Chuyện Tông Tông Bây Giờ Mới Kể |
Tác Giả: Đỗ Xuân Tê | ||||
Chúa Nhật, 04 Tháng 9 Năm 2011 18:01 | ||||
Mùa hè 76, khi lao động chặt nứa ở thượng nguồn sông Hồng vùng Yên Bái, tình cờ trong lúc nghỉ chân chúng tôì gặp một toán ăn mặc rằn ri đang đẩy xe thực phẩm qua suối. Hỏi ra thì cũng là anh em ta, lính cũ của đại tá Thọ (lữ đoàn tưởng Dù bị bắt ở Hạ Lào) họ bị đem ra Bắc từ cuối năm 71. Một chú còn trẻ có lẽ là hạ sĩ quan quay cổ nói với chúng tôi một câu, “các ông Thầy cứ nhớ kỹ lời Tông Tông”, rồi toán tù mất hút trong rừng già. Tụi tôi hiểu tông tông là ai, và tất nhiên phải ngu lắm mới không nhớ ông đã nói điều gì. Toán chúng tôi bùi ngùi quay đầu về trại, lòng chạnh nghĩ mấy người anh em kia năm năm rồi chưa nhúc nhích thì bao giờ mới đến lượt mình? Ấy vậy mà đã hơn ba chục năm kể từ ngày ấy, nay có dịp nhắc lại như mào đầu cho mấy ‘chuyện bây giờ mới (dám) kể’ để xin có vài giai thoại mà tôi được trải nghiệm với vị nguyên thủ một thời. Chuyện thứ nhất liên quan đến câu nói, ”đừng nghe những gì CS nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”, được trích từ bài nói chuyện của ông Thiệu trong một hội nghị Quân Cán Chính cuối năm 73 để chuẩn bị tinh thần sau khi có hiệp định đình chiến Paris. Mấy câu nói để đời này, người ta cứ tưởng chắc của mấy anh tâm lý chiến,dân vận tụi tôi viết rồi trình cho ông đọc bình thường như thông lệ, nhưng tôi xin quả quyết những lời này của chính ông thường ứng khẩu mỗi khi ‘ban huấn thị’ trong các hội nghị hay mít-tinh đông người. It ai ngờ một tướng lãnh chuyên cầm quân như ông lại có tài ăn nói hàng giờ không cần giấy tờ, nhất là mấy lúc gần ngày mất nước, khi có các đề tài chính trị, thời sự cần trực tiếp nói chuyện với quân dân cán chính các Vùng. Làm như cái điềm, mấy câu nói của ông trở thành tiên tri một khi đất nước rơi vào tay CS và khi nhớ lại “đất nước còn còn tất cả, đất nước mất mất tất cả” hồi đó chẳng mấy ai tin, nhưng sau 75 khi hệ quả nhãn tiền trong cảnh nước mất nhà tan mới thấy những điều ông cảnh báo là chí lý. Cũng trong khoa ăn nói, Tông Tông là người có vốn ngoại ngữ khá vững chắc, tiếng Pháp là chính như đa số các tướng lãnh thời cụ Diệm, về sau ông tự học tiếng Anh, có lần đã tham dự khóa Chỉ huy tham mưu cao cấp tại Mỹ, tuy phát âm chưa chuẩn nhưng nói rất trôi chảy, đặc biệt trong các lãnh vực quân sự, chính trị. Trong các buổi họp báo ông không khoa trương như ông Kỳ, ông luôn dùng tiếng Việt và có thông dịch. Nhưng tại hậu trường chính trị, ông thường họp tay đôi với ông già Tủ lạnh (tức đại sứ Mỹ Bunker) và các yếu nhân Nhà trắng khi sang Việt Nam sau khi đã họp chính thức với các quan chức liên hệ. Chính điểm này mà có nhiều bí mật quốc gia, bàn thảo đổi chác giữa Mỹ và Việt chỉ có ông mới nắm vững, chứ tham mưu đàn em chỉ hiểu ở mức hạn chế. Cho nên ta không lấy làm lạ về sự bất nhất của các cộng sự viên của ông trong các Hồi ký viết ở hải ngoại, trừ đại tá Cầm là chánh văn phòng nắm vững nhiều chuyện, mà ông này về cái khoản trung thành thì rất kín tiếng, cho nên dù đúng dù sai không khi nào đàn cầm lên tiếng. Cũng chuyện bây giờ mới kể nhưng nhiều người đều biết là Tông Tông mình rất thương lính. Lẽ ra chuyện thương lính là bình thường của người làm tướng, nhưng ở Việt nam thì không hẳn như vậy. Trong những năm chiến trường sôi động từ đầu 70, do tình đồng minh khắng khít với Trung hoa dân quốc, Tổng cục CTCT được phép tổ chức các phái đoàn chiến sĩ xuất sắc đi thăm và giải trí tại Đài Loan do phía bạn đài thọ. Mỗi năm chừng hai, ba đoàn, thường do một vị tướng làm trưởng đoàn, thành phần còn lại đủ cả các quân binh chủng, ưu điểm là không phải chỉ chọn sĩ quan, mà có khi danh sách hạ sĩ quan và lính chiếm hơn phân nửa. Danh sách chọn lựa phải đưọc trình cho văn phòng Tổng thống ghi rõ công trạng, tiểu sử cá nhân, cho nên các đơn vị khi đề cử thường chọn thành viên xứng đáng. Xứng đáng đến độ sau các chuyến du ngoạn trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu, số hy sinh so lại có danh sách chỉ còn phần ba nếu gặp những năm như mùa hè đỏ lửa. Theo thông lệ, trước khi đi có một tiệc BBQ do Tông Tông khoản đãi trong vòng thân mật, thường có trìu quay nguyên con, có văn nghệ giúp vui, có quà lưu niệm, được tổ chức trên sân thượng của dinh. Là sĩ quan điều hợp, tôi để ý là không khi nào ông Thiệu vắng mặt, nếu có gì bất thường dù trễ ông vẫn đến. Qua lối thăm hỏi, trò chuyện khi ngồi ăn với thành viên từng bàn, tôi thấy ông rất thân tình và tùy lúc người ta có cảm tưởng nét mặt ông trở nên đăm chiêu, có thể vì ông mang mặc cảm sở dĩ có sự nghiệp ngày nay dù sao ông cũng mắc nợ những người đàn em trước mặt. Các người lính trẻ về từ chiến trường, họ cảm động ra mặt, phần nào bất ngờ và hãnh diện. Trong số đó có những khuôn mặt tôi nhớ nhiều là cố đại tá Dù Nguyễn đình Bảo, người đã ở lại Charlie sau chuyến đi,hoặc một em thiếu sinh quân, thượng sĩ Trần Ba được đặc cách thăng hai cấp một năm của sư đoàn 1 Bộ Binh đã hy sinh sau đó tại Hạ Lào. Có một điều khi những ông nhà binh ra làm chính trị, những tập quán nghi lễ ngoại giao thường tình các ông hay bỏ qua, cụ thể có cả Tông Tông của tôi. Nhớ lại hồi quốc khánh 1967, sau khi liên danhThiệu-Kỳ đắc cử, một buổi duyệt binh để chào mừng lễ tấn phong được tổ chức buổi sáng và một chương trình văn nghệ dân tộc vào buổi tối cùng ngày được tổ chức tại rạp Rex do Biệt đoàn văn nghệ trung ưong cùng các nghệ sĩ tên tuổi của thủ đô biểu diễn. Chỗ ngồi danh dự phía trên lầu gồm các quốc khách đại diện các nuớc anh em, các yếu nhân trong nội các, quốc hội, tướng lãnh VN và đồng minh, ngoại giao đoàn tại Sài gòn v.v…Sơ đồ quan khách được cơ quan chúng tôi phối hợp với Nha Nghi lễ của Phủ TT phối hợp sắp xếp đúng theo nghi thức ngoại giao. Nhiệm vụ của chúng tôi đêm nay là những người tiếp tân làm sao thi hành cho trọn vẹn, tránh mọi sơ xuất dù nhỏ nhất. Sắp đến giờ khai mạc, các quan khách đã an vị. Tổng thống và Phó TT tới chót. Sau nghi thức thường lệ, chương trình bắt đầu. Cũng cần nói chương trình văn nghệ đêm nay vô cùng ‘hùng tráng’, vừa được cấp ngân khoản lớn, lại luyện tập công phu, mang sắc thái dân tộc chắc chắn quan khách sẽ hài lòng. Khi màn sân khấu mở ra cũng là lúc chúng tôi xong nhiệm vụ lui vào góc tối. Chợt đại tá Duệ, lúc này ông lo phụ trách chung cho gọi tôi. Ông nhắn lại một lệnh miệng từ chánh văn phòng Tổng Thống yêu cầu Ban tổ chức tìm một chỗ cho ông đại sứ Bunker, người được báo chí Sài gòn đặt cho cái tên ‘ông già tủ lạnh’ vì có tật ít cười, mặt lạnh như tiền và chẳng bao giờ hé lộ chuyện gì cho ký giả. Kẹt một nỗi là Tông Tông muốn ông đại sứ … lên ngồi gần ông để xem chương trình cho rõ hơn! Theo vị trí được sắp xếp, lúc này ông tủ lạnh đang ngồi ở khu ngoại giao đoàn, cách Tông Tông tới…năm hàng ghế. Trớ trêu là đại diện cho tổng thống Mỹ dự lễ tấn phong lại là Bộ trưởng Canh nông, người đứng thứ 8 trong nội các Hoa Kỳ (việc Tình thế lưỡng nan, tôi tham khảo với ông giám đốc nghi lễ của Phủ, ông này xin chịu và nhờ cánh nhà binh chúng tôi lo dùm, mà quân đội thường có lối giải quyết nhanh, bình thường hay cương ẩu, nhưng nay vướng quốc khách nên càng khó xử. Vắt hết tâm trí để làm vừa lòng vị nguyên thủ, tôi tìm được một chỗ dành cho Tùy viên kiêm cận vệ ngồi sau Tổng thống, tôi đề nghị xếp ông tủ lạnh vào ngay chỗ này. Sau khi hội ý với cấp cao hơn, tôi được giao nhiệm vụ đi gặp ông Bunker để đạo đạt lời mời của Tông Tông. Trong quân phục tiếp tân tôi chào ông đại sứ kiểu nhà binh rất lễ phép, rồi cúi xuống ghé vào tai ông tôi nói nhỏ, “Thưa ông đại sứ, Tổng thống Thiệu có nhã ý mời ngài lên ngồi gần ông để thưởng thức chương trình thuận tiện hơn”. Ông đại sứ nhấp nháy ánh mắt sau cặp kiếng cận, miệng cười mím chi có vẻ như được vừa ý chuyện gì, không đắn đo ông trả lời tôi liền, “Ông sĩ quan về thưa lại với tổng thống, tôi cám ơn nhã ý của ngài, tôi xin ngồi đây được rồi.” Tự nhiên tôi thở phào khi nghe ông từ chối, tiện việc cho cả đôi bề. Chuyện được trao đổi lại với đại tá Cầm và tôi nghĩ Tông Tông rất hài lòng vì thực sự điều ông muốn là ‘chỉ cần ngỏ thiện ý của ông với viên đại sứ’, về phía đại sứ thì tất nhiên là ‘rất cảm kích về nhã ý của ngài’. Về sau tôi mới hiểu, người Mỹ họ rất quan trọng vấn đề nghi lễ, bộ trưởng đại diện cho quốc gia còn ngồi ở xa, tư cách gì đại sứ dưới quyền lại đòi ngồi gần nguyên thủ nước sở tại? Ông Tủ lạnh quá hiểu điều này. Tuy hết chuyện nhưng cứ như cung cách xử sự của ông Thiệu với vị đại sứ Mỹ ở Việt nam hồi đó, người ta có thể hiểu vì sao ông già Tủ lạnh gần như là ‘thần hộ mạng’ cho Tông Tông trong suốt gần hai nhiệm kỳ 8 năm tại miền nam và về mặt chính trị ông Thiệu sau này trở thành chính trị gia ‘lì’ nhất nước. Viết đến đây tôi lại nghĩ có nhiều yếu nhân chế độ cũ khi ra hải ngoại chẳng có gì đáng viết thì lại ưa ra hồi ký, trong khi ba vị tướng cần viết lại đời mình là Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm thì cả ba người không ai chịu viết (hoặc không dám viết). Nay chỉ còn tướng Khiêm, hôm ông về thăm Cali mới đây, tưởng ông muốn nối lại nhịp cầu, khơi dậy một thời vang bóng, tôi có e-mail cho một ông bạn từng mời ông về để nếu có thể đươc xin đại tướng viết lại hồi ký như nhân chứng số 1 của cả hai thời đệ nhất đệ nhị Cộng hòa. Nếu cần người chấp bút xin đề nghị anh cả trong ngành, nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh đứng ra đảm trách. Nhưng ông bạn tôi trả lời khó lắm anh ơi, viết đúng sự thực thì nhiều điều khó nói, mà viết khác thì… thôi quên chuyện ấy đi. Tôi đành bótay.com và xin để các bậc đại nhân mang mọi nỗi niềm ‘yên tâm theo xuống tuyền đài thiên thu’. Đỗ Xuân Tê
|