Các viên chức chính quyền cũng đi ôn tụng văn bản đạo đức học như dân chúng. Sử gia Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt nói: “Đời Lý là đời thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam. Đó là nhờ ảnh hưởng của đạo Phật.” Ăn Mừng Một Ngàn Năm Thăng Long, là phải nhớ tới điều ấy.
Vua đầu của triều Lý, Lý Thái Tổ, hồi còn bé thơ đã được tu học tại chùa Lục Tổ dưới sự chỉ dạy của Thiền sư Vạn Hạnh. Khi lên ngôi, vua đã tổ chức đời sống chính trị và văn hóa theo tinh thần vô trụ, vô úy và bất nhị của Thiền sư Vạn Hạnh. Nền hòa bình và hạnh phúc của đất nước kéo dài trong mấy trăm năm, đó là nhờ sự thực tập theo đạo Phật. Lý Nhân Tông, vị vua thứ tư của triều Lý đã nhắc tới Thiền sư Vạn Hạnh với những lời trân trọng. Vua nói: “Hành động của Thiền sư Vạn Hạnh có thông suốt cả tới quá khứ, hiện tại và tương lai. Lời nói của Thiền sư hiệu nghiệm như những lời sấm truyền. Tại quê hương làng Cổ Pháp, Thiền sư chỉ cần dựng cây tích trượng và ngồi yên, mà kinh đô Thăng Long được bền vững mãi mãi.”
Vạn Hạnh dung tam tế Chấn phù cổ sấm ky Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ.
Ta hãy ôn lại những gì mà các vua Lý đã làm trong những năm đầu của thành Thăng Long để thấy được rằng Ăn Mừng Một Ngàn Năm Thăng Long ta phải hành xử và thực tập như thế nào mới nối tiếp được công nghiệp của người xưa:
Năm 1010: Vua Lý Thái Tổ xuống chiếu đại xá các thuế khóa cho thiên hạ luôn trong ba năm. Những người nghèo, yếu, mồ côi, góa bụa, v.v... đã từng thiếu thuế từ nhiều năm trước mà không nộp được đều được tha thuế. Năm 1010, tháng 7, xây chùa Hưng Thiên ở nội thành để hoàng gia đến tụng giới và tu tập, chùa Thăng Nghiêm ở ngoại thành để mời dân chúng đến tụng giới và tu tập. Năm 1012, lập Cung Long Đức cho thái tử Phật Mã ở ngoài thành để thân cận với dân và hiểu biết sự tình của dân. Năm 1016, lại xuống chiếu đại xá tô thuế ba năm nữa, và cũng tha tô thuế trong ba năm.Vua cũng đã xuống chiếu cho phép những người nào vì sợ hãi trừng phạt đã phải trốn tránh được phép về quê cũ mà không bị trừng phạt, ân xá cho tất cả.
Năm 1014: Hữu nhai Tăng Thống Thâm Văn Uyển xin tổ chức đại giới đàn tại chùa Vạn Tuế, vua chuẩn tâu. Có hơn 1000 người được xuất gia. Năm 1016, lại có đại giới đàn ở thủ đô, hơn 1000 người được xuất gia. Năm 1019, có đại giới đàn, vua lại xuống chiếu cho độ dân xuất gia. Năm 1018: Vua gửi một phái đoàn do Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc cầm đầu sang Tống thỉnh Đại Tạng Kinh. Năm 1020, ủy đức Tăng Thống Phí Trí đi Quảng Châu đón Đại Tạng Kinh.
Vua Lý Thái Tông - Năm 1028, Hoàng thái tử Phật Mã lên ngôi. Đại xá thiên hạ. Xuống chiếu cho lấy tiền lụa ở kho lớn ban cho thiên hạ. Khai Quốc Vương tức hoàng tử Bồ Trấn ở phủ Trường Yên làm phản. Vua đích thân đến Trường Yên đánh dẹp. Khai Quốc Vương đầu hàng. Vua tha tội cho Khai Quốc Vương và vẫn cho tước như cũ.
Năm 1034, tháng 8, vua cho dựng tàng kinh Trùng Hưng tại chùa Trùng Quang. Năm 1036, đại xá thiên hạ. Tháng 2, vua xuống chiếu sao chép kinh Đại Tạng an trí ở tàng kinh Trùng Hưng. Năm 1040, vua mở hội La Hán ở Long Trì, đại xá thiên hạ, tha tội lưu đồ và tha thuế cho thiên hạ. Năm 1049, dựng chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột. Năm 1052, đúc chuông lớn ở Long Trì cho dân ai có oan ức gì không bày tỏ được thì giộng chuông để trực tiếp tâu lên vua hoặc đệ đơn kêu oan mà không phải đi qua trung gian nào.
Năm 1054, Vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Năm 1064, mùa Hạ tháng Tư, vua ngự ở điện Thiên Khánh trong một vụ xử kiện. Vua chỉ vào công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh mà bảo ngục lai rằng: “Ta yêu con ta, cũng như lòng cha mẹ dân yêu dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương xót. Từ này về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm.” Năm 1070, đại hạn, phát thóc lúa và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo.
Năm 1072, Vua Lý Nhân Tông lên ngôi. Năm 1076, đại xá thiên hạ. Năm 1088, phong Thiền sư Khô Đầu làm quốc sư để tham hỏi việc nước. Mùa hạ, tháng 6, năm 1095, đại hạn, thả tù và giảm hoặc miễn các khoản tang thuế. Năm 1103, phát tiền ở kho Nội phủ để chuộc những con gái nhà nghèo đã phải bán đi ở đem gả cho những người góa vợ.
Năm 1127, Vua Lý Thần Tông lên ngôi. Năm 1134, tháng 2, vua trai giới để cầu mưa. Xuống chiếu tha cho những người phạm tội trong nước. Năm 1134, vua tổ chức giới đàn độ dân xuất gia. Năm 1136, phong Thiền sư Không Lộ làm Quốc Sư. Tha thuế dịch cho dân.
Trong thời đại nhà Lý, các vị Thiền sư như Vạn Hạnh, Khô Đầu, Không Lộ, Thông Biện, Viên Chiếu đều được các vua ban hiệu Quốc Sư. Các vị Thiền sư này đều là những vị học rộng, có trí tuệ siêu việt và tình thương vô hạn, là những bậc thầy dạy đạo của cả nước. Đề Nghị của Thiền sư Nhất Hạnh về cách thức Ăn Mừng Một Ngàn Năm Thăng Long
Cách thức ăn mừng 1000 năm Thăng Long hay nhất là nỗ lực của chính quyền và của toàn dân làm được và tiếp tục được những việc mà tiền nhân đã làm trong những năm đầu của kinh thành Thăng Long.
1. Lập trường Đại Học lấy tên Vạn Hạnh gồm đủ các phân khoa có khuynh hướng xiển dương tinh thần vô trụ, vô úy, phá chấp, đại đồng và bất nhị của Thiền sư Vạn Hạnh. Các phân viện được mở đồng thời ở các thành phố lớn khác trong nước.
2. Thiết lập giờ đạo đức học (công dân giáo dục) ở mọi cấp bậc giáo dục. Đào tạo giáo sư đạo đức học các cấp trong các phân khoa sư phạm và đạo đức học. Học và dạy đạo đức học truyền thống, đạo đức học toàn cầu và đạo đức học ứng dụng để ngăn ngừa và đối phó với các tệ nạn xã hội: bạo hành gia đình, ly dị, tự tử, ma túy, đĩ điếm, tham nhũng, lạm quyền. Thành lập các khu ấp và khu phố đạo đức gương mẫu.
3. Triệu tập đại hội các truyền thống tôn giáo và nhân bản để thảo luận về một nền đạo đức toàn cầu, đưa ra một văn bản không có tính cách tôn giáo để làm căn bản thực tập của cả nước về một nền đạo đức toàn cầu có công năng lành mạnh hóa và từ bi hóa xã hội và cứu hộ được hành tinh. Mỗi truyền thống đưa ra văn bản thực tập của mình (như đạo Phật đưa ra văn bản Năm Giới Tân Tu) để chia sẻ và đóng góp. Tổ chức các buổi trao đổi học hỏi và đàm luận về phương pháp ứng dụng văn bản trong đời sống gia đình, học đường và sở làm. Tổ chức ôn tụng văn bản hàng tháng tại chùa, giáo đường, nhà văn hóa, thánh thất, thư viện, v.v... và đàm luận về phương pháp ứng dụng văn bản. Các viên chức chính quyền cũng đi ôn tụng văn bản đạo đức học như dân chúng.
4. Thành lập hội đồng nhân sĩ đạo hạnh tại thôn ấp và khu phố, trong đó có mặt các công dân có tiếng là hiền lành, đạo hạnh, có thể làm mẫu mực đạo đức cho dân xóm, có thể có vị mục sư, linh mục và trú trì, để chăm sóc đời sống đạo đức trong cọng đồng bằng đường lối đức trị, nâng đỡ, khuyến khích, yểm trợ.
5. Ân xá cho những người bị lưu đày và tù tội, trong đó có tội góp ý cho chính quyền, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, đa giáo hội, kêu gọi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận. Cho phép một số phạm nhân được chuộc tội bằng công tác xã hội dưới sự che chở, giám sát và bảo lãnh của các vị xuất gia thuộc các tôn giáo.
6. Miễn thuế và tha thuế cho những người không nhà cửa, nghề nghiệp, không có nguồn lợi tức. Ân xá cho tất cả những người lưu vong được trở về quê quán.
7. Mỗi ngày chủ nhật chỉ sử dụng xe đạp, xe thồ, xe ngựa, đi bộ, chỉ trừ trường hợp cứu cấp, tại thủ đô Hà Nội cũng như tại các thành phố lớn. Ngày chủ nhật không hút thuốc, không uống rượu, không bán thuốc hút và bán rượu.
8. Lập thêm các quán cơm chay ở thủ đô và các thành phố lớn. Các quán ăn khác mỗi quán cũng phải có ít nhất vài món ăn chay. Mọi người được khuyến khích ăn chay ít nhất là mười lăm ngày mỗi tháng (theo khuyến cáo của Liên Hiệp Quốc là giảm bớt ít nhất 50% công nghệ chế tác thịt nhằm mục tiêu cứu độ hành tinh). Những người ăn chay trường được hưởng chế độ bớt 50% tiền bảo hiểm xã hội.
9. Yểm trợ công nghệ sử dụng ánh sáng mặt trời để nấu cơm, nấu nước tắm, thắp đèn, nấu trà, giặt áo, v.v...
10. Chấm dứt sản xuất và sử dụng bao ni lông và chén bát ni lông, nhựa.
11. Triệu tập đại hội Phật Giáo, mời tất cả các vị tôn đức trong và ngoài nước để thành lập lại giáo hội Phật Giáo dân lập hoàn toàn đứng ngoài chính trị.
12. Tổ chức các khóa tu tại Việt Nam cho dân chúng và thiền sinh ngoại quốc về phương pháp chuyển hóa bạo động, xây dựng tình huynh đệ theo tinh thần bất nhị và vô trụ của Thiền sư Vạn Hạnh.
Những chương trình hành động, nếu các ngành lập pháp và hành pháp trong nước không muốn hoặc không thể thực hiện, thì dân chúng có thể tự tổ chức thực hiện, bắt đầu bằng giới Phật tử, cộng tác với các giới khác, trong các giới tôn giáo và nhân bản.
|