Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Đi tìm thân thế Chúa Chổm Lê Trang Tông

Đi tìm thân thế Chúa Chổm Lê Trang Tông PDF Print E-mail
Tác Giả: Lê Thái Dũng   
Thứ Bảy, 06 Tháng 2 Năm 2010 05:51

Chúa Chổm theo giai thoại dân gian chính là vua Lê Trang Tông (1533-1548), ông vua đầu tiên của nhà Lê Trung Hưng.

Còn chính sử cho biết vua Lê Trang Tông tên huý là Ninh, có một tên khác là Huyến; ông là con vua Lê Chiêu Tông, mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người Cao Trì, huyện Thuỵ Nguyên (nay là Ngọc Lạc, Thanh Hoá).

Các cuốn chính sử đều không có dòng nào nhắc đến việc vua Lê Trang Tông là chúa Chổm cả nên có ý kiến cho rằng câu chuyện này chỉ là giai thoại dân gian xây dựng lên mà thôi.

Khi Mạc Đăng Dung giết vua Chiêu Tông, cướp ngôi nhà Lê thì Lê Duy Ninh còn nhỏ, được một viên quan là Lê Quán ẵm chạy trốn sang Ai Lao (Lào) rồi đổi tên là Huyến. Một thời gian sau, các cựu thần nhà Lê dựng cờ chống Mạc đã đón Lê Duy Ninh về làm vua, sự kiện đó diễn ra năm Qúy Tị (1533) và ông trở thành biểu tượng để quy tụ nhân tâm trong sự nghiệp Trung Hưng, “phù Lê diệt Mạc”.

Tháng 1 năm Mậu Thân (1548) vua Lê Duy Ninh mất, thọ 34 tuổi, làm vua được 16 năm, quân thần tôn miếu hiệu là Trang Tông. Sử sách đánh giá: “Vua gặp vận gian truân, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài kết nước láng giềng, bên trong dùng được tướng giỏi, cho nên người đều vui lòng làm việc, nền móng Trung hưng gây ra từ đấy” (Đại Việt sử ký toàn thư)

 
                                                     Quán cơm 

Xung quanh cuộc đời vua Lê Trang Tông có nhiều giai thoại dân gian, nhất là giai thoại về thời hàn vi của ông. Tương truyền rằng khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã giam vua Lê Chiêu Tông ở phường Đông Hà, nhà vua giấu được quả ấn “ngọc tỷ truyền quốc”. Có cô bán rượu xinh đẹp, ăn nói có duyên vốn người làng Lủ (Kim Lũ) gần bên sông Tô Lịch thường mang rượu, bánh đến bán cho lính canh ngục.

Thấy vua bị giam cô rất thương tình; bố cô trước là một viên quan nhỏ của nhà Lê đau lòng trước cảnh vua gặp bước suy vong mà chưa có con nối nghiệp, nên đã bày cho con gái đem hàng đến bán ở chỗ giam, chuốc rượu cho quân canh, chờ dịp lẻn vào tình tự với vua. Khi được tin cô đã có thai, vua Chiêu Tông lén giao cho cô chiếc ấn ngọc làm dấu tích và dặn trốn đi sau này đẻ con trai sẽ có ngày phục thù. Sau đó nhà vua bị họ Mạc giết chết, cô gái làng Lủ lánh đi nơi khác, sinh ra một con trai đặt tên là Chổm.

Nhà nghèo, Chổm phải đi làm thuê và kiếm củi nuôi mẹ, những lần vào thành bán củi thường la cà vào ăn ở các quán cơm cửa ô. Chổm ăn hàng nào là hàng ấy hôm đó bán đắt như tôm tươi. Vậy nên các hàng thi nhau chèo kéo mời Chổm ăn, uống rượu và sẵn sàng cho chịu. Ðược thể, Chổm đánh chén hoang tàn tiêu pha bạt mạng, nợ đìa khắp nơi. Ai đòi, Chổm cũng chỉ bảo: Chờ lúc tôi làm nên sẽ trả.

Tướng Nguyễn Kim, cựu thần triều Lê chiêu quân diệt Mạc, muốn tìm một người dòng chính nhà Lê để bố cáo cùng thiên hạ, tạo danh chính ngôn thuận nên đã cải dạng ra Bắc thăm dò. Một đêm, có vị thần báo mộng “Ðón ở sông Tô, thấy ai "cờ son, nón sắt" đấy chính là nhà vua đấy!”.

Hôm sau, Nguyễn Kim chờ mãi, đến trưa mới thấy một bè củi lờ đờ trôi đến. Trời mưa, anh chàng đen đủi trên bè đội chảo gang nấu kẹo thay nón; tay cầm cây sào có quấn cái khố đỏ. Ông đoán ra "cờ son, nón sắt" chắc là đây, bèn gọi vào hỏi gia thế và bắt đưa về gặp mẹ.

Mẹ Chổm khi biết rõ đây là người có thiện chí phù Lê mới đưa ngọc tỉ ra và kể đầu đuôi. Hai mẹ con Chổm được bí mật đưa về Ái châu (Thanh Hoá), Chổm được tôn lên làm vua...

Sau khi nhà Mạc bị diệt, triều đình nhà Lê trở lại Thăng Long, khi kiệu vua đến cửa ô, tiếng đồn vang khắp nơi, các chủ hàng cơm rượu ùn ùn kéo đến chào đón và đòi nợ cũ của đời vua trước. Vua sai quan lính lấy tiền trả họ; thấy thế, nợ một họ đôn lên gấp mười và khối kẻ cũng mạo nhận là chủ nợ đến đòi khống. Quan hầu cận đếm tiền mãi, trả mỏi tay chưa hết nợ, mà người đòi vẫn kéo đến, bèn tung tiền cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy. Ðến gần cửa Ðại Hưng, đám chủ nợ ngày càng đông, chẳng còn ra thể thống gì, một viên tướng thấy vậy bèn hạ lệnh “Cấm Chỉ” không ai được đòi nữa. Chỗ ấy gần một ngã tư, sau thành tên ngã tư Cấm Chỉ (nay là phố Tống Duy Tân, Hà Nội).

Ngày nay còn có câu tục ngữ “Nợ như chúa Chổm” và câu ca dao:

Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm mắc nợ tì tì
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô

Một giai thoại khác kể mẹ Chổm là con gái ông Bùi Khả Trung người Châu Hoan (nay là Nghệ An, Hà Tĩnh), làm quản ngục cho nhà Mạc đã đưa con gái lẻn vào hầu vua Lê Chiêu Tông để giữ lại dòng dõi, nay còn thờ bà ở đền Ðức Hoàng ở xã Yên Sơn, huyện Ðô Lương, Nghệ An.

Chẳng rõ thuyết nào đúng, nhưng người Thăng Long qua nhiều đời vẫn kể: Chổm là con cô gái làng kẹo Kim Lũ-làng Lủ- mà thôi.

Đó là hành trạng của Lê Trang Tông theo giai thoại dân gian, còn chính sử chỉ ghi chép ngắn gọn và cho biết Nguyễn Kim, một đại thần cũ của nhà Lê sau khi thấy họ Mạc cướp ngôi đã “lánh nạn sang ở tại châu Sầm Nưa thuộc Ai Lao, chiêu tập những người trung dũng, đầu tiên dựng lá cờ nghĩa, quyết chí diệt Mạc để khôi phục nhà Lê, bèn tìm khắp mọi nơi kiếm lấy cho cháu họ Lê, thì được con nhỏ của Chiêu Tông là Ninh, lập làm vua, lên ngôi ở Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Từ đó, hội gió mây lôi cuốn, tiếng chính nghĩa lẫy lừng, quân trẩy đến đâu chẳng ai là không hưởng ứng. Công nghiệp trung hưng nhà Lê thực bắt đầu từ đấy” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).

Mọi chuyện về thân thế của vua Lê Trang Tông – Chúa Chổm dường như rất rõ ràng, đầy đủ nhưng thực ra nếu xét kỹ trong sử sách thì có khá nhiều điểm mờ ảo, đầy nghi vấn về ông.

Vua Lê Trang Tông sinh năm Ất Hợi (1515) nhưng oái oăm ở chỗ theo sử chép thì cha ông là Lê Chiêu Tông sinh tháng 10 năm Bính Dần (1506). Như vậy không thể có chuyện một ông vua mới lên 9 tuổi (năm 1515) lại có thể có con được, do đó nghi ngờ đặt ra là người được đưa lên làm vua kia không phải là con cháu hoàng tộc họ Lê. Đó có thể là một người bình thường, xuất thân bình dân hoặc là con cháu một ai đó trong số quan lại trung thành với nhà Lê được mạo nhận để dựng lên.

Trong lúc họ Lê bị nhà Mạc truy sát, việc các đại thần muốn khôi phục vương triều này, lật đổ nhà Mạc thì cần thiết phải có một người làm biểu tượng để lấy lòng thiên hạ, vì thế người đó thực sự là họ Lê hay không, không quan trọng, miễn là để dân tin, dân theo trong sự nghiệp “Phù Lê diệt Mạc”.

Thậm chí có khi chính Nguyễn Kim đưa con mình lên làm vua, mạo nhận họ Lê. Điều này ít nhiều có căn cứ. Theo đó, trước việc một số đại thần nhà Lê chạy sang tố cáo với triều Minh về hành vi giết vua cướp ngôi của họ Mạc, vua Minh lấy cớ hỏi tội phản nghịch đã sai quân áp sát biên giới, đe dọa đánh chiếm nước ta.

Triều Mạc tìm mọi kế sách để ngăn chặn nguy cơ này bằng nhiều cách: giả xin hàng, cắt đất, cống nạp, hối lộ quan tướng nhà Minh…

Trong một bức thư gửi nhà Minh, vua Mạc cho rằng Lê Trang Tông là giả mạo: “…Còn như Lê Ninh mà Duy Liêu xưng là con cháu họ Lê thì người trong nước đều tương truyền là con của Nguyễn Kim. Dòng dõi họ Lê đích thực không còn ai, cho nên hạ thần đã lập hương hỏa trong quốc đô để thờ phụng họ Lê… Nay ở Vân Nam, lại có người cho Lê Ninh là dòng dõi họ Lê, hiện ở nước Lão Qua và đã tâu lên thánh thượng, hạ thần đâu dám biện bạch…” (Đại Việt thông sử)

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng cho biết, vua Mạc Đăng Doanh sai Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu nói rằng: “Tương Dực đế bị nghịch tặc Trần Cao giết hại, Đăng Dung cùng người trong nước tôn lập vua Chiêu Tông. Không bao lâu, Chiêu Tông lại bị gian thần là bọn Đỗ Ôn Nhuận và Trịnh Tuy dụ dỗ dời vào Thanh Hoa, Đăng Dung lại tôn lập Cung đế làm vua. Liền đó Đăng Dung lại đón Chiêu Tông từ Thanh Hoa về. Rồi Chiêu Tông và Cung đế đều bị bệnh chết. Họ Lê không người kế tự. Cung đế, khi bệnh kịch có bàn với quần thần cho rằng cha con Đăng Dung có công với nước, bèn vời vào trao cho ấn chương đế nối coi việc nước. Đăng Dung bèn được người nước suy tôn. Còn lý do chưa được dâng biểu và sai sứ sang cống, là trước vì Trần Cung chiến giữ Lạng Sơn làm nghẽn đường, sau vì quan giữ biên cương đóng cửa ải không tiếp nhận. Đến như người nhận là dòng dõi họ Lê bây giờ chỉ là con của kẻ khác, chứ không phải là con của Chiêu Tông”.

Tháng 10 năm Tân Sửu (1541) bọn tướng tá Mao Bá Ôn cũng dâng bản tâu về Yên Kinh nói rằng: “… Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu họ Lê, nhưng cứ theo các ty tra xét, thì ngọn ngành tung tích khó biết rõ ràng.

Trịnh Duy Liêu trước có lén lút tới các đồng trại ở châu Thạch Lâm nước ta, sát vùng thổ quan Quảng Tây, nhưng mặt mũi Lê Ninh ra sao cũng không được biết, cho nên khi thì gọi là Lê Ninh, khi thì gọi là Lê Hiến, lúc thì gọi là Quang Hoà, có lúc lại bảo là họ Trịnh trá xưng.

 Còn Trịnh Viên thì khai rằng ở động Tất Mã Giang có Lê Ninh thực nhưng lại lịch tông phái không biết được rõ; những điều trình bày về tuổi tác, nét mặt, lại khác với lời khai cũ của Trịnh Duy Liêu, đều khó dựa vào đó mà nghe được. Hãy cho Ninh ở lại Tất Mã Giang, những vùng đã lấy được đều thuộc quyền y quản thúc, có thể bàn trao chức tước, cho thực thuộc về Vân Nam. Nếu không phải là con cháu nhà Lê thì thôi không bàn nữa...” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Như vậy ngay từ thời bấy giờ, nghi vấn về thân thế thực sự của Chúa Chổm Lê Trang Tông đã được đặt ra, tuy nhiên từ đó đến nay những băn khoăn ông là ai? Có phải con cháu họ Lê hay chỉ là một người được mạo nhận, một quân bài chính trị trong tình thế chính trị lúc đó? Đây vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp.

Lê Thái Dũng