Home Đời Sống Suy Tư Dòng Đời Thái Bình Đạo Nhân

Thái Bình Đạo Nhân PDF Print E-mail
Tác Giả: Ngô Viết Trọng   
Thứ Tư, 23 Tháng 12 Năm 2009 15:24

 Cuối đời Đông Hán bên Tàu, tại quận Cự Lộc có nhà cự phú họ Trương sinh được ba anh em là Trương Giốc, Trương Bảo, Trương Lương.

Khi ông bà Trương mất thì Bảo và Lương hãy còn nhỏ, Trương Giốc thay quyền cha mẹ nuôi dạy hai em. Giốc bản chất thông tuệ, học đâu nhớ đó, tuổi chưa ngoài hai mươi đã làu thông kinh sử, toán số... không mấy ai theo kịp. Dù vậy, Trương Giốc lại không chịu đi thi. Với tính khí hào sảng, từ tâm quảng đại, càng trưởng thành Trương Giốc càng ưa làm việc nghĩa, giúp đỡ những kẻ gặp cảnh hoạn nạn, khốn cùng, hao tốn của nhà bao nhiêu cũng không tiếc.

      Hai người em Bảo và Lương ngày càng lớn khôn, thấy anh mình không màng công danh lại chuyên làm chuyện nghĩa hiệp như vậy, tuy nể phục nhưng lại đâm ra lo lắng. Một hôm hai người thưa với Trương Giốc:
      - Thưa anh cả, cha mẹ mình mất sớm, chúng em nhờ anh cả nuôi dạy bao lâu nay mới được nên người, chúng em không thể nào quên ơn anh cả được! Tuy thế, có một điều chúng em không thể hiểu là tại sao anh cả học hành thông kim bác cổ như vậy lại chẳng chịu đi thi để lập công danh với đời, mua tiếng thơm cho cha mẹ? Tại sao anh cả lại không tiếc của, cứ bỏ ra cứu tế người đời trường kỳ như vậy kho đụn nào mà chịu nổi? Chúng em lo ngại nếu tình trạng này cứ kéo dài, có ngày chúng ta lại phải đi ăn xin mất!
      Trương Giốc cười hiền:
      - Mỗi người sinh ra đều nuôi sẵn một tâm chí riêng. Sở dĩ lâu nay anh chưa giải thích với hai em điều đó vì anh nghĩ hai em còn nhỏ dại, nói ra có thể hai em chưa hiểu được! Giờ đây hai em đã để tâm hỏi đến chuyện đó tức là hai em đã hiểu biết, tiện thể anh cũng xin nói cho hai em nghe luôn. Ở đời, mỗi khi nghĩ đến chuyện thi cử tức là trong đầu óc người ta đã mơ màng đến chuyện võng lọng xênh xang, kiếm chác một địa vị trong xã hội, hưởng cảnh khoái lạc, sang giàu. Nhưng đã ra làm quan tất nhiên người ta sẽ bị cuốn hút theo dòng đời, phải tranh giành kịch liệt. Làm một ông quan muốn sống thanh bạch để lo việc cho dân thật khó lắm! Đã thanh bạch thì lấy gì để cung phụng cấp trên? Kẻ dưới bị kềm chế không kiếm được lợi lộc cũng sẽ nuôi lòng oán hận, phản bội, dễ gì sai khiến họ làm tròn trách nhiệm? Làm quan mà lương thiện quá, hiếm hoi lắm mới có người được lưu được chút danh, nhưng chắc chắn không sớm thì muộn cũng bị tống cổ về vườn. Nghĩ như vậy nên anh đã dứt khoát không chọn con đường làm quan. Anh không màng đến việc thi cử là vì vậy. Lâu nay anh chỉ hay rong chơi để tìm hiểu cảnh sống của đám dân cùng. Cuộc sống của họ luôn bị chi phối bởi quá nhiều tai biến. Nào cảnh bão lụt, hạn hán, nào cảnh giặc giã trộm cướp, nào cảnh yếu đau bệnh tật... Nhiều gia đình không đủ cơm ăn, áo mặc, ốm đau không có thuốc để chữa mà vẫn phải è cổ ra đóng bao nhiêu thứ thuế cho quan. Anh đau lòng vì những cảnh đó lắm chứ!

 Vì thế anh nghĩ mình giúp cho đời được gì thì cứ giúp. Bây giờ hai em đã trưởng thành, anh sẽ giao nhà cửa lại cho hai em cai quản. Sau đó, anh sẽ sống theo chí bình sinh của mình. Trong các bộ môn học hành bấy lâu, anh thấy mình sở đắc nhất là môn "dược". Anh sẽ lên núi hái thuốc, sẽ ngao du đó đây, đến đâu sẽ giúp đời đến đấy. Tới một ngày nào đó gối mỏi chân chồn, anh sẽ tìm một gốc cây hay một hang hốc làm nơi an nghỉ. Anh sẽ rất vui khi thân xác mình được làm quà cho chim, cho kiến hoặc bất cứ con thú nào. Vậy, hai em hãy chuẩn bị tinh thần, dùng của cải cha mẹ để lại tự kinh doanh mà sống. Còn anh, vào mùa xuân tới anh sẽ lên đường!

      Trương Lương nghe Trương Giốc nói như thế thì thưa:
      - Thưa anh cả, không ngờ chúng em lại có một người anh không những đa tài lại còn có một tâm hồn thanh cao trong sáng như vậy! Anh đã nuôi tâm chí ấy nỡ nào anh không dìu dắt cho em theo với!
      Trương Lương lại quay sang Trương Bảo:
      - Thôi, thế này nhé, anh hai hãy ở lại giữ lấy gia tài, lo việc thờ phụng tổ tiên, còn em sẽ theo hầu hạ anh cả. Giữa chốn núi rừng để anh cả lang thang lủi thủi một mình cũng bất tiện lắm!
      Trương Bảo nói:
      - Anh cả và em ba đã có tâm chí giã từ công danh phú quí ấy nỡ nào lại để Bảo một mình hụp lặn giữa cuộc đời bon chen này! Thôi thì chúng ta hãy giao đất hương hỏa lại cho thúc phụ lo, chúng ta sẽ tặng luôn thúc phụ ngôi nhà, còn bao nhiêu của cải hãy đem ban phát cho dân nghèo rồi cùng nhau lên rừng hái thuốc cho có thủy có chung!
      Trương Giốc nói:
      - Trước khi quyết định, các em phải suy nghĩ cho kỹ! Liệu các em có chắc chịu nổi cảnh màn sương chiếu cỏ không? Liệu có thể lấy rau rừng trái cây lót lòng qua từng bữa không? Khi đã tính chuyện cửa nhà rồi thì có hối cũng không kịp đó!
      Hai người em đồng loạt nói:
      - Chúng em nhất quyết theo anh cả đi hái thuốc để giúp đời, khi không còn làm gì được nữa, chúng em cũng nguyện đem thân làm quà cho chim thú như anh cả vậy!
      Thế rồi ba anh em thanh toán nhà cửa, gia sản để lưu lạc giang hồ...

Ngày kia, trong khi Trương Giốc đang hái thuốc bỗng gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê. Ông lão nói với Trương Giốc:
      - Ta là Nam Hoa Lão Tiên đây! Lâu nay ta vẫn mong gặp được một người có tâm chí và tài đức như con để ủy thác một việc trọng đại. Ta có ba quyển thiên thư gọi là "Thái bình yếu thuật" làm quà cho con đây. Con phải học cho kỹ rồi cứ theo đó mà tuyên hóa, phổ cứu thế nhân. Nhưng con phải nhớ một điều, trong khi hành đạo, nếu con để lòng tham trỗi dậy mà hành động ngược lại tâm chí ban đầu tất là con tự hại lấy thân đấy!
      Trương Giốc mừng rỡ lạy tạ Nam Hoa Lão Tiên mà nhận sách.
      Từ đó ngoài những lúc hái thuốc, Trương Giốc dùng hết thì giờ vào việc nghiền ngẫm ba cuốn thiên thư. Chẳng bao lâu sau Trương Giốc đã thấu triệt được những điều đã học trong sách. Trương Giốc bèn lấy hiệu là Thái Bình đạo nhân và bắt đầu hành đạo.

      Bấy giờ đang lúc hạn hán, Thái Bình đạo nhân làm phép cầu mưa quả nhiên có mưa ngay. Tiếp đó, ở một vùng kia mùa màng bị côn trùng phá hại, Thái Bình đạo nhân làm phép xua đuổi, quả nhiên côn trùng hết phá. Lại gặp một địa phương có bệnh dịch, Thái Bình đạo nhân cho thuốc uống thì bệnh hết phát triển. Dân chúng thấy vậy bèn tôn gọi ngài là Đại Hiền lương sư. Dần dần ở đâu người ta cũng tin tưởng, sùng bái ngài.

      Thấy đất nước rộng mênh mông mà nơi nào cũng có cảnh đau yếu đói khổ, Thái Bình đạo nhân bèn đem sở học truyền dạy cho hai người em và một số đệ tử để họ cùng lo việc hành đạo. Số đệ tử ấy mỗi ngày mỗi tăng, tiếng lành của ngài mỗi ngày mỗi lan rộng. Chẳng bao lâu trên đất nước Trung Hoa không nơi nào người ta không nghe đến danh Thái Bình đạo nhân hoặc Đại Hiền lương sư.

      Tuy thế, Thái Bình đạo nhân vẫn chưa được vui. Trong số đệ tử đông đảo ấy, kể cả hai người em của ngài, ngài vẫn chưa tìm được một người có đủ tâm thức để truyền thụ những bí quyết cần thiết mà khỏi lo sợ về sau...

      Lúc bấy giờ, Thái Bình đạo nhân đến đâu là đem sự yên vui đến đấy. Ngài làm phước cho cả mọi người, không phân biệt quan lại hay thứ dân nên các chính quyền địa phương cũng chẳng gây trở ngại cho ngài. Dân chúng quá yêu mến ngài nên khi biết ngài đến đâu họ lại kéo nhau ra đón đầy đường để chiêm ngưỡng, để được vái lạy, để dâng lên ngài những lời chúc tốt đẹp nhất. Muốn cho dân chúng được vui lòng, Thái Bình đạo nhân đã luôn tỏ ra xuề xòa vui vẻ trước sự chiêm bái, chúc tụng của họ.

      Cứ nơi này bắt chước nơi khác, cảnh chào đón Thái Bình đạo nhân mỗi ngày mỗi thêm long trọng. Trước kia đạo nhân tự mình leo núi để hái thuốc, nay có hàng ngàn đệ tử tình nguyện đi hái thay cho ngài. Trước kia đạo nhân hay đi bộ, để đầu trần, nay dân chúng tự nguyện đem võng rước ngài, đem lọng che cho ngài. Trước kia mỗi khi mệt mỏi, đạo nhân tìm một chỗ thuận tiện nằm xuống kê đầu lên một hòn đá là xong, giờ đây đạo nhân nghỉ chỗ nào lập tức có bao nhiêu người đem gối đem màn tới che lót cẩn thận. Ngài kêu khát lập tức có người dâng mật ong, dâng sữa, dâng sâm, ngài kêu nóng nực lập tức có người đứng hầu quạt. Lúc nào cũng có người sẵn sàng gãi lưng, nắn bóp bắp thịt cho ngài. Thậm chí còn có người âu yếm hôn lên bàn chân, hôn lên cả đầu gối của ngài... Một lần đồ đệ của ngài là Trình Viễn Chí hỏi ngài:
      - Bẩm sư phụ, người có tâm chí hành đạo cứu đời cũng chẳng khác kẻ tu hành, thế mà lại nhận sự chiêm bái, sự phục dịch của dân chúng quá nhiều có bị tổn đức không?
      Thái Bình đạo nhân cười:
      - Tâm lý của dân chúng là muốn làm cho ta vui và cũng muốn làm cho ta biết đến họ. Nếu ta từ chối sự chiêm bái, sự cung phụng, sự phục dịch của họ, họ có thể cho rằng ta không thương họ, không đoái nghĩ tới họ, họ sẽ tủi thân. Vì vậy, ta cứ nhận sự chiêm bái, sự phục dịch của họ để họ vui lòng. Làm cho người khác vui lòng sao mà tổn đức được?
      Thái Bình đạo nhân không ngờ lời nói của ngài đã bị một số đệ tử hiểu không chính xác, một số lại khai thác lợi dụng nữa. Nhân danh đệ tử của đạo nhân, nhiều vị đã thản nhiên nhận lấy sự phục dịch, cung phụng của những kẻ sùng mộ ngài không một chút ngượng ngập. Những hành vi có tính cách phục dịch, cung phụng ấy, ban đầu thấy cũng khó coi thật, nhưng lâu dần rồi cũng quen mắt.

      Nhờ uy tín của Thái Bình đạo nhân, những đệ tử của ngài, nhất là hai người em Trương Bảo và Trương Lương cũng rất được dân chúng trọng vọng. Khi thay mặt đạo nhân đến nơi này nơi khác để hành đạo, được dân chúng cung phụng, phục dịch mọi thứ, các vị cũng dần đâm ghiền. Một hôm Trương Lương nói với Trương Bảo:
      - Từ khi xuất gia hành đạo, anh em ta tuy bất tài, may nhờ phước đức của anh cả che chở, cũng được khỏe thân, được quần chúng trọng vọng, đến đâu cũng ké được võng lọng, hưởng được ơn thừa! Nói trời không nghe lỗ miệng, nếu một mai anh cả qui tiên rồi, liệu chúng ta có còn được quần chúng tôn sùng nữa không? Khi đó, chúng ta không nhà không cửa, không vợ không con, liệu tương lai sẽ như thế nào?
      Trương Bảo nói:
      - Đó cũng chính là điều anh lo nghĩ bao lâu nay. Hiện giờ anh cả đến đâu thiên hạ cũng tiếp đón long trọng hơn cả vua chúa, chúng ta đến đâu cũng được tiếp đón hơn cả sứ giả nhà vua. Ôi, vinh quang thay! Huy hoàng thay! Nhưng làm sao giữ niềm vinh quang, vẻ huy hoàng đó mãi được? Nghĩ nát nước anh mới nghiệm ra được hai con đường để hành động vì tương lai của chính mình, xin nói để em ba nghe thử nhé:
      Thế thủ: Muốn ngọn xanh thì gốc phải vững. Muốn gốc vững thì phải có nền chắc, móng dày, phải không em ba? Anh cả vốn là người xuề xòa bình dân, dân chúng ai muốn tiếp xúc cũng được. Khi họ gần được anh cả, họ có thể tự coi là đã ngang hàng với chúng ta, đó là điều không hay.

Chúng ta phải làm sao tạo một vầng hào quang chung quanh anh cả để tăng sự tôn vinh của người, đồng thời, ngăn cách đám bình dân không cho họ đến gần người. Chúng ta phải quan trọng hóa vấn đề, phải đặt ra phép tắc lễ nghi rườm rà để kích thích thêm lòng sùng kính đối với Thái Bình đạo nhân trong dân chúng. Dân chúng càng sùng kính Thái Bình đạo nhân thì họ càng không thể coi thường chúng ta được. Đó là kế hoạch gốc càng vững ngọn càng xanh, giả như anh cả rủi gặp mệnh hệ nào chúng ta vẫn còn dùng được cái “bài vị” của người để mê hoặc dân chúng. Đó là bước đầu để chúng ta khỏi bị loại bỏ trong lòng dân chúng vậy.
      Thế công: Hiện nay lòng dân đã hướng về chúng ta rất nhiều, chúng ta có thể làm đại sự:  tranh thiên hạ với nhà Hán...

      Nghe tới đây Trương Lương hoảng hốt đứng bật dậy:
      - Trời, sao anh hai nghĩ đến chuyện bất tường ấy? Chẳng lẽ anh cả là người đạo cao đức trọng lại chịu để chúng ta làm việc ấy sao?
      Trương Bảo nói:
      - Em hãy bình tĩnh nghe anh nói tiếp, anh sẽ có cách khiến cho anh cả phải chịu hành động theo ý mình. Trước hết là chúng ta triệt để cổ võ, khai thác lòng sùng kính, cung phụng của dân chúng đối với anh cả. Ở đời có biết bao nhiêu là sự đổi thay bất ngờ! Có nhiều người tự nghĩ mình rất ghét chữ danh, chữ lợi, nhưng khi hai chữ đó vướng vào mình rồi thì lại gỡ không ra.

Càng được sùng kính, cung phụng, lâu ngày anh cả sẽ càng ghiền cái cảnh hưởng thụ khoái lạc tinh thần đó. Khi đã ghiền một cái gì thì chẳng ai dễ dàng bỏ được cái đó. Trong khi ấy, ở bên ngoài chúng ta phải tận dụng khai thác cái uy tín của anh cả, cố rao giảng càng xa rộng càng tốt. Tất nhiên việc này thế nào cũng đến tai triều đình. Thử hỏi có vị thiên tử nào chịu để thần dân của mình tôn sùng một người khác ngoài chính bản thân ngài đâu? Thiên tử sẽ cho quân đội đi đánh dẹp để triệt trừ hậu họan. Trước thảm họa đó liệu anh cả có chịu ngồi yên để nhận hình phạt không? Thế là cơ hội quật khởi đã đến với chúng ta. Với tài năng của anh cả, với sự trung thành của chúng đệ tử, với lòng dân đã tin phục thuận theo, trong ba phần quyết định sự thành bại chúng ta đã chiếm hết hai, vậy chúng ta còn sợ gì? Thành thì chúng ta hưởng vinh hoa phú quí mãi mãi, bại thì chúng ta rút vào rừng làm giặc cỏ cũng sung sướng một đời vậy!
      Trương Lương nghe xong mừng rỡ nói:
      - Anh hai thật đã vén được cái màn mây trong mắt em. Chúng ta phải bắt tay thực hiện kế hoạch đó ngay! Nếu áp dụng được cả hai phương pháp càng tốt!

      Thế là trong lúc Thái Bình đạo nhân an nhàn chan hòa niềm vui cùng dân chúng, Trương Bảo, Trương Lương và những tay chân thân tín tổ chức chúng đệ tử trong nước thành 36 phương (khu vực), mỗi phương khoảng 5, 7 ngàn người, có phương đông đến cả vạn người, mỗi đệ tử đều bịt một cái khăn vàng trước trán. Mỗi phương lại đặt một viên cừ-soái cai quản. Họ phao ngôn trong dân chúng: "Năm Giáp Tí thiên hạ đại cát, trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng", lại ngầm cho chế cờ vàng để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa. Họ cũng truyền cho dân chúng khắp nơi treo danh vị "Đại Hiền lương sư Trương Giốc" trong nhà để thờ kính...

      Vì muốn đám đệ tử và dân chúng được vui lòng, Thái Bình đạo nhân không nỡ từ chối sự cung phụng, phục dịch của họ. Ngài không ngờ rằng đám đệ tử chuyên cung phụng, phục dịch đó đã vô tình biến thành một vòng đai che chắn tầm mắt của ngài, khiến ngài không còn nhìn được bên ngoài một cách toàn diện nữa. Trong khi đó, bọn Trương Bảo, Trương Lương và những tay chân thân tín cứ kín đáo tiến hành mưu đồ.

      Mãi đến lúc triều đình nhà Hán báo động giặc nổi, Thái Bình đạo nhân mới rõ cớ sự. Lúc ấy thế lực Khăn Vàng đang lên như diều gặp gió. Đã lỡ ở lưng cọp, dẫu rút lui cũng không thể thoát khỏi tội bị lột da bêu đầu, ngài chỉ còn một con đường: tiến tới.
      Thế là Thái Bình đạo nhân bèn tự xưng Thiên Công tướng quân, cầm đầu cuộc khởi nghĩa. Ngài phong Trương Bảo làm Địa Công tướng quân, Trương Lương làm Nhân Công tướng quân, đồng loạt kéo cờ chống lại quân triều đình. Thiên hạ hưởng ứng làm phản con số lên tới 50 vạn người. Nghĩa quân đều xõa tóc, chít khăn vàng trước trán nên người ta gọi giặc này là giặc "Khăn Vàng".

      Quân Khăn Vàng tủa ra tấn công nhiều tỉnh thành, phủ huyện, làm cho triều đình một phen kinh hoảng. Thế nhưng vì là lực lượng ô hợp không được huấn luyện kỹ càng, thiếu kỷ luật nên rốt cục quân Khăn Vàng bị quân triều đánh tan rã nhanh chóng. Trương Bảo, Trương Lương và nhiều tướng lãnh của họ lần lượt bị giết. Sau cùng thì Thiên Công tướng quân bị quân triều đình bao vây ở Quảng Tôn. Trong lúc bối rối, ngài sực nhớ lại lời Nam Hoa lão tiên dặn "nếu con hành động ngược lại tâm chí ban đầu là tự hại lấy thân đấy", bèn than:
      -Ta vốn không ham công danh phú quí, đã cố dứt bỏ nó để tìm đường giải thoát. Ta đã gặp được đấng tôn sư trao tặng bửu bối, đã có cơ hội dùng tài đức để cứu vớt quần sinh. Không ngờ trên bước đường hành đạo ta lại vô tình để bọn đệ tử đầy tham si ru ngủ, lừa dối đến nỗi thân bại danh liệt! Ta đã phản lời dạy của tôn sư, thế là bao nhiêu công đức trước sau đều đổ xuống biển! Ta bị đọa xuống địa ngục cũng vừa!

      Mấy ngày sau thì Thiên Công tướng quân lâm bệnh mà mất. Dù sao, ngài vẫn thỏa  được mãn một phần ước nguyện: cái xác ngài được quân lính triều đình bằm ra cho cú, quạ,  kiến, bọ ăn. Riêng cái đầu ngài thì bị bỏ cũi đưa về triều hành tội.
      Cuộc nổi dậy của giặc Khăn Vàng tuy bị dẹp nhanh chóng nhưng ảnh hưởng của nó để lại rất lớn. Nhằm lúc vua Hán còn bé, hệ thống cai trị không còn duy trì được nữa. Các quyền thần mạnh ai nấy tự tung tự tác tranh quyền đoạt lợi đưa đến cảnh huynh đệ tương tàn mà hậu quả là nhà Đông Hán bị diệt, nước Tàu bị chia làm ba: Ngụy, Thục, Ngô.
      Ôi, một lầm lạc nhỏ của một bậc thiên tài đầy ắp đạo tâm không ngờ lại là nguyên nhân gây ra cảnh máu sông xương núi kéo dài ngót 65 năm, đáng sợ thay! Đó là một cái gương lớn cho người đời cùng soi vậy!
 
Để tặng một nhà tu