Hà Nội về đêm |
Tác Giả: Trần Mộng Tú |
Thứ Năm, 18 Tháng 3 Năm 2010 12:42 |
Từ chập choạng hoàng hôn, Hà Nội đã khoác lên đầu một chiếc khăn voan mỏng màu xám, Hà Nội hình như chậm lại ở một chút này, nhưng lại hối hả ở một chút khác. Từ tấm khăn voan nhìn ra hay đứng ở ngoài nhìn vào, Hà Nội về đêm giống như một bài thơ dài, cắt ra từng đoạn. Có đoạn sắt se lòng, có đoạn mơ hồ như tranh thủy mạc, có đoạn như sông Lô lờ lững chảy, có đoạn như sông Hồng lúc cạn đáy. Hình: Wikipedia Commons Khi xe của những người đi làm theo giờ giấc cố định đã đậu ở giữa phòng khách của mỗi gia đình, sau cánh cửa đóng, là thời điểm của những người có tiền đi ăn ngoài, đi chơi buổi tối. Xe ít đi và người đi bộ nhiều hơn. Hà Nội đang sửa soạn cho một năm đi qua, một năm sắp đến, nên đèn mở sáng choang trên phố đêm Hà Nội. Đặc biệt khu phố cổ là nơi du khách tụ họp rất đông. Đối với tôi, không phố nào đẹp bằng phố Hàng Mã dù ban ngày hay về đêm. Cái màu đỏ rực đến căng mạch máu ấy, nhuộm hồng lên tất cả làn da của ai khi bước vào khu phố đó. Đỏ nhang, đỏ đèn lồng, đỏ chân nến, đỏ phong bao, đỏ câu đối. Chỗ nào cũng toàn màu đỏ. Đỏ rực rỡ, đỏ nồng nàn, đỏ như bài thơ tình, đỏ như ly rượu cưới, đỏ như áo trạng nguyên, đỏ như áo cô dâu đứng trước bàn thờ gia tiên. Chao ôi, màu đỏ! Đến Hàng Mã rồi, đêm về giấc ngủ của tôi, giấc mơ của tôi cũng toàn màu đỏ. Người Hà Nội đến Hàng Mã để mua nhang đèn, vàng hương đi trả lễ. Đầu năm xin lễ, vay vốn ở chùa nào, thì cuối năm phải mang vàng hương đến tạ lễ ở chùa đó. Ôi, cái phong tục tập quán đó, mới đáng yêu, đáng quý làm sao! Hà Nội cuối tuần, phố cổ có “chợ đêm”. Một cái chợ chẳng bán một thứ gì ra hồn, và hàng nào cũng “Made in China”; từ cái quần jeans cho đến khăn quàng cổ, cái bút chì kẻ lông mày cho đến đôi giầy cao gót kiểu mới nhất; tất cả đều đi qua cửa khẩu Đồng Đăng- Lạng Sơn (cửa khẩu hữu nghị Việt-Trung) vào bày ở đây. Thỉnh thoảng cũng có những cái áo len đan vội của một bà mẹ nào đó mang ra bán, hay mấy đồ sứ Bát Tràng của người bán lẻ, chiếm một cái quầy nhỏ khiêm nhường. Hàng chè, hàng bánh cũng bày chen chúc trên lề đường. Cuối năm lại là dịp sắm Tết, nên hàng Tết về nhiều hơn, có thể đẹp hơn và may ra rẻ hơn. Chợ đêm vì thế kẹt cứng người, phần đông là thanh niên thiếu nữ đang ở tuổi hẹn hò và du khách cũng chen chân trong đó. Người đi ngắm nhiều hơn người mua. Tôi là một người lang thang trong cái chợ đêm đó; tôi ngắm người du khách ngoại quốc đang mua một cái khẩu trang của Việt Nam bày bán chung với những chiếc khăn quàng cổ của Trung Quốc. Bà đưa khăn lên ngang miệng, thử tới thử lui, rồi tìm cách trả giá, cuối cùng tôi thấy bà đưa 2 Mỹ kim, người bán và người mua cùng hài lòng; ngắm cô bán hàng đang đứng giữa đống quần jeans dưới đất, cô cầm hai ba cái tung lên cho khách nhìn rõ, dưới chân cô có miếng bìa cạc tông xé vội ra ở một cái thùng nào đó, viết nguệch ngoạc bằng mực đen: “Đồng giá 50,000/1 quần.” (Khoảng 3 Mỹ kim), các cô cậu chen nhau cúi xuống đống quần, cầm lên, bỏ xuống. Lựa mãi vẫn không ưng ý. Một bà mẹ tóc trắng phau ngồi bán chè đậu xanh, cái gánh của bà chỏng chơ vài cái chén nhỏ một bên, nồi chè một bên; lâu lắm mới thấy một người kéo ghế ngồi xuống với bà. Hai người mù dắt nhau (chắc người đi trước sáng hơn một chút) chen vào giữa đám đông, xin tiền. Thỉnh thoảng ở cuối dãy quầy hàng là một ngã ba, vẫn có một vài anh xe gắn máy không giữ luật cấm, xé lẻ lách vào, chạy vọt một cái không coi ai ra gì. Có người kêu lên: Chắc lại con “đại gia” đấy, có tông phải ai cũng không sao đâu. Chúng tôi rủ nhau, tối nay đi ăn lục-tào-xá, chí-mà-phù của một nghệ sĩ ưu tú ở phố Hàng Giày. Từ khách sạn ở phố Hàng Mành, đi bộ khoảng năm ngã tư thôi, nên chúng tôi tản bộ. Em tôi, người Hà Nội giới thiệu. Chỗ này, lần trước chị về, ăn rồi, nhớ không? Có phải cái lối đi vào ngõ, đen thui, tường bám đầy khói và dầu vừng (mè) không? Đúng rồi đó chị, vừa được giới thiệu lên truyền hình đấy nhé. Tháng Chạp, Hà Nội lạnh, người Hà Nội co ro trong áo len, áo dạ, người ở xa đến từ xứ lạnh, thêm cái áo khoác ngoài dày hơn một chút, coi như đủ ấm rồi. Chúng tôi thong dong đi bộ. Tôi nhận ra chỗ ăn chè lần trước, cũng vẫn những cái bàn thấp, những cái ghế thấp, ngồi chen chúc nhau, giấy ăn nho nhỏ trăng trắng, vứt đầy mặt đất đen ngòm. Khách ăn toàn người trẻ, thỉnh thoảng mới có du khách già như chúng tôi ghé vào. Ở ngay lối vào, vẫn hai người, một nam, một nữ cũng rất trẻ, người nam vừa kiểm soát, vừa phục vụ, người nữ thu tiền. Hai cái nồi sôi sùng sục; nồi chí-mà-phù, đang bắn những mảng vừng đen tung dán lên tường thành những lớp keo dầy, đen, bóng lưỡng; nồi lục-tào-xá cũng không kém, từng tảng màu vàng nhớp nhúa bắn tung tóe trên miệng nồi, rơi xuống đất, giẫm lê ra lối đi. Cái quán chè nóng hổi ban đêm này được người Hà Nội đặt tên cho là: “Nhem nhuốc, nhếch nhác, bẩn thỉu”, nghe ra rất xứng đáng. Chúng tôi ngồi vào gọi mấy chén chè, tôi bị người phục vụ, làm đổ nguyên một chén chí-mà-phù vào áo, may áo cũng mầu đen. Chẳng nghe thấy tiếng xin lỗi nào cả, chỉ được cô bé ngồi sau lưng lấy mấy miếng giấy lau hộ. Cám ơn cô, ít ra cũng có một người Hà Nội lịch sự. Có lẽ bị chè đổ vào áo, tôi ăn không thấy ngon như lần trước, và nhìn cả cái quán, thấy nhếch nhác, bẩn hơn lần trước nhiều. Chúng tôi ăn vội, để nhường chỗ cho một đám người trẻ khác đang kéo vào, rồi đi ra lang thang thả bộ. Hà Nội ban đêm hình như có một cái gì khang khác. Hai năm trước tôi chưa thấy, hay có rồi mà tôi không nhìn thấy. Trên vỉa hè của phố hàng Bồ (góc Lương văn Can,) thay vì chỗ xếp xe gắn máy, tôi thấy có nhiều chiếc chiếu cũ được trải ra. Trên một vài chiếc thấy đã có người ngồi; đó là những người rất trẻ, quần jeans, áo da, hay áo nỉ. Họ ngồi chung quanh một cái điã nhỏ có mấy con mực nướng, vài chai bia. Ở một cái chiếu khác, một tốp người lớn tuổi hơn một chút, có đĩa cánh gà, rượu trắng, và có một cỗ bài Tây (bài cào). Ở cái chiếu sát cạnh chỉ có đôi trai gái trẻ, đang ngồi ôm nhau rủ rỉ, trước mặt họ thấy có mỗi cái ấm trà với hai cái tách; trà chưa rót ra. Họ chưa thưởng thức trà vội, họ còn đang chụm đầu, thưởng thức nhau. Sau lưng mấy cái chiếu này, là những ngôi nhà: có nhà tư nhân, cánh cửa đóng kín; có nhà hàng, nhấp nhánh đèn mầu, lấp ló quầy rượu, văng vẳng điệu nhạc Jazz, bài hát “When I First Saw You” của: Eyen, Tom Lee, Krieger, Henry D; lời hát vừa đủ bay ra, thả rơi vào những chiếc chiếu bên ngoài vỉa hè: When I first saw you, I said oh my, that’s my dream, that’s my dream? I need a dream to make me strong, you are the only reason I had to go on. Tôi dừng lại, nghiêng tai nghe tiếng hát. Những người đang ngồi trên những chiếc chiếu trải trên vỉa hè, trong bóng tối kia, chắc mỗi người đều có một lý do để mơ giấc mơ của mình. Có người bạn chở tôi trên xe gắn máy ra tận khu Cầu Giấy để xem chợ đêm của rau và trái cây. Chợ đêm ở đây họp đến gần sáng, ở một góc không có đèn đường, mặt người nhờ nhờ như ở cõi âm, không nhìn tỏ mặt nhau. Người đi mua phải dùng đèn pin để lựa hàng. Phần đông là những người ở quê lên, mua sỉ ở chợ đêm Dịch Vọng (Cầu Giấy) rồi gánh vào trong thành phố bán lẻ lại ngay sáng hôm sau. Tôi đã có lần thức dậy từ 5 giờ sáng, đứng trên căn gác nhà em tôi ở đường Hòa Mã, gần chợ Hôm, nhìn xuống con phố vắng, chờ trong sương sớm; những cái bóng bé nhỏ của những phụ nữ từ các cửa ngõ thành phố gánh những gánh rau xanh, những gánh hoa đủ màu, kĩu kịt vào trong nội thành, rẽ ra nhiều hướng khác nhau.Và tôi được chờ, người đi về phía chợ Hôm để bán. Cái nhọc nhằn của những người phụ nữ lẻ loi gánh cả trách nhiệm gia đình trên đôi vai gầy guộc, vừa đẹp, vừa cảm động, làm tôi liên tưởng đến câu thơ: Cô gái Việt Nam ơi Chưa hết đâu, Hà Nội càng khuya càng nhìn rõ cái nhọc nhằn của phụ nữ. Phần đông phu quét đường, phu hốt rác ban đêm là phụ nữ. Họ làm việc trong thầm lặng. Khẩu trang che ngang miệng, chổi cầm tay, vừa đi vừa đẩy cái xe cút-kít, họ cúi xuống lề đường nhặt từng gói rác trong những căn nhà hai bên phố vứt ra, họ đi vòng những gốc cây quét đống rác ai đó vừa đổ vội cuối ngày. Đôi khi họ nhặt lên một bó hoa tàn, đứng tiếc rẻ, ngắm nghía một chút, lưỡng lự một chút, rồi mới bỏ vào thùng xe. Có bao giờ họ nhận được một bó hoa tươi không nhỉ? Trong đêm khuya khoắt đó thỉnh thoảng có một đoàn xe gắn máy rú lên như những con thú, phóng điên cuồng qua mặt những người phu rác, rồi mất hút, để lại một đám khói khét lẹt và những tiếng động dội trong lồng ngực họ, nghe như tiếng dội của thời đạn bom ngày cũ. Họ nhìn lên ngơ ngác, đất nước thanh bình, thịnh vượng lâu lắm rồi mà! Họ cúi xuống, làm cho nốt đêm nay. Và cuối cùng, bỗng dưng tôi thấy, ở trong những con hẻm mơ hồ nào đó, ở sau một gốc cây lấp khuất nào đó hay từ một công viên tối om; bước ra những cô gái trẻ lắm, họ trang phục khác mọi người, bước đi của họ cũng xiêu xiêu, thỉnh thoảng có một đốm lửa đỏ trên môi họ. Họ đi đâu, về đâu, mất hút ở một góc rẽ nào, tôi không đoán được, Nhưng chắc họ cũng phải đi bán, đi mua một cái gì đó để kiếm sống cho nguyên ngày mai. Họ là những cô gái chỉ biết kiếm sống khi bóng đêm đổ xuống. Đốm lửa trên môi có giữ họ ấm được suốt đêm nay? Tôi đi trong Hà Nội về đêm, ngước mặt nhìn những vì sao nho nhỏ lấp lánh trên bầu trời, cúi mặt nhìn xuống những vỉa hè chỗ lành, chỗ vỡ toang hoang trên mặt đất. Biết là mình đang đi giữa quê hương; một chút vui, một chút buồn, một chút bâng khuâng. Hơn ba mươi năm rồi đấy nhỉ! bỗng thấy thèm đọc một câu thơ: Em về đi giữa đêm Hà Nội Về thăm quê 1/2010 |