Những tiếng meo |
Tác Giả: Phỏng theo Taisen Deshimaru/Nguyên Si | |||
Thứ Bảy, 16 Tháng 1 Năm 2010 11:56 | |||
Ngày xưa, có một gã samourai (sa-mu-rai) đi câu bên bờ suối, câu mãi mới được một con cá. Gã sửa soạn đem đi nướng ăn ngon lành, thì bỗng nhiên từ trong bụi rậm vụt ra một con mèo, cuỗm lấy cá, chạy đi. Gã nổi xung, tuốt kiếm đuổi theo và chặt con mèo ra làm hai đoạn. Cơn giận tiêu tan, gã đâm ra ăn năn, hối hận. Bởi vì gã vốn là một người Phật tử. Trên con đường về, gã nghe như gió thổi trong cành lá tiếng "meo". Mỗi bước đi của gã dường như vang lên tiếng "meo". Những người qua lại trên đường nói chuyện lao xao với những tiếng "meo". Bạn bè cũng diễu cợt gã bằng tiếng "meo". Ngay cả trong ánh mắt những đứa con gã cũng phản chiếu tiếng "meo". Mỗi lần chợp mắt là gã mơ thấy "meo". Tỉnh dậy, chung quanh gã tất cả là "meo". Chính gã cũng trở thành "meo"... Cuối cùng, mất ăn mất ngủ, gã samourai thân hình tiều tụy chỉ còn là cái xác không hồn. Gã tìm đến một ngôi chùa, gặp một vị thiền sư già, và xin ngài giúp đỡ: " Bạch sư phụ, xin sư phụ cứu vớt con... Con không thể nào chịu đựng được nữa..." Nghe kể lại sự tình xong, vị thiền sư thở dài, cau mày quở trách: "Làm sao một võ sĩ như ngươi có thể hèn mạt đến như vậy được? Nếu không thắng được những tiếng "meo" kia, thì ngươi chỉ còn có một cách là tự sát. Không còn con đường nào khác hơn, là tự làm hara-kiri, ngay bây giờ và tại đây! Nhưng vì lòng từ bi, ta sẽ không để ngươi đau đớn, bằng cách chém phăng đầu ngay, sau khi ngươi bắt đầu tự mổ bụng." Gã cúi đầu lạy tạ, tuy trong lòng vô cùng kinh sợ cái chết. Sau khi sửa soạn nghi lễ xong, gã ngồi xuống, vạch áo, hai tay cầm chiếc dao hướng vào bụng mình. Vị thiền sư đứng sau gã, giơ cao kiếm. "Bắt đầu đi !", ông ra lệnh. Gã samourai từ từ đặt lưỡi dao vào bụng mình, mồ hôi nhỏ giọt. Ngay lúc đó, vị thiền sư lên tiếng: - Còn nghe thấy tiếng "meo" không? - Chao ôi ! Không... Thật lúc này con không nghe thấy gì hết ! - Vậy, nếu không còn tiếng "meo" thì không cần phải chết ... Lời bình của Nguyên Si Câu chuyện trên đây làm Nguyên Si tôi tưởng nhớ tới một câu chuyện đã đăng trong báo Gió Nội cách đây khoảng vài ba chục năm: "Có một anh chàng bị bệnh tâm thần, cứ tưởng mình là một hạt thóc, nhìn thấy con gà nào cũng cuống quít lên chạy trốn. Anh đi chữa bệnh bằng phân tâm học, và sau một thời gian điều trị, tình trạng đã có vẻ khả quan. Khi chia tay bác sĩ, anh nói với một giọng quả quyết : "- Bác sĩ cứ yên tâm, tôi khỏi bệnh rồi. Tôi là một con người, không phải là một hạt thóc". Nhưng chỉ vài phút sau, anh hối hải chạy trở về phòng mạch, mặt cắt không còn hột máu. "- Con gà... con gà nó đuổi tôi", anh lắp bắp. "- Sao vậy? người bác sĩ ngạc nhiên. Anh khỏi rồi mà. Anh đâu phải là hạt thóc". "- Vâng, anh chàng buồn bã trả lời. Vẫn biết tôi không phải là hạt thóc, nhưng khốn nỗi con gà nó vẫn tưởng tôi là hạt thóc..." Dĩ nhiên, đây không phải là một câu chuyện Thiền, mà là một trường hợp bệnh tâm thần có thể xếp loại vào bệnh hoang tưởng suy diễn (délire d'interprétation) , là một loại bệnh khá thông thường. Ngoài những trường hợp nặng như trên, thì còn biết bao nhiêu là trường hợp nhẹ, và phải công nhận rằng giữa người bệnh và không bệnh, ranh giới đôi khi cũng không có gì là rõ rệt... Nói như vậy thì trong một chừng mực nào đó, chúng ta đều là những kẻ bị ám. Chúng ta đều vừa là nạn nhân của trí tưởng tượng của mình, vừa là tác giả của những vọng tưởng đó. Trong suốt cuộc đời, con người tự tạo nên cho mình bao nhiêu là vọng tưởng, và chính những vọng tưởng đó là nguồn gốc của tâm bệnh, của khổ đau. Nhưng, bạn sẽ bẻ lại, nếu không có tưởng tượng, thì làm gì còn câu chuyện để nói? Làm gì còn con người, làm gì còn khổ đau, làm gì còn cuộc sống? Bởi vì, nếu "nắng mưa là bệnh của trời", thì có lẽ "tưởng tượng (chứ không hẳn là tương tư) là bệnh của tôi với người"... Phải lắm. Ðặc tính của con người là ở đó, ở cái khả năng tạo dựng nên trong tâm thức của mình những gì không có thực, những gì hoàn toàn giả tạo. Thế rồi mình cứ khư khư ôm lấy - hay bị ám ảnh bởi - những điều tưởng tượng đó, và yên trí chúng là sự thực, sống với chúng như là sự thực. Những "sự thực" tưởng tượng đó không phải chỉ là "tiếng mèo kêu" hay là "người - hạt thóc" trong câu chuyện. Chúng còn mang muôn hình vạn trạng: một hình ảnh chợt hiện trong đầu, một câu nói, một điệu nhạc xưa, một ý nghĩ: "phải chi... giá mà... đáng lẽ... biết đâu... tiếc rằng... ngộ nhỡ... hay là... ", một lời phê phán, một dự án... Tất cả những gì gây nên dao động thần trí, bằng cách tạo dựng một tấm màn hỏa mù che đậy thực tại, lôi cuốn con người trong mê sảng, mộng mị, huyền hoặc, mơ hồ, nhớ thương, tiếc nuối, lo sợ, nghi vấn, v. v. và v. v... Muốn thoát ra khỏi sự thống trị gần như thường trực của vọng tưởng, thì chỉ còn có một cách: sống với thực tại, để nhận chân thực tại, và như vậy hủy bỏ được khổ đau. Ðó chính là mục đích của đạo Phật: diệt khổ bằng con đường giác ngộ. Xét cho cùng, đạo Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn tựu trung cũng hướng về một điểm, đó là cái huệ bằng cách định cái tâm của mình. Muốn định được cái tâm, thì phải gạt bỏ mọi dấy động phát xuất từ bên trong mình, những vọng tưởng, tạp niệm, thành kiến, suy luận, tính toán, giả thuyết, chấp trước, v.v. tất cả những gì làm vẩn đục nhận thức và che dấu thực tại. Mục đích là nhận chân được sự thực "như vậy" (tel quel, ainsité), cái Chân Như không thể nghĩ bàn, mà chỉ nhận chân được bằng trực giác, một khi đã đạt được trí huệ tịnh tịch. Từ xưa tới nay, các vị thiền sư cũng chỉ dạy một điều cho các thiền sinh: trở về với thực tại, sống trong giây phút hiện tại. Khi véo mũi, bợp tai, đánh đập, la hét học trò như trong phái Thiền Lâm Tế, người thầy cũng chỉ tìm cách lôi kéo học trò đang mơ màng vọng tưởng trở về với thực tại, và giáng lên một đòn tâm lý làm bùng lên giác ngộ. Ngày nay, các vị thiền sư cũng chỉ nhắc lại, bằng những từ ngữ mới mẻ hơn ("Thở vào, ta ý thức ta có mặt ; thở ra, ta mỉm cười với sự sống trong ta và quanh ta"), những lời dạy của đức Phật Thích Ca trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthâna) và Niệm Hơi Thở (Ânâpânasati) ("Với tâm hân hoan, tôi thở vào; với tâm hân hoan, tôi thở ra"). Ðó là tập chánh niệm, tập chú tâm vào mỗi việc làm của mình. Cũng như khi xưa thiền sư Huệ Hải dạy cái dụng công của mình: "Khi đói thì ăn. Khi mệt thì ngủ". Nhưng khi ăn chỉ nghĩ tới ăn, khi ngủ chỉ nghĩ tới ngủ, khác với người thường "khi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ cần dùng, khi ngủ chẳng chịu ngủ, tính toán cả ngàn chuyện". Người ta cứ quen tự mình gây nên bao nhiêu điều phức tạp. Ngay cả sự thật cũng tìm nó ở đâu đâu, như chạy theo "lông rùa, sừng thỏ". Trong khi đó, sự thật giản dị vô cùng, nó là như vậy và chỉ là như vậy. Nhưng chính vì giản dị, cho nên mới khó liễu đạt được. Làm sao cho mây tan, thì trăng mới hiện. Trong câu chuyện trên, gã samourai ngày đêm bị ám ảnh bởi tiếng kêu của con mèo mình lỡ giết, cho tới khi lưỡi dao đè vào bụng, cái chết gần kề, mới thực sự định được cái tâm của mình. Lúc đó, gã mới chú tâm vào thực tại, mới đạt được chánh kiến, và lúc bấy giờ dĩ nhiên không còn vọng tưởng, tức là không còn nghe thấy tiếng mèo kêu! Thói thường, khi người ta vừa thoát khỏi cái chết mới hiểu được giá trị của cuộc sống... Này bạn, còn nghe thấy tiếng meo không? "Meo" ! (Ô hay... Không biết con mèo đã sống dậy, hay mình còn vọng tưởng? )
|