sản và nhà nước Trung Quốc.” (Nguyễn minh Cần, trang 129) Chiến lược kinh tế của Liên Sô cũng hoàn toàn thất bại ở miền Bắc Việt Nam . Qua tuyên truyền trên báo chí, miền Bắc luôn luôn đạt kế hoạch đảng giao. Qua biên bản Hội Nghị Bộ Chính Trị và qua lời Hồ chí Minh thực tế khác xa: “Từ ngày hòa bình lập lại năm nào cũng thấy có thuận lợi, có khó khăn và năm nào cũng không đạt kế hoạch. Tình hình mỗi ngày một căng thẳng. Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể phải giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá.” (HCMBNTS, tập 8, trang 272) Sau 1975, sự nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất được giải thích là để miền Bắc tập trung giải phóng miền Nam . Chẳng qua chiến tranh chỉ là cái cớ để đảng Cộng sản che dấu thất bại về xây dựng kinh tế. Trở lại chuyện cành đào Ông Cao Xuân Vỹ cũng nhớ là vào tết nguyên đán năm 1963, Hồ chí Minh đã nhờ Đại sứ Ấn Độ trong Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển tết ông Diệm một cành đào. Tổng thống Ngô đình Diệm chỉ biết khi món quà xuân đã về đến Dinh Độc Lập. Ông Diệm cho lệnh mở ra thấy có cành đào, một tấm thiệp chúc tết đề đại khái “Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kính tặng, chúc tết Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà” và một lá thơ ông Hồ gởi cho ông Diệm. (Vĩnh Phúc, trang 336) Trên báo Con Ong Tỵ Nạn tại Paris, vào năm 1981, có phổ biến “Bức chúc thư của Hồ chí Minh” trong đó có đoạn: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi còn chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân viên Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân tình yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong tình anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam .” Rất nhiều người tin đây là chúc thư thật với thủ bút cuả Hồ chí Minh. Bài viết này không đánh giá bức chúc thư là thật hay giả. Nhân vật Hồ chí Minh đã tự viết sách tự ca ngợi là cha già dân tộc thì còn việc gì không dám làm. Nếu là thật, Hồ chí Minh nên dành nỗi thương tiếc “cụ Ngô” cho hằng trăm “đồng chí” tin Hồ và thân Liên Sô đã bị Hồ bỏ rơi chết trong tù hay trong đọa đày lao khổ. Kết Qua bài có thể thấy câu chuyện hai ông Diệm và Nhu muốn thương lượng với miền Bắc chỉ là một thế cờ (dọa Mỹ) tính sai nước. Người Mỹ đã phản phé nước cờ một cách tàn nhẫn lấy lý do trên. Ngược lại trong cuộc hội thảo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức vào cuối tháng 9/2010 vừa qua, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger lần đầu tiên thú nhận “… Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam là do chính người Mỹ làm ra,… Nước Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng.” Người Mỹ đổ quân vào Việt Nam sau khi ông Diệm đã chết cũng chỉ muốn thảo hiệp trong thế mạnh nào ngờ đã sa lầy tại Việt Nam. Trong khi đó, Hồ chí Minh và đảng cộng sản công khai chấp nhận làm “tiền đồn” đánh thuê cho phe cộng sản và xung đột để chọn giữa hai ông chủ Liên Sô và Trung Cộng. Cả hai phe đều chủ trương thống nhất Việt Nam. Phe Liên Sô, muốn dùng giải pháp chính trị thương lượng với miền Nam . Nếu bắt tay được với miền Nam là một thắng lợi lớn của phe này. Phe Trung Quốc thì chủ trương đánh để giải phóng miền Nam và thực hiện chiến lược bành trướng phong trào Cộng sản xuống các nước Đông Nam Á. Cuối bàn xin dùng một hình ảnh dễ nhớ làm kết luận. Ở miền Nam, anh em ông Ngô Đình Diệm bị người Mỹ trói tay chỉ biết la làng. Từ miền Bắc, Hồ chí Minh một tay đưa tặng cành đào, tay khác dấu đằng sau con dao nhọn. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thì đằng đằng sát khí “cầm gươm ôm súng xông tới” vượt sang miền Nam. Ông chủ Liên Sô, Khruschev, buồn rầu không biết sao gíup đàn em. Ông chủ Trung Cộng, Mao trạch Đông cười toe toét miệng la lớn “hẩu hẩu” khen thưởng đàn em. Hình ảnh trên cũng bộc lộ toàn bộ cuộc chiến Bắc – Nam 1954-75. Melbourne, Úc Đại Lợi
Chánh Đạo, 2004, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, Văn Hoá, Houston, Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, 1996, Tập 8, Đặng Xuân Kỳ chủ biên, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh Toàn Tập, 1989, Tập 8 và Tập 9, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội. Gnoinska K. Magaret, 2005, Poland and Vietnam , 1963: New Evidence on Secret Communist Diplomacy and the “Maneli Affair”, Working Paper No 45, Cold War International History Project, Woodrow Wilson International Center for Scholar. Lâm Lệ Trinh, 2006, Về Nguồn Sinh Lộ Cho Quê Hương, Thủy Hoa Trang , California , Hoa Kỳ. Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished, translated from the Polish by Maria de Gorgey, Harper & Row, New York , 1971. Nguyễn Ngọc Giao, 1963 : Tìm hiểu cuộc “ đi đêm ”giữa Sài Gòn và Hà Nội, Diễn Đàn số 131 tháng 7.2003. Nguyễn minh Cần, 2001, Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Quốc Tế Cộng Sản, Tuổi Xanh xuất bản. Nguyễn Tài, Khúc khuỷu đường đời – Mười một năm liên tục đấu tranh để sự thật và lẽ phải được thừa nhận, talawas Nguyễn Kỳ Phong, 2006, Vũng Lầy Bạch Ốc: Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tủ Sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ. Nguyễn văn Trấn, 1995, Viết Cho Mẹ Việt Nam, Văn Nghệ, Hoa Kỳ. Phạm Văn Lưu, 1994, Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại: Ngô Đình Diệm và Bang Giao Việt Mỹ 1945-1963, Centre for Vietnamse Studies. Vĩnh Phúc, 1998, Những Huyền Thoaị và Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm, Văn nghệ, California , Hoa Kỳ. Vũ Ngự Chiêu, Tướng Dương Văn Minh và Đệ Nhất Cộng Hoà , Diễn Đàn số 127 tháng 3.2003.
|