Màu Tím Trong Thơ |
Tác Giả: Tuệ Chương Hoàng Long Hải | |
Chúa Nhật, 31 Tháng 1 Năm 2010 19:59 | |
Thông thường mỗi màu có một vài ý nghĩa của nó, về một vài phương diện nào đó. Màu tím là mầu buồn, ấy là nói theo cách thông thường, nhưng chỉ riêng ở xứ ta, người ta phân biệt màu tím ở hai nơi: Chốn vương triều và nơi dân dã. Huế có 3 vòng thành: Vòng ngoài cùng thì gọi là thành Huế. Phía trong thành Huế thì gọi là Nội thành hay Thành nội Huế, có 9 cửa. Thành nhỏ phía trong, là chỗ sinh hoạt của hoàng gia, là các điện nơi triều thiết thì gọi là Đại Nội, có 4 cửa: Cửa chính gọi là Ngọ Môn (ngó ra hướng Nam). đối diện với Ngọ Môn là cửa Hòa Bình. Bên phải là cửa Hiển Nhơn, bên trái là cửa Chương Đức. Các cửa nầy khi mở có lính khố vàng (lính của vua) canh gác. Trong đại nội, còn có một thành nhỏ nữa, nơi dành riêng cho vua ở, canh gác rất nghiêm nhặt gọi là “Tử Cấm Thành”. Tử Cấm Thành có ý nghĩa như thế nào? Chữ tử nầy có hai nghĩa có thể giải thích ở đây: Tử như tử tế là tinh mật, kỹ càng và hai là sắc tím, sắc tía (Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh). Tuy nhiên, có lần tôi hỏi ông chú họ của tôi là người rành chữ Nho, thì ông giải thích tử có nghĩa là tím, thuộc về nhà vua. Trong quang học, “tia tử ngoại” là tia sáng có mầu tím. Dù có theo nghĩa Tử Cấm Thành hay không, Huế, nơi vua quan thì nó rất gần với màu tím. Màu tím đó được gọi là “Tím Huế”, như bài thơ sau đây của Nguyễn Bính: Màu tím Huế Thôi thế là em cách biệt rồi! Ban chiều tim tím nhớ mong nhau Mai mốt rồi đây lầm cát bụi Màu tím ở đây không hẵn là do Nguyễn Bính tưởng tượng ra đâu! Huế nằm bên cạnh dãy Trướng Sơn. Những buổi chiều hè, ngồi bên bờ sông Hương, nhìn mặt trời lặn sau những ngọn núi chập chùng, người ta sẽ thấy mặt trời to, đỏ như một khối lửa trong lò thợ rèn, từ từ hạ xuống, chạm vào đỉnh núi rồi tóe ra muôn ngàn tia sáng đỏ rực, tưởng như sự va chạm vào núi làm cho mặt trời vỡ ra. Ánh sáng màu đỏ của mặt trời chiếu vào mây, làm cho mây cũng đỏ rực lên một màu lửa như thế. Thế rồi, màu đỏ mất dần, chuyển sang màu tím nhạt, đậm dần lên cho đến khi mặt trời khuất sau dãy Trường Sơn. Màu đen dâng lên chìm ngập cả khung cảnh núi rừng thôn xóm phía tây thành Huế. Có lần tôi nói với học trò của tôi rằng không thể có sáng tím mà chỉ có chiều tím. Tại sao? Màu tím là màu pha giữa màu đỏ và màu đen. Màu đỏ là màu của mặt trời. Khi mặt trời sắp lặn thì mầu đen dâng lên, như Xuân Diệu từng nói vậy: “Chiều lên dần dần, chiều không xuống.” “Chiều lên dần dần” có nghĩa là màu đen lên dần dần. Khi màu đen dâng lên, hòa với màu đỏ của trời chiều tạo thành màu tím. Buổi sáng, màu đen không lên dần dần mà chỉ có thể mất đi dần dần nên nó không hòa với màu đỏ để tạo ra mầu tím được. Giải thích như thế, không biết có bị các họa sĩ chê là múa rìu qua mắt thợ không? Tuy vậy, cũng có lần Xuân Diệu không nói là “Chiều lên”. Ông nói ngược lại: “Chiều xuống.” Chiều ơi hãy xuống thăm ta với! Chiều xuống là cách nói thông thường của mọi người. Trong bài thơ trên, Nguyễn Bính nhìn màu tím qua cảnh thực: Rừng, núi, chiều hôm, sớm mai đều tím. Tím không đậm mà “tim tím”, có nghĩa là hơi tím. Núi, chiều và cả giấy hơi tím một chút. Và tím cũng là nỗi nhớ, nỗi thương đau nên nó từ hơi tím chuyển qua tím hẵn, tím đậm hay còn gọi là tím than. Trong một bài thơ khác, Nguyễn Bính chỉ vẽ ra vài nét về Huế, chỉ vài nét mà ông cũng không thể không nhắc tới màu tím: Vài Nét Huế 1. 2. 3. Vài nét ở trong bài thơ trên lại nói nhiều về cung phi, cung Tần và vua. Cầu Trường Tiền cong như cái lược ngà, nằm vắt lên hai bờ sông như hai cánh tay của vua. Điều ấy không quan trọng bằng có một cung nga đang làm “thơ thất tình”. Có cung nga đang làm dáng với ai, và hoàng thành thâm u một dãy thành dài. Bài thơ thất tình của cung nga, chính là bài thơ trong “Tần Cung Nữ Oán”: Cặp mày xanh chiếc lá cũng ghen, Có một cung phi đời Tần, ngồi bên dòng suối trong cung điện, nhặt một chiếc lá viết lên đó vài câu thơ cho người tình cũ, mong rằng chiếc lá sẽ trôi xa, ra tới ngoài kia, ngoài hoàng thành để mong sao người yêu cũ của cung nga nhận được, biết tới tấm lòng của nàng không quên người tình cũ. Vậy mà chiếc lá ghen với sắc đẹp của nàng, đã không trôi đi mà chìm xuống đáy nước. Thử hỏi, trong hoàng thành Huế kia, có bao nhiêu cung phi làm thơ thất tình như vậy? Màu Thời Gian Sớm nay tiếng chim thanh Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi Màu thời gian không xanh Tóc mây một món chiếc dao vàng Duyên trăm năm đứt đoạn Về hình thức, bài thơ nầy không có gì lạ như nhiều nhà phê bình tán dóc. Những câu thơ dài ngắn không thường, có khi chen vào mấy câu thể ngũ ngôn, thất ngôn, xem lại thì nó cũng giống như thể thơ cũ, gọi là “Trường đoản cú” (câu dài, ngắn) trong nguyên bản “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn vậy. Ví dụ các câu mở đầu trong “Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn viết như sau: Thiên địa phong trần. Nếu đem thể “truờng đoản cú” nói trên mà so với bài “Màu Thời Gian” của Đoàn Phú Tứ thì có khác gì nhau bao nhiêu. “Màu Thời gian” cũng pha lẫn giữa ngũ ngôn, thất ngôn, thơ mới, v.v… Tại sao Đoàn Phú Tứ không dùng những thể thơ cũ, như ngũ ngôn, tứ tuyệt, thất ngôn hay thể thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ thường làm… Có gì đâu! Tại vì ông ta là một nhà viết kịch thơ. Trong kịch thơ, thường các câu nói của nhân vật phải viết bằng thơ. Những lời nói như vậy, không thể cứ phải giữ một thể thơ mà thôi được. Bên Tây phương cũng vậy. Nếu độc giả có đọc những vở kịch của Shakespeare, thiên tài kịch nghệ của Anh, độc giả sẽ thấy trong lời thơ của các nhân vật, cũng viết theo thể đại khái như “trường đoản cú” của ta vậy. Ông Đoàn Phú Tứ quen dùng thể “trường đoản cú” để viết kịch, thì nay ông dùng nó thể viết bài thơ “Màu Thời Gian” cũng không có gì là lạ để tán hươu tán vượn. Điều rắc rối là bài thơ nầy khó hiểu. Khi thì ông nói tới hiện tại như “Sớm nay…”, khi thì ông nói tới quá khứ như: “Ngàn xưa, không lạnh nữa Tần phi” (tức cung phi đời nhà Tần (có thể là Tần Thủy Hoàng, ông có tới ba ngàn cung phi), bên Tầu; khi thì nói không gian: “Trời mây phảng phất”, khi thì nói thời gian: “Màu thời gian không xanh.”, khi thì nói “tình duyên trăm năm”, khi thì nói tình duyên ngắn ngủi, tới thề nguyền: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.” Đọc lên thì thấy hay, mà hiểu cho hết thì khó hiểu. Tướng Việt Cộng Nguyễn Sơn là một người rất yêu văn nghệ có nói “không hiểu nổi” nhưng “cứ nhơ nhớ, nó thanh thoát, nó lâng lâng, như khi nhìn áng mây trôi, khi ngắm dòng nước chảy… nó lung linh như một khúc nhạc thiều…, nó chập chờn như một bóng Liêu Trai!” Thật ra, bài thơ có nguyên ủy của nó, một động lực kín đáo khiến Đoàn Phú Tứ viết nên bài thơ nầy. Đoàn Phú Tứ giải bày rằng là có một giai nhân bên Hồ Tây từng học nhạc ở Hà Nội, từng quyến rũ Đoàn Phú Tứ bằng tiếng dương cầm rất hay, nhưng khi ốm nặng, cô gái ấy đã khước từ, dấu mặt, không cho ông vào thăm (như Tần phi “Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng) Thiên tài của nhà thơ là đem câu chuyện tình của người ông yêu ngày nay để ví với câu chuyện một cung Tần như đã nói ở trên. Người cung phi trong câu chuyện và cá tính của người yêu ông có những nét giống nhau, không chịu để người mình yêu thấy cái nhan sắc tàn tạ của mình, muốn để lại trong lòng người yêu những ấn tượng về vẽ đẹp, về tình yêu, về nhớ nhung. Làm sao nó giữ được nguyên vẹn như thuở ban đầu. Trong viễn tượng đó, nhà thơ còn bày tỏ được sự kín đáo, e lệ, và dịu dàng của giai nhân, bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, xưa nay, cũ mới, không gian, thời gian, yêu đương, nhớ nhung và tuyệt vọng trong một tình tự đặc biệt, qua những hình ảnh của cung nhân đẹp đẽ, trong cái lạnh lẽo của cung phòng, v.v… với những danh từ xưa nay lẫn lộn. Ví dụ “phụng quân vương” là tiếng cổ, ngày nay nếu chúng ta có nghe tới thì cũng chỉ thấy trong những tuồng cổ (hát bội hay cải lương). Bên cạnh đó “thiếp phụ chàng” là những tiếng của thời đại ông. Tản Đà viết: “Vàng bay mấy lá năm hồ hết, Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng.” Lại cũng qua đó, ta thấy hình ảnh cô Kiều cắt tóc thề bồi cùng Kim Trọng: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.” Một điều khác, rất đặc sắc và mới lạ của bài thơ của ông là màu sắc. Khi nói tới màu sắc, thường người ta nói tới không gian: Màu trời, màu chiều, màu núi sông, thành quách. Đoàn Phú Tứ có cái nhìn đặc biệt: Ông thấy màu sắc trong thời gian. Đó là màu tím, màu buồn; mà lại tím ngắt, là tím Huế, tím của thành quách cung đền miếu mạo, cũng có thể là màu của cung A Phòng nữa chăng, nên nó lại càng buồn hơn. Đọc bài thơ nầy của ông, người đọc cảm thấy buồn, nhưng cái cảm nhận ấy, không phải ở món tóc cắt thề nguyền, không phải vì “cung lạnh”, không phải “tình trăm năm không vẹn”, mà chính ở màu thời gian buồn bã do ông vẽ ra trước mắt người đọc, trong trí tưởng của người đọc. Màu thời gian đó, cộng hưởng với hương thời gian, hai thứ quyện lẫn vào nhau, đan chéo vào nhau và đem lại cho người đọc một nỗi buồn nhẹ nhàng mà sâu lắng vô cùng. Trong chiến tranh chống Pháp, phần đông những người theo kháng chiến còn ít nhiều bản chất tiểu tư sản, ít người không biết tới bài thơ “Màu Tín Hoa Sim” của Hữu Loan. Mặc dù lúc bấy giờ, chính quyền Việt đã có lệnh cấm và lưu giữ bài thơ nầy, nhưng hầu hết trong ba lô những người nói trên, trong sổ tay họ đều có bài thơ nầy: Màu tím hoa sim Nàng có ba người anh đi bộ đội Tôi người Vệ quốc quân Tôi mặc đồ quân nhân Nhưng không chết Tóc nàng xanh xanh Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím Một chiều rừng mưa Chiều hành quân Nội dung bài thơ là một câu chuyện thật, diễn tả tâm trạng một người đi bộ đội. Anh ta và người vợ yêu nhau tha thiết, đám cưới đơn sơ vì chiến tranh, vì hoàn cảnh, nhưng rồi họ xa nhau rất sớm. Người chồng lên đường vì nhiệm vụ, người vợ ở lại quê nhà và mất sớm. Thay vì người lính “sợ khi mình không về, thì thương người vợ chờ…” thì lại “chết người em nhỏ hậu phương.” Tại sao cô ta ở hậu phương mà chết sớm? Có riêng gì một trường hợp người vợ trẻ của Hữu Loan chết đuối mà trong cuộc chiến tàn bạo xảy ra 30 năm trên dãi đất Việt Nam, có biết bao nhiêu nghịch cảnh. Cuộc chiến nầy là cuộc chiến nhân dân, người ở bên nầy hay bên kia, dù hậu phương cũng dễ chết không kém gì người ở tiền tuyến: Máy bay oanh tạc, pháo kích bừa bãi, bị bắt dân công cực khổ, đói rách bệnh tật, chết chóc, nhất là các dân công chiến trường… Nội dung bài thơ là một tâm tình đau đớn của những người đi trong chiến tranh, sống trong chiến tranh và tồn tại trong chiến tranh. Chính những kẻ sống sót và tồn tại trong chiến tranh, chính là những người mang một tâm trạng đau đớn nhất vì những mất mát, chia ly, đói khổ và tù đày. Trước năm 1954, những người ở vùng quốc gia ít ai biết bài thơ nầy. Năm 1957, trên tuần báo Mùa Lúa Mới xuất bản ở Huế, Đỗ Tấn giới thiệu bài thơ nầy với độc giả miền Nam vĩ tuyến 17. Thế rồi qua báo chí, bài thơ được phổ biến ở Sài gòn, nhiều người thích thú, đọc, in lại, chép lại và trao cho nhau. Dũng Chinh là người đầu tiên phổ nhạc bài thơ nầy, dưới tiêu đề “Những Đồi Hoa Sim” và “Con Nhạn Trắng Gò Công” đã truyền thụ những cảm xúc về thân phận người Việt Nam trong chiến tranh bằng giọng hát của cô trên khắp miền Nam và ra tới miền Bắc. Vào Nam, không ít cán bô, bộ đội miền Bắc, tìm nghe cho được tiếng hát Phương Dung qua bản “Những Đồi Hoa Sim” của Dũng Chinh. Dũng Chinh tốt nghiệp khóa 26 (hay 27 Thủ Đức?) và hy sinh ở đồi Peatrice ở Phan Thiết chỉ mấy tháng sau khi tốt nghiệp, khi mới 28 tuổi. J. Leiba có câu thơ “Người đẹp thường hay chết yểu, Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai.” Trong trường hợp nầy, thi nhân lại là một nhạc sĩ tài hoa. (Phạm Duy cũng có phổ nhạc bài thơ nầy, lời ca của ông sát với bài thơ của Hữu Loan hơn, nhưng không được phổ biến bằng bài hát của Dũng Chinh). Câu chuyện tình tuy đơn giản, nhưng lời thơ thì rất hay, được đánh giá là một trong những bài thơ tình hay nhứt thi ca Việt Nam hiện đại. Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu gia đình người vợ của ông: Thời chinh chiến, cả ba người anh trai đều tham gia bộ đội, trong khi đó, người vợ ông còn có những em quá nhỏ (chưa biết nói). Cô cũng vừa mới lớn (tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đầy búi). Đám cưới hai người rất đơn giản: tác giả là người lính Vệ Quốc Đoàn, xa gia đình. Cô gái thì “không đòi may áo cưới” vì biết gia đình người chồng nghèo. Người chồng cũng chỉ có bộ “đồ quân nhân”, và cũng là người độc đáo: trẻ, đang làm nhiệm vụ của người con trai trong cơn khói lửa và biết làm thơ. Anh ta bê bối hay lười biếng độc đáo đến độ đôi giày đinh không lau sạch, còn “bết đất hành quân.” Một điều đáng buồn hơn: họ không có tuần trăng mật, “cưới xong là đi” ra chiến trường. Bài thơ nầy có nhiều hình ảnh đặc biệt: Màu hoa sim tím buồn bã và cảnh u tối của ngôi mộ trong bóng chiều hôm: “Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.” Và một hình ảnh khác, không những buồn bã mà còn là nghèo khổ, nghèo đến độ không mua nỗi một bát nhang, dùng cái bình hoa ngày cưới để biểu tượng cho người đã chết, một bình hoa có nhiều tàn hương lạnh chung quanh chưa kịp quét: “Chiếc bình hoa ngày cưới, thành bình hương tàn lạnh vậy quanh”. Ý tưởng hay và hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ chính là cảnh “chiều hoang biền biệt!” “Chiều hành quân Buổi chiều, người lính đi qua những đồi hoa sim, với một nỗi buồn da diết, hết “thương người vợ chờ” thì nay lại “tôi về không gặp nàng, má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”. Có ai từng đi qua những vùng đồi hoang gần chân núi Trường Sơn ở miền Trung nước Việt mới thấy những ngọn đồi thoai thoải chập chùng, kéo dài đến bất tận. Đi trong cảnh trời chiều lặng lẽ ấy, người ta dễ cảm nhận hết nỗi buồn của nguời xa quê. Đó là những ngọn đồi hoang, với rừng cây hoang, phần nhiều là cây sim dại, cây mua dại. Cây mua và cây sim đều có hoa mầu tím như nhau, khác chỉ là trái mua không ăn được. Vùng đồi nầy là vùng cây hoang, nên tác giả mới gọi là chiều hoang. Tiếng hoang nầy là danh từ Hán-Việt, có nhiều nghĩa, vừa là cây cối mọc hoang, không ai trồng, không ai chăm sóc, vừa có nghĩa là mênh mông, xa tít mù khơi tới tận chân trời. Cây mọc hoang ở đây là cây sim, đến mùa hoa nở thì màu tím trùm khắp cả ngọn đồi, từ đồi nầy qua đồi khác. Màu hoa sim lan xa mãi, trải dài ra mãi, đi biền biệt tới cuối chân trời. Vì vậy, tác giả nhắc đi nhắc lại những mấy lần câu “những đồi hoa sim”: Qua những đồi hoa sim Màu tím là mầu buồn, nhưng không hẵn mầu ấy không nhắc người lính nhớ tới một kỷ niệm, một hình ảnh. Những người con gái thường thích mặc áo mầu tím. Mầu tím phản ảnh với nước da trắng làm cho các cô trắng thêm. Hơn thế nữa, nó là mầu của tuổi biết yêu, đã có tình yêu, đã có cá tính riêng hay có một kỹ niệm, một tâm sự. Sài gòn náo nhiệt, hình như mầu tím chìm đi trong cái náo nhiệt và ồn ào của thủ đô miền Nam, chiếc áo tím chìm đi trong muôn vàn màu sắc rực rỡ. Huế thì trái lại. Cùng với hoàng thành âm u, với dòng sông chảy chầm chậm, ngập ngừng với phố xá không quá đông đúc, chiếc áo tím của các cô gái Huế nổi bật lên, khiến người ta không chú ý không được. Hoa tím có nhiều loại: Hoa sim, hoa mua, hoa cà, hoa khoai lang, hoa sầu đông. Hoa sim, hoa cà ít có mùi hương; hoa sầu đông hương thơm ngào ngạt… Người miền quê ưa mặc áo tím hoa cà, đậm hơn một chút người ta chọn mầu hoa sim. Các cô gái Huế, không hiểu có phải chịu ảnh hưởng màu tử cấm thành, mầu hoàng thành mà chọn mầu tím đậm, mầu tím than, Nguyễn Bính gọi là “Tím Huế”. Trời chiều mầu tím làm cho nhạc sĩ Đan Thọ xúc cảm mà phổ thơ bài Chiều Tím của Đinh Hùng, “Ngàn Thu Áo Tím” của Hoàng Trọng, hoặc câu chuyện một cô gái thích mặc áo tím đi dạo phố mà thành “Ngàn Thu Áo Tím”, của Hoàng Trọng, “Tà Áo Tím” của Hoàng Nguyên hoặc Văn Quang vì yêu “Chân Trời Tím” nên viết cuốn sách cùng tên. Đó là “Mầu Kỷ Niệm” của Nguyên Sa được Phạm Đình Chương phổ thành nhạc. Người học trò viết thư bằng mực tím, nhưng pha mực cho đậm hơn chút nữa cho “vừa mầu nhớ thương! Trở lại câu chuyện tình của Hữu Loan. Liệu ông ta có chung thủy với người vợ mới qua đời? Nếu quả thật ông giữ lòng nguyên vẹn trước sau, thì tại sao trong cảnh trời mầu tím buồn thảm của một buổi chiều mênh mông, ông ta lại có thể hát một câu ca dao lẵng lơ, nguời ta tưởng như ông đã quên người vợ trẻ quá có rồi: “Áo anh sứt chỉ đường tà, hoànglonghải Nhớ ngày nào tan trường về chung lối Rồi một ngày kia em khoe áo mới xanh hơn mây trời. Mười mấy năm qua khi hoa vừa hé Em biết không em, xuân lại trở về, Ngàn Thu Áo Tím Ngày xưa xa xôi, em rất yêu màu tím. Ðiệp khúc : Từ khi xa anh, em vẫn yêu và nhớ, Chiều Tím Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài Đàn nhớ từng cánh hoa bay, vầng trăng viễn hoài Ai nhớ ... mắt xanh năm nào Chiều tím chiều nhớ thương ai, còn thương nhớ hoài Từ đấy đàn nhớ thanh âm chùng dây vỹ cầm Người ấy lòng hướng trăng sao, hồn say chiến bào Mây gió... bốn phương giăng hàng Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu |