Tại sao Trung Quốc không thể chiếm vị trí số 1? |
Tác Giả: Quốc Thái theo Newsweek | |||
Thứ Sáu, 20 Tháng 8 Năm 2010 07:43 | |||
Sự nổi lên của Trung Quốc đã trở thành truyện kinh tế và chính trị của thời đại hiện nay. Mỗi tuần lại thêm một đầu sách mới thông báo về sự “hướng Đông tất yếu”, sự nổi lên của “Chimerica” và một tương lai không xa khi Trung Quốc “điều khiển” hành tinh này. Truyền thông, đặc biệt là báo chí thương mại, đều bị thu hút bởi câu chuyện về việc Trung Quốc đang chiếm vị trí hàng đầu thế giới. Đa số bản tin trên những tạp chí lớn như Financial Times và The Wall Street Journal đều tập trung vào Trung Quốc. Trung Quốc ngày nay. Ảnh: human-pro.com Nhưng những tin tức về sự “xâm chiếm” toàn cầu của Trung Quốc đều chưa phản ánh đúng thực tế, đặc biệt khi nói về việc Trung Quốc vượt – hay không vượt – Mỹ trở thành một cường quốc số 1 thế giới như thế nào. Nếu nhìn vào các yếu tố như tầm ảnh hưởng văn hóa và hỗ trợ nhân đạo, có thể thấy rằng trong khi Trung Quốc là một trong những cường quốc lớn trên thế giới hiện nay (nước này hồi tháng trước đã chính thức vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới), tầm ảnh hưởng của họ vẫn bị “lép vế” trước Mỹ. Trong khi trao đổi thương mại của Trung Quốc với các khu vực như châu Phi và Mỹ Latinh gia tăng mạnh, họ vẫn chưa thể vượt mặt Mỹ. Tại châu Á, Trung Quốc đang là đối tác thương mại chủ đạo, nhưng các dòng trao đổi chủ yếu là các loại hàng hóa ở cấp thấp, trong khi Mỹ vẫn chế ngự cấp cao hơn trong dây chuyền hàng hóa. Hỗ trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ tại khu vực này cũng lấn át hẳn so với của Trung Quốc, và “quyền lực mềm” cũng như “quyền lực cứng” của Mỹ vẫn đang chế ngự khu vực bất chấp việc Trung Quốc gần đây gia tăng sức mạnh quân sự của mình. Sự nổi lên của Trung Quốc đã buộc Mỹ phải nhanh chóng tái cam kết với thế giới. Hiệu ứng sẽ là các bên cùng thắng. Một bài xã luận đăng trên tờ The East African (Đông Phi) nhận định: “Chỉ riêng các hỗ trợ kinh tế không đủ để một quốc gia chế ngự bên ngoài biên giới của mình”. Tác giả bài báo, ông Charles Onyango-Obbo phân tích, Mỹ sẽ vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong các lĩnh vực giáo dục, công nghệ, văn hóa (Hollywood và âm nhạc), cũng như kinh doanh và thể thao. Ông cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc rất quan trọng trên thế giới, song sẽ không đóng vai trò số 1. Có thể không ở nào khác điều này thể hiện rõ nhất như ở châu Phi, nơi Trung Quốc được mô tả là người chiến thắng trong cuộc tranh cướp tài nguyên thiên nhiên thời hậu thuộc địa bằng việc tặng không các hỗ trợ phát triển – chủ yếu dưới dạng hàng hóa giá rẻ, đầu tư vào hạ tầng, và các khoản cho vay lãi suất thấp – hoàn toàn đối lập với những đòi hỏi kiểu phương Tây về tôn trọng nhân quyền. Đổi lại, Trung Quốc được tiếp cận với nguồn nguyên liệu đầu vào để đáp ứng cho sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế trong nước. Sự hiện diện của Trung Quốc tại châu lục này đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây. Nhưng Mỹ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của châu Phi cận Sahara, chiếm tới 15% tổng kim ngạch thương mại của châu Phi, trong khi các trao đổi với Trung Quốc chỉ chiếm 10%. Đó là chưa kể đến việc châu Phi được Mỹ xếp ở vị trí ưu tiên thấp về thương mại, chỉ chiếm 2% tổng thương mại toàn cầu của nước này. Trên thực tế, phần lớn trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi là hoạt động nhập khẩu dầu từ năm quốc gia châu Phi. Nếu chỉ tính riêng về dầu mỏ, vốn được Trung Quốc đặt làm trọng tâm trong chính sách tại châu lục này, Mỹ cũng vượt xa Trung Quốc. Trong khi nước đông dân nhất thế giới nhập 17% dầu mỏ của toàn châu Phi thì nền kinh tế số một thế giới nhập tới 29% (con số này của châu Âu là 35%). Chưa hết, các công ty phương Tây vẫn là những đối tác thương mại nước ngoài hàng đầu trong các dự án khai thác dầu ở Nigeria (nước sản xuất dầu lớn nhất khu vực châu Phi cận Sahara), cũng như tại các nhà sản xuất dầu lớn nhất của toàn châu Phi như Ghana và Uganda. Xu hướng này có thể tiếp diễn, một phần vì các cáo buộc tham những và quản lý không tốt tại một loạt các dự án năng lượng và hạ tầng của Trung Quốc ở khắp châu Phi. Một dự án khai mỏ và làm đường do Trung Quốc tài trợ trị giá 8 tỷ USD tại Congo, những tưởng là “Kế hoạch Marshall của châu Phi” khi bắt đầu thực thi cách đây vài năm, đã bị “hoen ố” bởi những cáo buộc tham nhũng và sự chậm chạp trong thi công, giống như một dự án cáp quang quy mô lớn của Trung Quốc tại Uganda. Một nghiên cứu mới đây của Mạng nghiên cứu lao động châu Phi, mang tên “Đầu tư của Trung Quốc tại châu Phi: Triển vọng cho lao động”, đã xem xét các điều kiện lao động tại các công ty của Trung Quốc ở 10 quốc gia châu Phi và xếp Trung Quốc vào “một trong những nhà tuyển dụng tồi tệ nhất”. Cảm giác vỡ mộng với Trung Quốc là rất lớn ở Angola và Nigeria, những nước mà vài năm trước đây đã ngả về Trung Quốc vì bị lu mờ trước những hứa hẹn về các khoản cho vay phát triển vô điều kiện và với lãi suất thấp, cộng với cam kết không can thiệp vào công việc chính trị nội bộ. Trao đổi thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và Nigeria tăng gấp đôi từ năm 2006-2008, đạt 7 tỷ USD (con số này của Mỹ là 42 tỷ vào năm 2008). Tổng thống Nigeria khi đó, ông Umaru Yar’Adua cuối cùng đã hủy một số dự án vì các vụ bê bối và chậm tiến độ. Washington trở thành “ngư ông đắc lợi”. Theo Phòng Thương mại Mỹ, xuất khẩu của Mỹ sang Nigeria đã tăng 48% và nhập khẩu (chủ yếu là dầu mỏ) tăng 16% chỉ trong vòng một năm. Tình hình cũng tương tự như ở Angola. Rafael Marques de Morais, người sáng lập ra Maka (cơ quan giám sát tham nhũng tại Angola) nói rằng “tham nhũng và thiếu trách nhiệm giải trình trong các thỏa thuận giữa Trung Quốc và Angola đã hủy hoại quan hệ lâu dài và bền vững giữa hai nước”. Ông nhấn mạnh tới vụ Bệnh viện đa khoa tại thủ đô Luanda do Trung Quốc bị sụp đổ chỉ 4 năm sau ngày khánh thành. Tháng Bảy vừa qua, bệnh nhân và nhân viên bệnh viện đã phải sơ tán vì các lo ngại về độ an toàn. Một lần nữa, Washington xuất hiện để thế chỗ vào những mộng ước vỡ tan với Bắc Kinh. Họ gặp gỡ các quan chức Angola hồi tháng Sáu để thảo luận các phương thức nhằm đẩy mạnh thương mại và thúc đẩy một biên bản ghi nhớ vừa ký với IMF có thể dẫn tới những khoản vay mới từ các ngân hàng phương Tây. Điều này đang giúp gia tăng cả về chiều rộng và chiều sâu các cam kết của Mỹ không chỉ với châu Phi mà còn với nhiều nơi khác trên thế giới, thông qua các thể chế quốc tế cũng như các hỗ trợ nhân đạo và trợ giúp về quân sự. Dù có mối quan hệ gắn bó với Zimbabwe và Sudan, Trung Quốc vẫn hiện diện quân sự một cách khiêm tốn ở châu Phi và hầu như không có mặt tại Mỹ Latinh, và vẫn bị Mỹ lất át ngay cả ở những nơi là sân sau của Trung Quốc. Tháng trước tại Hà Nội, Mỹ đã là khách mời đặc biệt tại Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF) trong bối cảnh các nước trong khu vực ngày càng lo lắng trước sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc và việc nước này đòi chủ quyền tại các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tổng thống Mỹ dự định mời các lãnh đạo ASEAN tới Mỹ tham gia một hội nghị ASEAN – Mỹ vào mùa Thu này, trong khi các ngoại trưởng ASEAN đã mời Mỹ tham dự một cuộc đối thoại khu vực mang tên Hội nghị Thượng đỉnh. Đông Á, cuộc gặp mà các nhà ngoại giao nói là giúp ngăn chặn sự ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Mới đây, Washington đã tăng cường các trợ giúp nhân đạo cũng như quân sự cho Lào, Campuchia và xóa hai nước này khỏi danh sách đen về thương mại – động thái sẽ giúp thu hút các dòng vốn đầu tư của Mỹ ào ạt đổ vào đây. Tại Indonesia hồi tháng Tư, Mỹ cũng đã ký một thỏa thuận cho phép tăng vốn đầu tư của Mỹ vào nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á này. Tất nhiên, châu Á vẫn là một khu vực mà Trung Quốc đang chế ngự về thương mại – tổng trao đổi giữa Mỹ với các nước trong khu vực đạt 231 tỷ USD, trong khi con số này với Mỹ chỉ ở mức 178 tỷ vào năm 2008. Tuy nhiên, hầu hết các dòng trao đổi này là các loại hàng hóa trung gian có giá trị thấp (Trung Quốc mua nguyên liệu đầu vào giá rẻ từ các nước nghèo và sử dụng chúng để tạo ra các sản phẩm xuất khẩu). Hoạt động này không giúp thúc đẩy các trao đổi kỹ năng mà các nước Đông Nam Á cần để tiến thêm trên nấc thang công nghệ. Các nước như Malaysia, Singapore, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam vẫn dựa trên các thỏa thuận công nghệ, thầu khoán và giáo dục với Mỹ để có được điều này. Mặt khác, Mỹ chiếm tỷ lệ lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này (8,5%) trong khi Trung Quốc là 3,8% vào năm 2009. Giới chuyên gia tin rằng các động thái hướng đến sự hợp tác sâu sắc hơn giữa Mỹ và Đông Nam Á về chính trị, kinh tế và an ninh sẽ được tiếp tục. Tại nhiều nơi khác mà Trung Quốc đang tăng cường sự hiện diện về kinh tế, như Mỹ Latinh chẳng hạn, Mỹ cũng có những quân bài đáng giá để chơi. Năm ngoái, Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Brazil và hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của Venezuela, Chile, Peru, Costa Rica và Argentina. Nhưng trong khi tổng kim ngạch thương mại của khu vực này với toàn châu Á (mà chủ yếu với Trung Quốc) tăng 96% trong thập kỷ vừa qua, thì con số này với riêng Mỹ đã tăng mạnh hơn (118%). Tạp chí kinh tế Trung Quốc cho biết tổng đầu tư của Trung Quốc vào Mỹ Latinh đến cuối năm 2008 chỉ đạt 12 tỷ USD – ít hơn một mình bang Michigan (của Mỹ) đầu tư vào khu vực này. Cũng như ở nhiều khu vực khác, các quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ Latinh còn vấp phải rất nhiều rào cản về văn hóa và địa lý. Kevin Casas-Zamora, một chuyên gia về Mỹ Latinh thuộc Viện nghiên cứu Brookings, cho biết: “Mỹ và Mỹ Latinh gần nhau hơn, và Trung Quốc không bao giờ cạnh tranh được điều này”. Sức hấp dẫn của quyền lực mềm – thông qua văn hóa, ngôn ngữ và hệ tư tưởng – của Mỹ trong khu vực cũng làm lu mờ sức hút của Trung Quốc. Dù Bắc Kinh đã tìm mọi cách để thu hút người dân nơi đây đến với ngôn ngữ và nền văn hóa Trung Quốc thông qua các Viện Khổng Tử (hiện có tới 300 viện như thế trên toàn thế giới, trong đó 21 ở Mỹ Latinh), nhưng rất ít người biết nói tiếng Trung ở Mỹ Latinh cũng như ít người nói tiếng Tây Ban Nha ở Trung Quốc. Ở châu Phi, quyền lực mềm cũng đóng vai trò rất quan trọng. Mọi thứ, từ nhà hàng đến trạm rửa xe ôtô, đều gắn với tên Tổng thống Obama – một người Mỹ gốc Phi. Các dấu hiệu của văn hóa Mỹ, từ điện ảnh đến âm nhạc và thời trang, đều đã ngấm vào khu vực này. Sinh viên châu Phi vẫn mơ ước một ngày được sang Mỹ du học, và tiếng Anh là ngôn ngữ được rất nhiều người theo học. Hơn thế, Mỹ vẫn có xu hướng là nước được cầu cứu nhiều nhất mỗi khi có vấn đề. Ví dụ tại Uganda, sau các vụ đánh bom khủng bố ở thủ đô Kampala làm 85 người thiệt mạng mùa Hè vừa qua, Tổng thống nước này Yoweri Museveni dù có quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc nhưng đã hướng tới Washingon, chứ không phải Bắc Kinh, để kêu gọi hỗ trợ. Và đương nhiên nước ông đã nhận được hỗ trợ trị giá 24 triệu USD. Thực tế này đã làm đẹp hơn hình ảnh của Mỹ và tạo điều kiện thuận lợi hơn để họ tung các quân bài của mình (văn hóa, quân sự, khoa học và kinh tế) theo ý muốn. Nhiều trong số các quân bài này đã từng bị sử dụng không đúng mức hoặc bị lãng phí trong hai thập kỷ qua, khi Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới. Sự nổi lên của Trung Quốc đã buộc Mỹ phải nhanh chóng tái cam kết với thế giới. Hiệu ứng sẽ là các bên cùng thắng.
|