Sau gần ba năm với sáu phiên xử Toà Án Quận Travis Texas Tuyên Án Phạt Bị Cáo Đỗ Phúc Bồi Thường 1.9 Triệu Đô La về Tội Mạ lị, Phỉ Báng |
Tác Giả: Phong Trần | |
Thứ Sáu, 04 Tháng 11 Năm 2011 05:33 | |
Austin, TX -- Nữ chánh án Gisela D. Triana, thuộc quận hạt Travis, Texas đã đọc bản án của 12 bồi thẩm đoàn vào lúc 3 giờ 45 phút chiều ngày thứ năm 27 tháng 10 vừa qua tuyên án bị cáo, Michael Do, còn được gọi là Đỗ văn Phúc đã vu khống, mạ lỵ, phỉ báng gia trọng và làm thiệt hại đến danh dự, tinh thần và vật chất của nguyên đơn, là Nancy Bùi, bút hiệu Triều Giang. Bản án cũng đã phạt ông Đỗ văn Phúc phải bồi thường cho bà Nancy Bùi một số tiền là 1 triệu 9 trăm ngàn đô la. Tranh cãi Được biết, vụ án đã gây khá nhiều chú ý của cộng đồng người Việt tại Hoa kỳ và khắp nơi trên thế giới từ gần 3 năm qua, đã có năm phiên toà trước đây nhưng bị đình nhiều lần, và được tái xét xử vào ngày thứ Hai, 24 tháng 10, 2011. Phiên toà đã qua bốn ngày xét xử với hàng nhiều trăm trang tài liệu. Phía bị cáo, ông Michael Do, đã đưa ra luận cứ rằng bà Nancy Bùi là người của công chúng và ông có quyền phê phán (criticize). Những bài viết đăng trên trang mạng www.michaelpdo.com, điện thư, hoặc trong sách “Nanh Hùm Nọc Rắn” của ông nói về nguyên đơn chỉ là việc ông hành xử quyền tự do ngôn luận (freedom of speech). Phiá nguyên đơn phản bác dù có là người của công chúng thì những phê bình phải đúng sự thật và những cáo buộc phải có bằng chứng, nếu không sẽ là vu khống mạ lỵ và phỉ báng với ác ý. Trong hai ngày đưa chứng cớ, bị cáo Đỗ Phúc đã không có một bằng cớ hay nhân chứng nào để chứng minh được những tố cáo của ông rằng bà Nancy Bùi khi làm việc cho công ty Pacifica bà đã bị đuổi việc vì thâm lạm công quỹ, bà là Việt Gian từng buông lời miệt thị một số đảng phái quốc gia, và cựu quân nhận VNCH. Bà từng kiện hai cô em gái và người làm ra toà. Ngoài ra, những bài viết được đăng trên trang mạng của ông Đỗ Phúc và một số điện thư cũng như những bài viết của ông đăng trên Tinparis.net, Vietland, và một số trang mạng khác, còn ám chỉ bà là Cộng sản, Cộng sản nằm vùng, thân Cộng qua những lời tố cáo, như việc nguyên đơn Nancy Bùi đã cùng với Bộ trưởng Ngoại Giao Texas đưa phái đoàn doanh nhân Texas về VN để ký kết làm ăn với Việt Cộng làm trễ nải việc tranh đấu công nhận cờ vàng của các cộng đồng người Việt tại Texas. Bị cáo còn tố cáo nguyên đơn đón Nguyễn Tấn Dũng tại Austin năm 2004, và tại Dallas năm 2007. Thêm vào, phái đoàn của nguyên đơn và hội Bảo Tồn Lịch Sử Người Mỹ Gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation - VAHF) đến Vietnam Center năm 2007 bao gồm nhà văn Cộng sản Bảo Ninh, sau khi lập hội VAHF. Và rồi; bà Nancy Bùi vẫn đi về Việt Nam tiếp tục buôn bán với Việt Cộng một cách an toàn. Bà còn có cơ sở chế biến thực phẩm to lớn tại Gò Vấp, Việt Nam, và là chủ nhân của hai công ty xuất nhập cảng cà phê A&B và Bam Bo O Café tại Việt Nam. Khi làm việc với công ty Pacifica đã tặng chính phủ Việt Cộng nhiều trăm ngàn đô la… Trong khi đó, nguyên đơn Nancy Bùi đã đưa ra chín nhân chứng và hàng trăm trang tài liệu để chứng minh tất cả những lời tố cáo trên là không đúng sự thật và không có bằng cớ. Hai nhân chứng quan trong là cựu tổng giám đốc Pacifica, ông Michael Shapiro, cấp trên của nguyên đơn đã ra làm chứng rằng nguyên đơn đã tự nghỉ việc, công ty Pacifica đã không đuổi bà. Nguyên đơn đến Việt Nam là do Pacifia đưa về để đại diện cho công ty. Nguyên đơn không hề cho chính phủ Việt Nam nhiều trăm ngàn đô la dù với tính cách cá nhân hay đại diện Pacifica. Cựu bộ trưởng ngoại giao Texas, ông Geoff Conor, đã làm chứng trước toà rằng nguyên đơn không hề tham gia việc đón tiếp các phái đoàn Việt Cộng đến Texas, không tham gia phái đòan doanh nhân về Việt Nam năm 2004, và không có vấn đề vì sự có mặt của phái đoàn mà việc công nhận cờ vàng bị chậm trễ vì phái đoàn đến Việt Nam vào thánh 8 năm 2004, việc tranh đấu cho cờ vàng mãi đến tháng 11, 2004 mới xảy ra. Bản án làm gương (Examplary damages) Bồi thẩm đoàn sau gần 4 tiếng đồng hồ bàn thảo và bỏ phiếu với đa số tuyệt đối, không có phiếu chống, tuyên án bị cáo Đỗ Phúc phải bồi thường 900.000 đô la cho những sự thiệt hại về danh dự, tinh thần và vật chất cho nguyên đơn Nancy Bùi, và vì tính cách gia trọng của sự vi phạm nên đã phạt bị cáo thêm $1,000,000 để răn đe và làm gương (Examplary damages). Để chứng minh sự vi phạm có tính cách gia trọng, nguyên đơn phải chứng minh được rằng bị cáo coi thường luật pháp, biết rằng những điều tố cáo là không đúng sự thật nhưng vẫn cứ vi phạm với ác ý. Luật sư Brian Turner của nguyên đơn đã hỏi bị cáo trước toà rằng ông có nghĩ rằng nguyên đơn Nancy Bùi là cộng sản, tay sai Cộng sản, hay thân Cộng hay không? Ông Đỗ Phúc trả lời là “không”. Điều này chứng minh rằng Ông Đỗ Phúc biết bà Nancy Bùi không phải là Cộng sản, tay sai Cộng sản hay thân cộng nhưng ông vẫn tố cáo và tiếp tục tố cáo. Điều thứ hai là sau khi có vụ kiện, khi bị cáo còn có luật sư, ông Tonny Ciccon, người đã thẩm vấn nguyên đơn và bà đã cho biết bà không hề có cơ sở kinh doanh hoặc làm chủ công ty nào tại Việt Nam. Bà chỉ mua cà phê và bán lại tại Hoa kỳ. Lần cuối bà về Việt nam là tháng 3 năm 2003. Mãi gần 2 năm sau, cuối năm 2004, bà và một số thân hữu mới thành lập hội VAHF. Bà đã cho bị cáo xem sổ thông hành (passport) của bà, bị cáo biết rõ bà Nancy Bùi không về Việt Nam từ tháng 3 năm 2003, nhưng tiếp tục tố cáo nguyên đơn sau khi lập hội VAHF năm 2004, bà vẫn về bắt tay với Việt cộng buôn bán một cách an toàn. Hơn thế nữa, bị cáo cũng đã khai trong phần khẩu cung là bị cáo sẽ tiếp tục để những bài tố cáo không bằng chứng này trên trang mạng của bị cáo. Bồi thẩm đoàn đã chấp nhận những chứng cớ nêu trên và kết luận sự vi phạm có tính cách ác ý và coi thường luật pháp. Luật sư nguyên đơn, Ông Brian Turner trong phần kết luận đã phát biều:” Tôi hy vọng rằng sự thật sẽ được sáng tỏ truớc toà để những người muốn khống chế người khác bằng cách vu khống nạn nhân trên internet, hoặc những phương tiện truyền thông khác sẽ bị trừng phạt. Có như thế, những nạn nhân của những sự vu khống, mạ lị như trường hợp của bà Nancy Bùi là nạn nhân của ông Michael Do không phải sống trong tủi nhục, và đau khổ vì sự hàm oan. Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng điều vô lý này sẽ không tiếp tục xảy ra, để những người muốn làm việc thiện nguyện, phục vụ cho cộng đồng không phải chịu đựng những dau đớn vì những kẻ giám coi thường luật pháp làm tất cả để hại họ mà họ không có tiền để đưa kẻ vu khống ra toà hay họ không biết dùng compuer hay internet để lên tiếng cho họ. Sau khi đọc bản án, chánh án Triana đã gọi bị cáo lên, và với giọng xúc động, bà cho biết bà theo cha mẹ di dân từ Cuba đến Hoa kỳ từ năm bà 3 tuổi nên bà hiểu rất rõ những gì đang xảy ra trong cộng đồng người Mỹ gốc Cuba cũng như người Mỹ gốc Việt. Bà đã nghẹn lời khi nói với bị cáo rằng: “Quý vị đã mất quê hương, đến đây tị nạn, tại sao quý vị không xây dựng lại cuộc đời một cách an bình? Tại sao quý vị đối xử với nhau đau xót như thế này? Tôi hy vọng sau ngày hôm nay ông hãy suy nghĩ lại để sống tốt hơn.” (You have lost your country, you come here with opportunity to rebuild your life better in peace. Why do you treat each other like this? I hope after today, you will rethinking and live better.) Bị cáo trả lời: “Tôi có con đường của tôi. Tôi sẽ chống án.” Chánh án Triana tiếp lời: “Chúc ông nhiều may mắn!” Một số điểm cần lưu ý trong các vụ án mạ lị, phỉ báng tại Texas Một số chi tiết quan trọng qua vụ án này xin được ghi lại để bạn đọc lưu ý: * Chánh án Gisela Triana trước khi xử án đã đọc từ bộ luật dân sự Texas định nghiã thế nào là mạ lị và phỉ báng. Rằng một người nói, viết, xuất bản, tái xuất bản, hoặc ám chỉ những điều làm hại danh dự, tinh thần và vật chất một người khác sẽ bị xử phạt bồi thường cho những thiệt hại đó. Như thế, lý luận: “không gọi một người là Cộng sản mà chỉ viết những điều về người đó để người đọc tự kết luận thì không sợ bị kết tội trước toà”, không còn đứng vững nữa vì luật Texas công nhận việc ám chỉ cũng là vi phạm. * Báo chí, tài liệu in từ các trang mạng, thư từ của người thứ ba không phải là của nguyên đơn hay là bị cáo không được coi là chứng từ trước toà vì không thể kiểm chứng được sự trung thực của những tài liệu này. Do đấy, khi bị cáo Đỗ Phúc in tài liệu từ một số trang mạng, cắt một vài bài báo để đưa ra toà làm chứng đã bị khước từ. Để chứng minh ông là người có nhiều uy tín trong cộng đồng, ông đã đưa ra hai lá thư ủy nhiệm ông đại diện cộng đồng Austin và San Antonio đi tham dự cái gọi là Đại hội Cộng Đồng Người Việt tại Hoa Kỳ đề ngày 30 tháng 9 năm 2011, ký bởi “Quyền Chủ Tịch Cộng Đồng Austin” Châu Kim Khánh và Chủ tịch Cộng Đồng San Antonio Phan Quang Trọng, những thư này đã bị toà khước từ không nhận. Để chứng minh rằng cộng đồng người Mỹ gốc Việt có luật bắt buộc những người Mỹ gốc Việt làm chủ tịch cộng đồng hoặc các hội đoàn khác phải là người không về Việt Nam hoặc ít nhất không được làm ăn với Việt Nam, bị cáo đỗ Phúc đã trình toà copy by law của tổ chức Cộng đồng Người Việt Tại Hoa Kỳ làm bằng chứng, cũng đã bị khước từ. Bị cáo Đỗ Phúc đã lý luận rằng đây là một tổ chức bao trùm (umbrella) cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt mà mọi người phải theo. Chánh án Triana hỏi ngược lại:” Ông đang nói với tôi rằng ở ngoài kia đang có những người viết luật bắt tất cả người Mỹ gốc Việt phải theo?” (Are you telling me out there, there are some people writing law to apply to all Vietnamese American?). Bị cáo Đỗ Phúc trả lời: “Là by law chứ không phải law”. Chánh án Triana tiếp lời: “Nếu chỉ là by law thì nó chỉ có thể ảnh hưởng đến hội viên của tổ chức đó mà thôi. Bà Nancy Bùi có là hội viên của tổ chức này không?” Bị cáo đáp lời:”Thưa không”. Chánh án Triana: “Như vậy không có gì để nói về cái by law này nữa!” * Băng thu âm hoặc thu hình người thú ba có được dùng làm bằng chứng trước toà? Thưa không. Ông Đỗ Phúc đã đưa một cuốn băng ngay trong phiên toà nói rằng trong đó có thu âm một người đã nói nguyên đơn Nancy Bùi đã kiện hai cô em. Cuộn băng này chưa hề được đưa ra cho bên nguyên đơn để kiểm tra và vì chỉ là lời nói thu băng của một người thứ ba không có giá trị trước toà. Thật ra, nếu muốn chứng minh nguyên đơn có kiện 2 người em gái là một điều quá dễ dàng. Bị cáo chỉ mất 10 phút, xuống văn phòng lục sự của toà để xin hồ sơ toà án (court check) của nguyên đơn, nguyên đơn sống trong Quận hạt này từ năm 1984, tất cả những vụ nguyên đơn kiện người khác hoặc bị người khác kiện đều sẽ nằm trong hồ sơ tóa án này. Phong Trần |