Trần Anh Tông (1293 – 1314) Trần Anh Tông Vua nhà Trần | Tượng Trần Anh Tông tại Đền Trần
| Trị vì 1293 – 1314Tiền nhiệm Trần Nhân Tông Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông Kế nhiệm Trần Minh Tông Tên húy Trần Thuyên
Niên hiệu Hưng Long (興隆)
Thụy hiệu Hiển văn duệ vũ khâm minh nhân hiếu hoàng đế (顯文睿武欽明仁孝皇帝)
Miếu hiệu Anh Tông (英宗)
Triều đại Nhà Trần Thân phụ Trần Nhân Tông Sinh 1276 Mất 1320 Việt Nam Trần Anh Tông (chữ Hán: 陳英宗; 1276 – 1320), tên thật là Trần Thuyên (chữ Hán: 陳烇) là vị vua thứ tư của nhà Trần (sau vua cha Trần Nhân Tông và trước Trần Minh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 21 năm (1293 – 1314) và làm Thái thượng hoàng 6 năm.
Cai trị Trần Anh Tông là con vua Trần Nhân Tông. Năm 1293, Nhân Tông lên ngôi thái thượng hoàng, Trần Thuyên lên nối ngôi vua. Khi mới lên ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài, mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Từ xưa đến nay vua Đại Việt vẫn có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi, nhưng Anh Tông không muốn theo tục này. Một hôm Thượng hoàng Nhân Tông bảo Anh Tông rằng: "Dòng dõi nhà mình vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nay nhà vua phải theo tục ấy mới được". Anh Tông tuy vâng mệnh nhưng lừa khi Thượng hoàng bận việc khác, lẩn đi không cho vẽ. Từ đấy, vua Đại Việt mới không vẽ mình nữa. Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Về văn có Trương Hán Siêu; võ có Phạm Ngũ Lão, Lê Trung Hiển đều là những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thời Anh Tông cai trị tiếp tục giai đoạn thịnh trị của nhà Trần. Tính vua Anh Tông hay vẽ và làm thơ. Ông có làm một tập thơ Thủy Vân Tùy Bút, nhưng đến lúc sắp mất đem đốt đi không cho để lại. Sử có chép rằng năm 1320, khi Anh Tông đau nặng, hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem sự sinh tử, Anh Tông gạt đi mà bảo rằng: "Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết". Sau đó ông qua đời, thọ 47 tuổi. Ngày 12 tháng 12 năm 1320, ông được an táng Thái lăng ở Yên Sinh. Nhận định Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư dù có khen nhưng vẫn phê phán ông là quá mộ đạo Phật[1]: “ Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao? ” —Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Gia đình • Vợ: o Thánh Bà phu nhân, sau phong Thuận Thánh hoàng hậu Trần thị (?-1330, con gái Trần Quốc Tảng), sau Trần Minh Tông phong là Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu. o Huy Tư hoàng phi, Huy Tư hoàng thái phi (tức là Chiêu Hiến hoàng hậu hay Chiêu Từ hoàng thái hậu) Trần thị (?-1359, con gái Trần Bình Trọng) o Tĩnh Huệ phi Phạm thị (con gái Phạm Ngũ Lão), không con, xuất gia năm 1309 o Đa La Thanh (con gái sư người Hồ Du Chi Bà Lam) o Cung tần Trần Thị Thái Bình o Cung nhân Vương thị
• Con trai: o Ba người con trai chết sớm, không rõ tên o Trần Mạnh, con của Chiêu Hiến hoàng hậu Trần thị, sau là vua Trần Minh Tông
• Con gái: o Công chúa Thiên Chân, con gái Thuận Thánh hoàng hậu, lấy Huệ Chính vương o Công chúa Ý Trinh o Công chúa Huy Chân, con gái của cung tần Trần Thị Thái Bình, lấy Uy Giản hầu o Công chúa Huệ Chân, con Vương thị o Công chúa Thánh Chân.
|