Quân đội VN lần đầu tiên giới thiệu máy bay ‘made in VN’ |
Tác Giả: KN / Người Việt - Hình : Đất Việt |
Thứ Năm, 04 Tháng 2 Năm 2010 14:00 |
HÀ NỘI - Quân đội Việt Nam hôm 2 tháng 2, 2010, đã cho giới thiệu và triển lãm những chiếc máy bay, mà theo báo Ðất Việt, là do quân đội nước này 'thiết kế và chế tạo' tại Bảo tàng Phòng Không-Không Quân ở Hà Nội. Báo Ðất Việt cho biết, cuộc triển lãm mang tên “Trưng bày sản phẩm công nghiệp Hàng Không Việt Nam” với mục đích quy tụ tất cả các thành tựu của ngành công nghiệp Hàng Không từ trước tới nay, mà sản phẩm nổi bật nhất chính là những chiếc máy bay “Made in Việt Nam.” Theo lời tờ báo, có tất cả 4 loại máy bay “do Việt Nam sản xuất” được giới thiệu tại triển lãm là TL-1, HL-1, HL-2 và VNS-41, tất cả đều là các loại máy bay cánh quạt. Máy bay cánh quạt TL-1. (Hình: báo Ðất Việt) Loại máy bay đầu tiên TL-1, được báo Ðất Việt mô tả, “là máy bay cánh quạt trinh sát loại nhỏ, bắt đầu được quân chủng Không Quân nghiên cứu từ tháng 3, 1978, chế tạo xong vào tháng 7, 1980 và bay thử thành công vào tháng 9, 1980. Máy bay TL-1: Trọng lượng rỗng 830kg; Trọng lượng cất cánh tối đa 1,100kg; 4 chỗ ngồi; Tốc độ bay bằng tối đa 265km/h; Tốc độ hạ cánh 98km/h; Tốc độ lên thẳng 5m/s; Ðộ cao 4,500m.”
Máy bay HL-1 có hình dáng giống TL-1 là máy bay huấn luyện. (Hình: báo Ðất Việt) Loại thứ hai, máy bay HL-1, theo báo Ðất Việt, là “máy bay huấn luyện phi công sơ cấp 2 chỗ ngồi, khi cần có thể thực hiện nhiệm vụ trinh sát liên lạc và chỉ điểm. HL-1 được thiết kế từ năm 1981, chế tạo xong vào tháng 5, 1984 và bay thử thành công tháng 6, 1984. HL-1 có trọng lượng rỗng 824kg; Trọng lượng cất cánh tối đa 1,132kg; Tốc độ bay bằng tối đa 275km/h; Tốc độ cực đại của máy bay khi bổ nhào 365km/h; Tốc độ hạ cánh 90 đến 100km/h; Ðộ cao 4,600m.” Loại thứ ba, HL-2 là thủy phi cơ, được thiết kế giống HL-1. HL-2, điểm khác biệt là có lắp bộ càng phao và hai cánh có góc vểnh lớn hơn để tăng tính ổn định. “HL-2 được thiết kế từ đầu năm 1985, tháng 3, 1987 được chế tạo xong vào tháng 4, 1987, bay thử thành công. HL-2 có trọng lượng 1,300kg; Vận tốc rời nước (rời đất) 120km/h (100km/h); Vận tốc tiếp nước (tiếp đất) 105km/h (90km/h); Ðường chạy đà trên nước (trên đất) 480m (180m); Ðường hãm đà trên nước (trên đất) 185m (280m).” Hình bên: Máy bay VNS-41 dùng loại động cơ 64 mã lực Rotax-582 của Áo. (Hình: báo Ðất Việt) Cuối cùng là máy bay VNS-41. Theo báo Ðất Việt mô tả, “VNS-41 là máy bay lưỡng dụng siêu nhẹ, có thể cất cánh và hạ cánh trên mặt nước. VNS-41 được thiết kế từ tháng 2, 2004, chế tạo hoàn chỉnh và bay thử thành công trong tháng 12, 2004. HL-1 được thiết kế cho 2 phi công, trọng lượng rỗng 528kg; Trọng lượng cất cánh tối đa 780kg; Tốc độ bay bằng tối đa 115km/h; Ðộ cao 3,000m.” Bản tin của báo Ðất Việt không cho biết các loại máy bay này hiện có bao nhiêu chiếc, được trang bị cho đơn vị nào và được sử dụng ra sao. Tuy được gọi là “máy bay do Việt Nam sản xuất” nhưng hầu hết các loại thiết bị điện tử hay động cơ của máy bay đều nhập cảng từ ngoại quốc và hình dáng các loại máy bay này nhìn khá thô sơ. Ví dụ các bản điều khiển bằng điện tử của HL-1 là của Nga sản xuất hay động cơ của máy bay VNS-41 là loại động cơ 64 mã lực Rotax-582 của Áo. (KN) |