Xuất khẩu Việt Nam vào Mỹ có nguy cơ bị « vạ lây » vì Trung Quốc |
Tác Giả: Trọng Nghĩa / RFI |
Thứ Hai, 04 Tháng 10 Năm 2010 13:15 |
Hoa Kỳ vừa quyết đinh tăng cường các biên pháp điều tra chống trợ giá hoặc bán phá giá đói với hàng nhâp vào Mỹ. Chiều hướng khắt khe thêm này đe dọa ngành xuất khẩu Việt Nam. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể bị cáo buộc là cho Trung Quốc mượn tên để xuất hàng của họ vào Mỹ, né tránh các sắc thuế chống bán phá giá. Cờ Mỹ-Việt cạnh nhau đánh dấu tiến trình hòa giải giữa hai bên / Reuters Như tin chúng tôi đã loan, mới đây, nhân hai ngày họp tại Tổ chức Thương mại Thế giới WTO ở Genève, Việt Nam đã kêu gọi Mỹ xét lại việc điều tra chống trợ cấp và chống bán phá giá vì các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam ngày càng gặp nhiều vụ kiện của nước ngoài, trong đó Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu là hai thị trường đã kiện cáo nhiều nhất. Tuy nhiên khó khăn của Việt Nam dường như không chỉ có vậy. Giới tư vấn về luật thương mại còn cảnh báo là Việt Nam nên thận trọng khi tiếp nhận đầu tư từ Trung Quốc để chế biến hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Lý do là phía Mỹ còn có thể cáo buộc Việt Nam bán phá giá vào thị trường của họ các sản phẩm của Trung Quốc. Mà không chỉ có Hoa Kỳ, dường như Liên hiệp Âu Châu cũng đang chú ý tới việc này do quy chế gọi là "kinh tế phi thị trường" của Trung Quốc và Việt Nam. Về hai vấn đề có liên can với nhau nói trên, báo chí Việt Nam trong những ngày qua đã liên tiếp lên tiếng báo động về điều được gọi nôm na là « 14 hàng rào » mới được dựng lên tại thị trường Mỹ, gây khó khăn vô kể cho các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc hay các nước chưa được Hoa Kỳ công nhận quy chế ‘’kinh tế thị trường’’ khi xuất hàng vào Mỹ. Các rào cản này nằm trong các đề xuất do Bộ Thương mại Mỹ loan báo hồi cuối tháng 8 vừa qua, nhằm tăng cường việc áp dụng Luật thương mại và hỗ trợ cạnh tranh cho các doanh nghiệp Mỹ. Cụ thể, có tới 14 đề xuất thay đổi luật lệ và thủ tục hành chính để thúc đẩy việc thực thi các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp của Hoa Kỳ. Một phần nội dung các đề nghị này liên quan đến quy trình và cách thức điều tra đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường, theo hướng thắt chặt và gây bất lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài nhằm tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Hoa Kỳ. Khi được mời giải thích thêm về các rào cản này, ngày 29/09 vừa qua, luật sư Mỹ William H. Barringer, một chuyên gia trong các vụ kiện chống bán phá giá, đã tiết lộ rằng mục tiêu của những chính sách của Hoa Kỳ thực ra nhắm vào Trung Quốc, nhằm “giảm thâm hụt thương mại ngày càng gia tăng giữa hai bên”. Thế nhưng, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp Việt Nam đã bị vạ lây, vì thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị doanh nghiệp Mỹ coi là mối nguy cơ tiềm tàng bởi vì giới xuất khẩu Trung Quốc đang có xu hướng đầu tư và đặt nhà máy ở Việt Nam để làm ra hàng hóa xuất qua Hoa Kỳ dưới nhãn hiệu « Made in Vietnam », qua đó trốn được thuế chống bán phá giá mà Mỹ áp dụng cho hàng nhập từ Trung Quốc. Báo chí Việt Nam đã nêu lên cụ thể trường hợp của một loại mắc áo, sản xuất tại Trung Quốc, lắp ráp tại Việt Nam, xuất qua Hoa Kỳ và bị kiện bán phá giá để nhắc lại khuyến cáo do Phòng thương mại Việt Nam đưa ra, theo đó Việt Nam phải hết sức thận trọng tiếp nhận đầu tư từ Trung Quốc. Để tìm hiểu rõ thêm về các khó khăn mà hàng xuất khẩu Việt Nam có nguy cơ gặp thêm tại thị trường hàng đầu của mình, RFI đã nhờ chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại California (Hoa Kỳ) giải thích thêm. Các biện pháp áp thuế cao trên hàng nhập từ Việt Nam và Trung Quốc xuất phát từ quy chế "Kinh tế phi thị trường" của hai nước - Khi xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, xứ nào cũng phải thỏa mãn từng quốc gia thành viên ở trong tổ chức này từ trước. Khi Trung Quốc xin gia nhập sau 13 năm lập hồ sơ, họ thương thảo với Mỹ để được một số điều kiện đặc miễn về yêu cầu cải cách vì vẫn có nền kinh tế chưa hẳn là thị trường, gọi là kinh tế phi thị trường. Năm 2001, và trước sự chứng giám của WTO, đôi bên thỏa thuận là Trung Quốc vẫn có nền kinh tế phi thị trường trong vòng 15 năm. Phía Việt Nam cũng vậy, đã yêu cầu và năm 2007 được Mỹ đồng ý là có nền kinh tế phi thị trường trong thời hạn 12 năm. Sau thời hạn ấy là phải tôn trọng luật chơi bình đẳng như mọi xứ khác. Cùng Hoa Kỳ, các quốc gia Liên Âu thành viên của WTO cũng đồng ý với khái niệm đặc biệt này, đặc biệt vì tuyệt đại đa số hội viên WTO đều đã có nền kinh tế thị trường. - Mặt trái của vấn đề là khi còn kinh tế phi thị trường, hội viên mới của WTO có thể bị cứu xét khắt khe hơn để tránh tình trạng trợ giá xuất khẩu và bán phá gia. Từ năm 2006, Liên Âu đã nêu vấn đề với Việt Nam sau khi nêu vấn đề với Trung Quốc. Từ năm 2008, đến lượt Mỹ cũng dùng luật lệ này để kiện doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam và đòi trả đũa bằng thuế nhập nội. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước hiếm hoi không được Mỹ công nhận là đã có nền kinh tế thị trường - Thật ra, chẳng quốc gia nào lại có nền kinh tế thị trường 100%, nhưng phía Mỹ đưa ra ý niệm phi thị trường cho các nước xưa kia là cộng sản đã từng có chế độ tập trung kế hoạch và hiện nay họ còn áp dụng cho vài quốc gia Trung Âu, Trung Á, nhất là Trung Quốc và Việt Nam. Mỹ định nghĩa "phi thị trường" là khi nhà nước đặt ra chỉ tiêu hay định mức về bảy lãnh vực chính là sản lượng, giá cả, phí tổn, nguyên liệu, lương bổng lao động, ngoại thương và phân bố đầu tư, trong đó có cả đất đai. Nói chung là khi nhà nước can thiệp vào tình hình cung cầu của kinh tế quốc dân. Về thực chất thì Trung Quốc lẫn Việt Nam đều đang ở trong tình trạng này. - Khi giao dịch với nền kinh tế phi thị trường đó mà doanh nghiệp Hoa Kỳ hay Âu Châu bị thiệt thì họ có quyền khiếu nại. Chủ yếu là khiếu nại về việc trợ giá từ gốc dưới nhiều hình thức khác nhau, hoặc bán phá giá nếu so với cùng loại sản phẩm đó được bán từ một thị trường khác, là thị trường "điền thế" mà họ dùng làm cơ sở đối chiếu. Cụ thể là họ cứu xét xem có xuất khẩu với giá rẻ hơn thị trường nội địa không, có bán với giá rẻ hơn khi bán cho thị trường khác không, hoặc có bán với giá thấp hơn giá thành không. Hoa Kỳ là quốc gia có luật lệ rất tinh vi ác liệt khi Bộ Thương Mại phải cứu xét chuyện này. Đó là về bối cảnh. Khó khăn kinh tế tai Hoa Kỳ khiến chính quyền đẩy mạnh chính sách "tăng xuất, giảm nhập" - Về hoàn cảnh thì cả Hoa Kỳ lẫn Liên Âu đang gặp khó khăn kinh tế, cần đẩy mạnh xuất cảng và hạn chế nhập cảng. Xu hướng bảo hộ mậu dịch để bảo vệ công việc làm lại đang mạnh tại Mỹ dưới áp lực công đoàn và đảng Dân Chủ, cho nên việc kiện tụng của doanh nghiệp bị thiệt hại dễ được các cơ quan hữu trách thụ lý để đưa qua Tổ chức WTO thẩm xét. Nói chung họ thắng nhiều hơn thua. Đây là điều mà các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần chú ý. - Ngược lại, Chính quyền Mỹ cũng đưa ra quốc sách xuất khẩu để tạo thêm việc làm và còn viện trợ cho Việt Nam cải tiến hạ tầng tiếp nhận hàng xuất khẩu của Mỹ. Gần đây nhất là Bộ Canh Nông Mỹ còn giúp Việt Nam chương trình tín dụng có mã số là GSM-102 để Việt Nam dễ nhập cảng nông sản và lương thực của Mỹ cho thị trường nội địa, như thịt gia cầm, thịt đỏ, lúa mì hay bông vải. Việt Nam có thể chống đỡ như thế nào trước đòn kiện cáo của doanh nghiệp Mỹ ? - Cũng tùy vị trí và điều kiện hoạt động của từng doanh nghiệp hay cơ quan Việt Nam. Ở cấp doanh nghiệp thì thứ nhất là phải có nhiều tiền để tìm luật sư giỏi của Mỹ ! Thứ hai là phải vận động các doanh nghiệp Mỹ đang làm ăn với mình tác động vào cơ quan hữu trách của Mỹ trong Bộ Thương Mại. Việt Nam cung cấp thủy sản, hàng dệt sợi, áo quần giày dép cho các hãng phân phối của Mỹ, thì vì quyền lợi của họ, các hãng này có thể tranh đấu cho mình. Thứ ba và quan trọng nhất, phải cải thiện lề lối kinh doanh lẫn sổ sách minh bạch để thực sự không vi phạm các vấn đề trợ giá hay bán phá giá và chứng minh được điều ấy. Tôi thiển nghĩ là từ nay, kinh tế Âu-Mỹ sẽ nhập khẩu ít hơn và bảo vệ quyền lợi của họ rất kỹ nên sẽ kiện tụng rất mạnh. Ở cấp chính quyền thì Việt Nam phải duyệt lại chiến lược xuất khẩu kiểu Đông Á mà giải tỏa và cải thiện cơ chế để thị trường nội địa giữ vai trò trọng yếu hơn cho bộ máy sản xuất chứ đừng mãi lệ thuộc vào xuất cảng. Thứ hai, phải thực sự cải cách lề lối quản lý để có kinh tế thị trường đích thực. Việt Nam khoe là có 22 quốc gia công nhận mình là có kinh tế thị trường, đó là trò cười vì Trung Quốc có 80 quốc gia chứng nhận như vậy mà vẫn còn phải đợi đến sau năm 2016 thì mới hy vọng. Cũng dễ hiểu thôi, khi Trung Quốc còn duy trì chế độ ngoại hối cố định và dùng dự trữ ngoại tệ khuynh đảo xứ khác, khi Việt Nam vẫn lập ra các tập đoàn hay tổng công ty nhà nước và quản lý đất đai theo kiểu ưu đãi doanh nghiệp nhà nước hay đảng viên cán bộ. Nếu có kinh tế thị trường thì tư doanh dễ xoay trở hơn trên cả hai diện xuất và nhập khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam phải thận trong trước vấn đề Trung Quốc có thể đầu tư vào Việt Nam để dùng nhãn hiệu "chế tạo tại Việt Nam" mà bán hàng vào Mỹ - Chuyện này là chuyện xưa rồi và phản ảnh tình trạng ngờ nghệch mà tưởng là khôn của Việt Nam. Sau khi cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ được 15 năm, Việt Nam có lời lớn vì đạt xuất siêu chừng 10 tỷ đô la một năm với Mỹ, tức là bán nhiều hơn mua một kim ngạch bằng 10% tổng sản lượng nội địa. Nhưng Việt Nam lại bị nhập siêu với Trung Quốc một sản ngạch tương tự là 10 tỷ. Nghĩa là lời với Mỹ bao nhiêu thì lại trả cho Trung Quốc bấy nhiêu! Chìm bên dưới chuyện phi lý này là Việt Nam mua nguyên vật liệu của Trung Quốc để ráp chế với giá trị gia tăng rất thấp vì lương bổng quá rẻ. Sau đó còn buôn lậu bán chui với Trung Quốc và làm gia công cho doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào để lén vượt hàng rào mà bán qua Mỹ, và qua cả Âu Châu. Đâm ra, khi được nâng đỡ để phát triển kinh tế và cải thiện cuộc sống người dân, lãnh đạo Việt Nam lại biến nền kinh tế của mình thành một chi nhánh gia công của kinh tế Trung Quốc. Mà sở dĩ họ làm được như vậy là vì Việt Nam chưa có kinh tế thị trường, đảng và nhà nước nhắm vào mục tiêu khác hơn là bảo vệ chủ quyền kinh tế trong tay người Việt. Để kết luận, tôi thiển nghĩ là Việt Nam cần thay đổi tư duy. Trước nhất, phải coi sức dân là chính và cải thiện đào tạo và giáo dục để chiếm tỷ trọng cao hơn trong chu trình sản xuất thay vì chỉ cúi đầu làm công trong các công đoạn có giá trị gia tăng rất thấp. Thứ nhì, phải dám suy nghĩ theo tư thế cạnh tranh chứ không phải là chư hầu, đồng chí anh em với Trung Quốc để tiến lên trình độ sản xuất cao hơn và cung cấp loại hàng hóa có giá trị hơn. Thứ ba là phải... học luật và kinh doanh để hiểu ra quy luật kinh doanh và cạnh tranh của các nước tiên tiến hầu bảo vệ được quyền lợi của mình. Và nhà nước phải giải phóng thông tin để tư doanh hiểu rõ hơn về môi trường làm ăn đang có thay đổi lớn trên thế giới khi Việt Nam thương thảo với Mỹ các hiệp định về đầu tư hay tự do mậu dich trong khuôn khổ gọi là Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP. |