Home Phiếm Các Tác Giả Thầy Còn Nhớ Tôi Không?

Thầy Còn Nhớ Tôi Không? PDF Print E-mail
Tác Giả: Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh   
Thứ Bảy, 23 Tháng 5 Năm 2009 04:37

Mới đây khi đọc một tờ báo xuất bản ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ, một bài viết về “Trường cũ”, tôi thấy được tác giả nhắc tới rằng khi xưa tôi là một học sinh hiền lành. Cho đến bây giờ tôi vẫn được bạn bè cho là một người hiền. Chỉ có nhà tôi thỉnh thoảng lại nói “Anh mà là người hiền!”

Một điều cố hữu với tôi là đối với các vị lớn tuổi hơn, với các thầy và cô giáo, cũng như các vị tu hành, tôi thưa gửi rất lễ phép. Những điều này tôi làm rất tự nhiên, từ hồi còn nhỏ đến giờ, không bao giờ thay đổi. Khi còn ở bậc tiểu học, tôi được học trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, chuyện ông Sadi Carnot (1837-1894), là tổng thống cộng hòa Pháp vào năm 1887 khi trở về làng tới thăm thầy học cũ và nói rằng: “Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”. Tôi không còn nhớ là thầy dạy tôi lúc bấy giờ bình luận chuyện này ra sao, nhưng đối với tôi, thực tình tôi cho chuyện này không có gì đặc biệt, giá trị luân lý so với những chuyện khác của người Việt Nam chúng ta như sự tích Lưu Bình-Dương Lễ (kể thêm cả Châu Long) thật là kém xa.

Từ ngày sống nơi khách địa, tôi mới nhận thức được lý do chuyện ông Carnot được kể ra như một gương sáng đáng noi theo cho người Tây phương. Tôi đã nhìn thấy những người học trò, sau này tiến bộ hơn ông thầy, không những quên những ngày được dạy dỗ mà có khi còn lên tiếng chê bài thầy kém cỏi. Ở trong bất kỳ một công hay tư sở, trong kỹ nghệ, trường học, hay ở trong hệ thống chính quyền trên đất nước này, thế nào cũng có những người trẻ ở cấp bậc điều khiển, những người này tất nhiên đã có lần vượt lên trên những người trước kia quản lý hay chỉ dẫn cho mình. Tôi không biết họ còn nói được những câu ân tình với những người đã huấn luyện cho mình hay không.

Riêng tôi thì được may mắn trong tình bè bạn, có lẽ vì sự giao du thân mật của tôi chỉ giới hạn với những người tôi cho là hiền lành. Tôi ở trong quân đội mười bốn năm, sau này dạy học khoảng ba mươi năm, gặp những bạn bè và học trò cũ bao giờ tôi cũng thấy thoải mái. Nghĩa tình đối với những cựu chiến hữu xưa kia cùng chiến đấu dưới một bóng cờ, tôi đã nói đến nhiều trên sách báo. Giờ đây tôi viết về kỷ niệm với học trò cũ.

Một lần tôi ghé qua San Jose, một tỉnh ở miền Bắc Cali, bạn bè mời tôi tới dự một dạ hội. Một vị khách tới chào và nói: “Em là Hải Quân Ðại Tá Trần Thanh Ðiền, trước kia học toán với giáo sư ở Petrus Ký”. ÐạiTá Ðiền trước đây là giới chức cao cấp ở phủ Tổng Thống thì ai cũng biết. Còn tôi trước kia có dạy học vài tháng ở trường trung học Petrus Ký, thì thật ít người biết. Tôi thật không ngờ trong những học sinh trẻ thời ấy có những người sau này nổi tiếng trong võ nghiệp. Ở miền Bắc Cali có tuần báo Việt Mercury là một tờ báo được nhiều người đón đọc. Khi nhận được bài viết đầu tiên tôi gửi tới, ông tổng thư ký đã điện thoại ngay và nói: “Em là Nguyễn Xuân Hoàng, trước học Petrus Ký. Em rất mừng nhận được bài của thầy”. Ông Hoàng lúc đó cũng là giáo sư thỉnh giảng ở Ðại Học California, Berkeley. Vậy là tôi tốt số, có môn sinh thành đạt ở cả hai ngành văn và võ.

Cũng về văn, cựu học sinh trường Võ Tánh ở Nha Trang là nơi tôi đã từng dạy mỗi tuần vài giờ theo lời yêu cầu của bộ Quốc Gia Giáo Dục và sự chuẩn y của bộ Quốc Phòng khi tôi mới ở Pháp về và nước nhà còn thiếu nhiều giáo sư Toán có bằng cấp đại học, những học sinh đã theo học lớp tôi dạy có anh Trần Huỳnh Châu sau này là công chức cao cấp trong chính phủ. Học trò cũ ở Võ Tánh còn có anh Lư Văn Thành, cũng là cầu thủ bóng tròn xuất sắc ở trường, sau này trong quân đội là sĩ quan liên lạc Việt Mỹ. Sang Hoa Kỳ sau khi đi cải tạo về, anh viết hồi ký bằng tiếng Anh. Khi đã đăng vài chương trên phụ trương Anh ngữ của báo Người Việt, anh được mấy nhà xuất bản Mỹ chú ý tới và mời anh ký giao kèo để họ xuất bản thành sách. Sách của anh Thành có lời đề tựa của một trung tướng thủy quân lục chiến Mỹ, và tôi cũng viết mấy lời giới thiệu. Tôi đã viết anh là người đôn hậu và tính tình chung thủy. Khi xưa, trên sân cỏ, khi đã đưa banh qua hàng hậu vệ, anh đá thẳng như sấm sét vào khung gỗ. Giờ đây viết sách kể lại chuyện vinh quang trong quân ngũ và buồn tủi trong ngục tù, chuyện xảy ra sao, anh kể lại một cách trung thực, đi thẳng và mạnh vào tâm hồn người đọc, như đường banh khi xưa của anh đi thẳng vào lưới. Tuy tôi chỉ dạy có một niên học ỏ Võ Tánh nhưng lại có nhiều tình thầy trò sâu đậm với trường. Thỉnh thoảng tôi lại được đọc trên báo hay những đặc san những bài nói về Nha Trang và trường cũ của những cựu học sinh và đôi khi thấy tên mình được nhắc tới.

Miền thùy dương cát trắng cũng là nơi đã cung cấp nhiều nhân tài cho nền văn học Việt Nam ở quốc nội cũng như ở hải ngoại. Trong bộ môn thơ, một người đã đưa thi phẩm của mình ra giới thiệu ở diễn đàn thơ quốc tế là Hải Bằng Hoàng Dân Bình. Là hội viên của Hội Thi Sĩ Quốc Tế, năm 1998 anh đã trình đọc bài thơ “Render unto Me That Which Is Mine” (Hãy Trả Lại Cho Ta) tại đại hội thường niên quy tụ khoảng một ngàn hội viên đến từ các nơi trên thế giới. Tôi nhận được tập thơ “Hương Yêu” của anh, xuất bản năm đầu thiên niên kỷ mới với lời ký tặng nhớ lại tình thầy trò xa xưa. Trong tập thơ, chứa đựng nhiều bài hay đẹp tuyệt vời, và đã được Học Giả Tiến Sĩ Thái Văn Kiểm giới thiệu và khen tặng nhiệt liệt, Hải Bằng đã trải rộng tâm tình trên quê hương, với thân hữu và gia đình, bằng những vần thơ thắm đậm tình người. Qua những lời giới thiệu trong cuốn sách, tôi chỉ biết là sau khi học ở Võ Tánh, Hoàng Dân Bình, cậu học sinh mà tôi nhớ khi xưa trông hiền lành, sau này về Sàigòn theo học Luật Khoa và sau khi tốt nghiệp đã dạy học nhiều năm trước khi được động viên và trở thành sĩ quan như bao nhiêu chàng trai trẻ khác thời tao loạn. Mới đây, trong dịp tôi tới Wilmington thuộc tiểu bang Delaware để làm diễn giả danh dự tại Ðại Hội Lưỡng Niên các chuyên gia gốc Á Châu của hãng Dupont, nơi đó gần thành phố Philadelphia là nơi anh cư ngụ, Hải Bằng đã tổ chức một buổi hội ngộ để tôi gặp anh và gia đình cùng một số thân hữu. Qua bữa ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố người Việt, gặp mấy vị lãnh đạo cộng đồng ở địa phương và những vùng lân cận, và ký giả Thomas Toan Le của Asian News, tôi được biết thêm là từ khi tới Hoa Kỳ theo diện H.O. năm 1992, anh đã tích cực đóng góp vào sự xây dựng cộng đồng cho thêm tươi sáng. Các con trong gia đình anh chị đều thành đạt và noi gương cha mẹ có lòng hiếu kính với các bậc tôn trưởng.

 Bạn đọc chắc không mấy người biết là nhà thơ tên tuổi Du Tử Lê trước kia cũng là học sinh Chu Văn An khi tôi đang dạy ở đó. Vì vậy anh vẫn quen lệ gọi tôi là thầy mỗi khi gặp nhau ở những sinh hoạt văn nghệ. Thơ của Du Tử Lê không những có nhiều bài được phổ nhạc mà lại có nhiều bài được dịch sang Anh ngữ. Tôi luôn luôn mong mỏi nhân tài của mình ở mọi ngành khoa học, kỹ nghệ và nhân văn được các sắc dân khác trên nước này chú ý đến. Nếu chúng ta chỉ quần tụ với nhau trong một khung khép kín, kể cả sự luân lưu kinh tế, thì thật không thể tạo nên một sức mạnh nào có ảnh hưởng tới tương lai của đất nước.

Tôi lấy một thí dụ dễ hiểu về ảnh hưởng của cộng đồng kiều dân vào quốc gia cư ngụ. Hồi Tháng Năm 1996 tôi được mời tới Hoa Thịnh Ðốn để nhận giải Excellence 2000 Award của United States Pan Asian American Chamber of Commerce. Trong những người được vinh danh có nữ tài tử Joan Chen, người đóng vai chính trong phim “The Last Emperor” và ông Harry Wu là một người Trung Hoa tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng quốc tế. Ông Harry Wu bị nhà cầm quyền Trung Cộng giam giữ 19 năm, từ 1960 tới 1979. Năm 1985 ông được đại học California ở Berkeley mời sang làm giáo sư thỉnh giảng về môn Ðịa Chất Học. Những sách ông viết trong thời gian ở Hoa Kỳ như “Laogai - The Chinese Gulag” và “Bitter Winds” đã nói lên sự đàn áp nhân quyền một cách tàn bạo ở Trung hoa lục địa. Năm 1995 ông trở về nước và bị Cộng Sản bắt ngay, đưa ra tòa, xử 15 năm tù giam. Sau đó, vì áp lực của nhiều chính phủ và đoàn thể trên thế giới mà Trung Cộng phải trả tự do cho ông, để ông trở sang Hoa Kỳ, bây giờ là một nghiên cứu gia ở Viện Hoover thuộc Ðại Học Stanford. Ông Harry Wu đã được trả tự do, thường xuyên được phỏng vấn trên đài truyền hình mỗi khi có việc đáng quan ngại, xảy ra ở lục địa Trung Quốc; một phần là ông có quá trình tranh đấu cho nhân quyền, đã diễn thuyết ở nhiều nơi và viết sách được nhiều người đọc, nhưng phần chính là cộng đồng người Hoa chống cộng của họ có ảnh hưởng mạnh ở các quốc gia họ cư ngụ.

Trở lại với Du Tử Lê, thơ dịch của anh đã được đăng trên Los Angeles Times và New York Times. Chúng ta cần có rất nhiều người như anh, ở đủ mọi ngành, văn học, kinh doanh, kỹ thuật, giáo dục,... hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày trong những xã hội mình sinh sống. Mỗi lần được tin người Việt bay Boeing 727 cho hàng không dân sự, bay F-16 cho quân đội, hay một phụ nữ làm quản lý cho một công ty lớn, một chuyên gia giải phẫu người Việt đã chỉnh nghiệm được một phương pháp tân kỳ là tôi thấy có niềm vui trong lòng. Tôi mong có ngày nhìn thấy thường xuyên nữ xướng ngôn viên người Việt trên những đài truyền hình và những tên họ Nguyễn, họ Trần ký dưới những bài bình luận đăng trên những tuần báo Time và Newsweek. Du Tử lê gửi cho tôi mấy cuốn sách mới của anh, kèm theo một lá thư anh viết, đề ngày mồng Một Tết năm Ðinh Sửu. Tuy chỉ kém tuổi tôi một giáp, nhưng anh vẫn xưng mình là “con”, như tôi vẫn thường xưng như thế khi hàng năm viết thư thăm hỏi các thầy cô khi xưa dạy mình ở những lớp trung và tiểu học.

Họ trò ngoại quốc của tôi cũng khá nhiều, và có nhiều người có chức vụ quan trọng. Có một lần tôi đi cùng với một ông mục sư Mỹ tới nhà một bà bác sĩ để nhận một ít đồ đạc trợ giúp cho gia đình một chiến hữu mới tới định cư ở tỉnh tôi. Bà bác sĩ này dọn đi tỉnh khác nên định cho bớt đi một ít vật dụng trước khi xe chuyên chở tới dọn nhà. Sau khi trao đổi ít lời, bà cho chúng tôi gần hết những đồ đạc ở appartment của bà và nói rằng: “Tôi độc thân nên cũng không cần nhiều đồ bằng gia đình này”. Ông mục sư nói riêng với tôi: “Những đồ này sang quá! Khi nào nhà có khách, tôi tới mượn lại dùng ít ngày”. Khi nghe bà mạnh thường quân này nói là có một đứa cháu cưng vừa được nhận vào học tại trường đại học nổi tiếng Purdue University, tôi nảy ra một ý kiến. Tôi xin bà bác sĩ một mảnh giấy với cái phong bì, viết mấy chữ đưa cho bà và nói rằng: “Thư này để gửi cho một học trò cũ của tôi là giáo sư Ðại Học Purdue. Nếu cần gì, cháu bà cứ mang thư này tới, người bạn tôi sẽ hết sức săn sóc cho cậu cháu.” Tôi chắc bà không tin tưởng cho lắm ở bức cẩm nang tôi đưa cho bà, và nếu bà bác sĩ có mở thư ra đọc thì trên đó tôi chỉ viết hàng chữ ngắn gọn: “Jim thân mến. Ðã có một lần gia đình cậu sinh viên này giúp tôi môt việc. Tôi mong rằng anh và Holly săn sóc cậu ta trong thời kỳ học ở West Lafayette”. Riêng tôi thì tôi tin chắc là người học trò cũ của tôi và bà vợ anh ta sẽ hết sức giúp cho cậu sinh viên Mỹ nếu được nhờ tới. Anh là người bạn hiền và chung thủy với tôi. Nếu không thì xưa kia tôi đã không nhận anh làm môn đệ.

Một lần tôi nhận được điện thoại từ văn phòng ông khoa trưởng khẩn khoản nhờ tôi giúp cho một việc. Một công ty lớn ở tiểu bang tôi vừa nhận được một công việc có tầm vóc ở Ðài Loan và họ đang chuẩn bị đón tiếp một vị chủ tịch công trình này, cũng là một ông trung tướng Không quân, sang để duyệt xét trước khi ký giao kèo. Ông này là Tiến Sĩ Trần Bang Ðạt, trước kia tốt nghiệp ở Ðại Học Michigan là trường tôi dạy, và có theo học tôi nhiều lớp. Ông đánh điện sang và ngỏ ý muốn trở lại thăm trường và gặp lại tôi. Ông chủ tịch công ty liên lạc với ông khoa trưởng vì họ là bạn bè với nhau. Ông khoa trưởng giao lại công việc cho tiểu ban ngoại vụ và họ nhờ lại tôi tiếp đón người học trò cũ và mời ăn trưa thịnh soạn, họ sẽ thanh toán mọi phí tổn. Tôi nhận lời, và vì bà Jean Trần (Cheng) là vợ của người học trò cũ của tôi cũng đi theo chồng sang lần này, nhân tiện thăm mấy con trai của họ đang học ở Hoa Kỳ, tôi nhờ nhà tôi đặt một bữa ăn ở một phòng riêng tại một khách sạn của đại học. Tôi cũng mời vào khoảng 20 sinh viên cao học người Ðài Loan tới dự để gặp giới chức cao cấp của họ. Tới giờ hẹn ông bà Bang Ðạt tới thăm chúng tôi ở nhà riêng. Công ty Mỹ đã thuê một chiếc limousine thật dài để đưa đón họ. Khi chúng tôi tới phòng ăn, người khách phương xa nhất định mời tôi ngồi vào ghế chủ tịch, hướng ra ngoài. Tuy chuyện trò thân mật, nhưng anh vẫn một niềm lễ phép theo lề lối Á Ðông, dầu rằng hiện nay anh quản lý một chương trình hàng mấy trăm triệu Mỹ kim mỗi năm.

Cách đây mấy năm, vào năm 1989, nhân dịp đi họp ở Viện Hàn Lâm Hàng Không và Không Gian của Pháp, tọa lạc ở Toulouse, một người bạn học cũ ở trường Sĩ Quan Không Quân Pháp là Bác Sĩ Ðặng Vũ Hùng khi nghe tin tôi qua Ba Lê, đã cho mấy người bạn Pháp cùng khóa biết. Một người bạn đồng khóa khác là Ðại Tướng Guéguen, lúc đó là tư lệnh Phòng Không của Pháp, đã mời tôi đến thăm bản doanh của ông và ăn trưa cùng một số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông. Một ông trung tướng, học khóa sau, khi bắt tay tôi, đã hỏi: “Chắc ông không còn nhớ tôi?”. Ông ta định nói là ngày xưa xưa, khi ở quân trường, tôi cũng đã hành ông rất nhiều. Tôi xin nói lại là tôi là con người rất hiền, xưa nay không hề cậy thế bắt nạt ai bao giờ. Chắc bạn đọc không có thể nghĩ rằng Ðại Tướng Guéguen, phi công khu trục Mirage, lại là người rất thấp, chỉ cao bằng tôi mà thôi. Vì thế khi xưa, đứng theo hàng ngũ cao thấp của brigrade sinh viên sĩ quan, ông lúc nào cũng đứng cạnh tôi. Trước khi từ biệt ra về, tôi và ông chụp chung một bức hình kỷ niệm, trước chiếc phi cơ đặt gần cổng. Ông đội mũ cát kết, còn là một đại tướng Không Quân hiện dịch, tôi để đầu trần, nay là người dân sự, trông trong bức hình, ông hơi cao hơn tôi một chút.

Tôi cũng có nhiều học trò là sĩ quan Không Quân Hoa Kỳ. Ðặc biệt có một người tôi chú ý đến hơn cả là anh Fred Frostic. Thời điểm 68-70 khi học tôi, anh là thiếu tá phi công F-4C Phantom. Sau này anh lên đại tá chỉ huy một không đoàn F-16. Một dạo tôi nghe tin anh đã rời quân đội và trở thành chuyên gia nghiên cứu ở Rand Corporation là cơ quan nghiên cứu chiến lược có uy tín ở Hoa Kỳ. Mấy năm sau này tôi không được tin của Fred. Cuối mùa đông năm ngoái, tôi nhận được bản tin hàng tuần loan báo có buổi nói chuyện với phân khoa chúng tôi mà diễn giả là “Fred Frostic, Deputy Assistant Secretary of Defense”.

Chức vụ này rất lớn. Trước đó mấy tháng, đại hội năm 96 của hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Mỹ đã mời được một vị khách đặc biệt là ông Sid Lawrence J. Goffney, Jr. cũng có chức vụ tương đương là Deputy Assistant Secretary of Commerce, thuộc bộ Thương Mại đến làm diễn giả đặc biệt. Tôi đã nói chuyện với ông và được biết trách vụ của ông thật rộng lớn. Ðiều này thực không lạ vì chính phủ liên bang Hoa Kỳ có trách nhiệm trên 51 tiểu bang và ảnh hưởng nhiều đến thế giới. Ðược tin ông Frostic tới nói chuyện tôi đã hỏi vị giáo sư bạn phụ trách mời các vị diễn giả hàng tuần thì ông ta nói đúng là anh Fred, cựu sinh viên mà, trong văn thư trao đổi, ông thứ trưởng bộ Quốc Phòng này có nói trước kia làm khảo cứu với tôi.

Theo thường lệ, thì diễn giả được mời, hay tới trường tôi vào khoảng 10 giờ sáng để gặp gỡ và thảo luận với một số giáo sư cùng chuyên môn khảo cứu. Sau đó thì một số sẽ cùng với khách phương xa và giáo sư phụ trách mục diễn thuyết hàng tuần tới câu lạc bộ giáo sư để ăn trưa trước buổi diễn thuyết ấn định vào buổi chiều.

Sáng hôm sau tôi đến trường như thường lệ, vào khoảng 9 giờ. Cửa phòng học của tôi bao giờ cũng mở. Tôi nhớ đến chàng thiếu tá Không Quân khi xưa, phi công khu trục Fantom F-4C, khá bảnh trai, tuy hoạt bát nhưng thật ra hiền lành. Ðó là theo ý nghĩ của tôi, vì tôi cũng đã đối xử với anh trong tình bạn, giữa những người đã cùng bay bổng trên mây trời. Như Ðại Tá Trần Thanh Ðiền, như Ông Trung Tướng Không Quân Trần Bang Ðạt ở Ðài Loan, như nhà thơ Du Tử Lê, như ông Giáo sư ở Ðại Học Purdue và nhiều người khác nữa tôi đã gặp và tôi coi như trong tình bằng hữu. Tôi tin rằng ông Frostic khi tới trường thế nào cũng sẽ tìm gặp tôi.

Ðúng như vậy, vào khoảng hơn mười giờ sáng, tôi thấy anh tới phòng, chào và nói một câu tôi nghe quá quen thuộc. Dịch ra tiếng Việt thì anh đã nói: “Tôi là Frostic đây, thầy còn nhớ tôi không?”