Công nhân và cô dâu Việt xứ Ðài (Kỳ 3) |
Tác Giả: Hà Giang / Người Việt | |||
Thứ Hai, 11 Tháng 10 Năm 2010 09:45 | |||
Khi chính phủ biến công dân thành 'con nợ' ÐÀI LOAN - Trong một căn phòng trang trí đơn giản, vừa được dùng làm phòng ăn, vừa là phòng học, ở Ðào Viên, Ðài Loan, gần 40 thanh niên thiếu nữ Việt Nam, tuổi từ 24 đến 30, ngồi quay quần trên những chiếc bàn dài, dùng bữa trưa thanh đạm.
Mặt hằn những nét suy tư, mỗi người chìm đắm trong một nỗi niềm riêng, nhưng họ có chung một hoàn cảnh: Họ cùng đang nương náu ở đây, “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam,” do Linh Mục Nguyễn Văn Hùng điều hành, ủy thác hết những khó khăn của họ vào văn phòng, để nhờ giúp đỡ. Cách đây không lâu, có thể là một, hai, hay ba năm trước, họ là những người trẻ Việt Nam rời quê hương, hân hoan với giấc mơ đi tìm cho bản thân và gia đình một tương lai bớt nghèo túng. Nhưng giờ đây, không những giấc mơ kia đã tan vỡ, cuộc đời họ cũng đang gặp những bế tắc, chờ tìm lối thoát. Ước mơ mang dáng dấp tật nguyền Như hoàn cảnh của em Lê Thân, 30 tuổi, quê ở Hưng Yên. Em qua đây hợp tác lao động được bảy năm. Lần xuất khẩu lao động đầu tiên, em may mắn để dành được một ít tiền mang về nước, nhưng khi quay lại lần thứ hai, em lâm nạn! Lê Thân cho phóng viên nhật báo Người Việt biết, nhờ có chút kinh nghiệm trước, em được làm phụ tá quản lý cho một công ty thiết bị dụng cụ y tế cho người già, nhưng trong đợt đi làm công nhân đợt hai này, gặp phải lúc công nhân bỏ trốn nhiều quá vì điều kiện làm việc khó khăn, quản lý ngặt nghèo, lương trả không đúng, nên họ bỏ trốn. “Công ty em bỏ trốn hơn 20 người. Em làm quản lý, nên em cứ bị chủ gọi lên ‘chửi,’ vì họ bắt em chịu trách nhiệm.” Thân tâm sự. “Chủ bắt em phải đi lùng bắt những người bỏ trốn, tình trạng rất căng thẳng, em thấy không thể tiếp tục làm việc được.” Thân cho biết, sau nhiều ngày suy nghĩ, em định hủy hợp đồng bỏ về nước sớm, nhưng nghĩ đến món nợ ở nhà, lại không dám về. Cuối cùng Thân quyết định bỏ trốn vào ngày 12 tháng 12, 2008, vì sáng hôm đó “bà chủ bảo bà ấy sẽ chở em ra bến xe, rồi em phải đi rình tìm những người bỏ trốn, tìm nếu thấy họ thì gọi phôn cho cảnh sát để đi bắt về.”
Họ đến để ủy thác hết những khó khăn của họ vào văn phòng, nhờ giúp đỡ. (Hình: Hà Giang/Người Việt) Bỏ đi được vài ngày thì Thân xin được việc làm ở trại chăn heo, và đến ngày 17 tháng 12, em bị tai nạn, cụt mất một chân. “Văn phòng cha Hùng đang giúp đỡ em thưa kiện đòi chủ bồi thường. Chủ đưa ra con số là 300,000 Ðài Tệ, khoảng $9,000, em không chịu, vì viện phí em phải chi trả là hơn 400 ngàn tiền đài, chân giả hết gần $100 ngàn.” Thân cho biết. Rất may là nhờ văn phòng cha Hùng bảo lãnh, Thân được ở đây hợp pháp trong khi chờ đợi kết quả vụ án. “Dù em mong được đền một số tiền khá một chút, để có tiền trang trải nợ nần, nhưng dù có bao nhiêu tiền, em cũng thành kẻ tật nguyền mất rồi.” “Dù em mong được đền một số tiền khá một chút, để có tiền trang trải nợ nần, nhưng dù có bao nhiêu tiền, em cũng thành kẻ tật nguyền mất rồi.” Em Hạnh, 28 tuổi, quê ở Bắc Giang, phản đối việc bị bóc lột, nên bị chủ hủy hợp đồng sớm và môi giới đòi đuổi về nước. “Em ở đây mới được bảy tháng, chủ gọi môi giới đến bảo là em không ngoan, nếu không thay đổi thì phải đi về nước.” Hạnh cho biết em làm trong một viện dưỡng lão. Sau khi bị chủ đe dọa, em cố gắng nhịn nhục, “làm việc quần quật ngày từ 12 đến 18 tiếng, nhưng chỉ được trả lương ngày 9 tiếng rưỡi, thêm được 4 tháng nữa” nhưng “cũng không yên.” Lý do? “Họ lấy của em hai ống máu, nhưng khi nộp máu của em lại để tên người khác, sau em khám phá ra là họ dùng máu của em để nộp hồ sơ nhân viên ma, và lại thắc mắc, nên kỳ này chủ nhất định hủy hợp đồng sớm.” Hạnh đang nương náu ở “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam,” để nhờ giúp đỡ kiện chủ đòi số lương trả thiếu và bắt buộc phải cho làm việc hết hợp đồng. “Em muốn về Việt Nam với gia đình lắm, nhưng không thể bỏ cuộc, vì về bây giờ là tiền đóng cho môi giới bị mất hết” Hạnh chia sẻ. Những nỗi niềm người mẹ Bà Riếp, 52 tuổi, quê ở Bến Tre, có con gái làm cô dâu Ðài Loan, chết ngày 28 tháng 6, được cảnh sát Ðài Loan viết thư về Việt Nam gọi qua nhận xác con. Bà đến Ðài Loan vào ngày 1 tháng 9. Bà Riếp khóc và cho phóng viên nhật báo Người Việt biết, là cảnh sát nói con bà tự tử, nhưng bà đã vào thăm xác con và không tin. “Tôi vừa qua đến đây thì bị cảnh sát Ðài Loan ép phải ký giấy thiêu xác con, nhưng con chết mà không rõ nguyên do, tôi không đành lòng thiêu nó.” Bà đang nương náu ở đây để nhờ văn phòng trợ giúp đòi nhà chức trách mang xác đi giảo nghiệm để tìm ra nguyên nhân cái chết của con. Ôm hình đứa con gái, bà Riếp nói chuyện với bất cứ ai có thì giờ để nghe bà kể lể. Em Thương, năm nay 26 tuổi, quê ở Nam Ðịnh qua đây gặp phải một công ty sắp bị phá sản. Em làm công việc dập hàng điện tử. Cũng như Lê Thân, Thương đang chờ chủ bồi thường. Em kể: “Chủ đề nghị đền bù 30 ngàn Ðài Tệ, tính ra chưa được $1,000, em không chịu.” “Em còn trẻ thế này mà đã tàn tật rồi chị ạ.” Ðang nhờ văn phòng cha Hùng trợ giúp pháp lý, Thương cho biết em “thất vọng về đất nước mình nhiều lắm,” vì “ở nhà thì thông tin sai lạc không đầy đủ,” còn ở đây thì văn phòng liên lạc của Việt Nam “hoàn toàn không giúp đỡ gì.” Linh Mục Nguyễn Văn Hùng than với phóng viên nhật báo Người Việt là văn phòng cha làm mãi không hết việc. “Hiện giờ văn phòng có khoảng 40 em đang tạm trú, nhưng tôi chắc chắn còn rất nhiều trường hợp khác mà chúng tôi chưa biết đến.” Cũng theo Linh Mục Hùng thì tình trạng không thấy có gì sáng sủa lên vì Bộ Lao Ðộng Ðài Loan chỉ có một khả năng rất hạn chế trong việc cai quản người lao động và bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ, luật Lao Ðộng Căn Bản cho phép những công nhân nước ngoài được quyền thưa kiện nếu chủ nhân vi phạm những quyền căn bản của họ, nhưng trên thực tế, sự bảo vệ này không có hiệu quả, vì người lao động không có khả năng tài chánh để khởi sự một vụ kiện. Vì thế, thay vì truy tố những chủ nhân bóc lột hay ngược đãi mình, đa số phải lựa chọn hoặc lặng lẽ tìm cách về nước, tự động chấm dứt hợp đồng của mình, hay bỏ trốn và ra ngoài tìm cuộc sống bất hợp pháp. Trong một bài viết phân tích về tình trạng “Lao Ðộng Di Dân” tại Ðài Loan, ông Wu Jing-Ru, tổng thư ký TIWA (Taiwan International Workers Association) vạch ra năm vấn nạn lớn trong chính sách lao động nước ngoài của Ðài Loan, gồm có: Giới hạn đối với thời gian làm việc (hợp đồng ký chỉ 2 năm), hệ thống môi giới, Luật Lao Ðông Căn Bản không thích ứng với thực tế của công nhân nước ngoài, như không cho họ quyền được thành lập công đoàn lao động và lựa chọn chủ nhân. Ông Wu cho rằng chính sách phân biệt đối xử của Ðài Loan đã tạo ra tình trạng những công nhân nước ngoài bị bạc đãi, hành hạ, và bóc lột, và những tổ chức phi chính phủ phải kết hợp với nhau trong việc đấu tranh để đòi chính quyền thay đổi chính sách. Linh Mục Nguyễn Văn Hùng thì cho rằng nguyên nhân chính nằm ở Việt Nam, vì vấn đề là đời sống của người công nhân ở Việt Nam quá khó khăn, khiến họ phải mạo hiểm tìm lối thoát. “Chỉ có ở Việt Nam là nơi chính phủ biến người công nhân thành ra con nợ trước khi người ta có cơ hội làm ra tiền.” “Thông tin giả dối, ao ước muốn thoát đói nghèo, và sự sơ hãi của người công nhân, tất cả quyện vào nhau tạo thành những trường hợp bi thảm.” Có cách nào giúp cho người xuất khẩu lao động Việt Nam tránh được những hoàn cảnh này? Em Lê Thân chia sẻ một nguyện vọng: “Sau khi về nước, có lẽ em sẽ dùng kinh nghiệm bản thân để phổ biến những kiến thức mà người đi xuất khẩu lao động cần phải biết.” (Kỳ tới: Ði thăm những “Lao Ðộng Di Dân” trong nhà tù xứ Ðài)
|