Vạch mặt Kissinger |
Tác Giả: Già Gân | ||||
Thứ Hai, 02 Tháng 7 Năm 2012 20:52 | ||||
Gần 40 năm trước, đối diện với màn hình TV để theo dõi bài diển văn dài gần 2 tiếng đồng hồ của TT Thiệu, nhìn ánh mắt phẩn uất và nghe giọng nói nhiều lần được đè nén trong nghẹn ngào, lòng mình không khỏi gợn lên nổi cãm thông với người trong cuộc. “Trong cuộc” theo nghĩa đã từng sát cánh với Mỹ từ lúc họ khai tữ Đệ Nhất Cộng Hòa cho đến khi học bức tữ nền Đệ Nhị và đến lúc nhận chân “Làm kẻ thù của Mỹ có thể là nguy hiểm, chứ làm bạn của Mỹ thì chắc chắn là chết!” Và thực tế nhất đồng thời cũng phũ phàng nhất không chỉ cho cá nhân của một nguyên thủ quốc gia mà cả một tiền đồ, một đất nước nhược tiểu chỉ là chiếc phĩnh trong canh bạc bấu cữ của một Tổng Thống ngọai bang. Chiến tranh Việt Nam là con bài tẩy của Nixon trong cuộc bầu cử 1968. Johnson giục Thiệu tham dự Hòa Đàm Ba Lê để con gà Dân Chủ Hubert Humphrey Phó Tổng Thống của mình hốt phiếu. Nixon dụ Thiệu đừng đi Paris: “ Chớ tham gia Hòa Đàm Ba Lê! Cố trì hõan càng lâu càng tốt, đợi Nixon lên làm Tổng Thống mọi chuyện sẻ tốt đẹp!” (Chương I : Việt Nam bầu Nixon. Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Tiến Sỉ Nguyển Tiến Hưng) Cũng theo TS Hưng, trong khi gặp Anna Chennault (trung gian giữa Thiệu và Nixon) Nixon hứa nếu đắc cữ sẻ coi vấn đề Việt Nam là ưu tiên và bảo đãm sẻ dành cho VN 1 sự đối xữ thuận lợi hơn phe Dân Chủ. Chủ tướng thì như thế còn cận thần cũng đâu dại mà bỏ lỡ cơ hội tiến thân. Ở trang 35 của quyển sách nói trên TS Hung cho biết McNamara đã thú nhận ngay từ khi Mỹ mang quân vào VN (65-66) ông đã hòai nghi về chiến thắng. Tuy nhiên ngòai mặt vẩn hăng hái cổ vủ cho sáng kiến của Johnson để lấy lòng hầu ẩm lấy chức Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới. Dưới trứơng Nixon cũng có 1 tay mưu sỉ tương tự, nhưng nổi trội, ồn ào hơn nhiều, Henry Kissinger. Được Viện thăm dò dư luận đánh giá trong các năm 72-73 là “người được ngưỡng mộ nhất Châu Mỹ” (the most admired man in America) bên cạnh những lời ca tụng của báo giới sau chuyến đi Bắc Kinh thành công tháng 11 năm 1971 dẩn đến chuyến công du lịch sữ của Nixon tháng 2 năm 1972 như “ 1 thiên tài”, “nhân vật khôn khéo hiếm thấy”(the smartest guy around). Chính khách Ai Cập gọi Kissinger là “Ảo thuật gia” trong dàn xếp giãn quân giữa Do Thái và Ai Cập. Còn báo giới VN thì tặng cho danh hiệu “Vua Đi Đêm” vì 2 lý do, mật đàm với Cộng Sản, và tìm gái ăn sương Paris. Lúc bấy giờ tạp chí Play Boy có đăng hình Kissinger tồng ngồng nằm nghiêng vắt ngang qua 2 trang báo (hình ghép ấy mà!) Thậm chí đến nay trên Internet vẩn còn sót lại 1 số tài liệu cho rằng Ông Cố Vấn An Ninh Kissinger được thiên hạ xem như 1 vị Tổng Thống tàng hình và là 1 trong những kẻ có nhiều quyền lực nhất của hành tinh nầy. Đàng sau những mỹ từ, những câu tán dương nổ như pháo Tết là 1 tên bợm bảy man trá, xỏ lá, ba que. Bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách lừa thầy phản bạn, lợi dụng vai trò tư vấn bán thời gian về vấn đề VN cho các chuyên gia Ngọai giao ở Washington D.C. chui vào nằm vùng trong Đảng Dân Chủ, đến năm bầu cữ chớp ngay thời cơ, phản thùng tiết lộ cho Nixon biết kế họach vận động tranh cử của Johnson để giúp Nixon đắc cử và được ân thưởng chức Cố vấn An Ninh. Từ đó chuyên tâm dùng mọi thủ đọan vun bồi họan lộ đến tháng 8 năm 73 thay luôn đương kim Ngọai Trưởng Rogers để trở thành di dân đầu tiên đạt đến chức vụ nầy. Tiến Sỉ Hưng kết luận; “ Trong 8 năm trời, qua 2 đời Tổng Thống, Kissinger đã nắm tòan quyền về Ngọai giao của Hoa Kỳ và đương nhiên đóng vai trò then chốt trong cả việc Mỹ tháo gỡ rồi bỏ chạy khỏi VN.. Đến đây ta có lý do để giãn lược tên Henry Kissinger thành “Kít” đọc lên nghe thấy chút ít mùi thum thũm hay rút gọn thêm nữa thành 1 chữ “K” đọc là “Ca” mà nếu lấp bấp thành Ca Ca thì ở thế hệ chúng ta ai cũng biết nghĩa là gì. BÀN TAY LÔNG LÁ Ở Saigòn trước 1975 cứ mổi lần xảy ra 1 biến cố dù to tác quan trọng như cái chết của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cuộc chĩnh lý của Nguyển Khánh hoặc bình thường như cải tổ nội các, thay Tướng vùng, bổ nhiệm nhân sự Bàn Tay Lông Lá luôn được nhiều người tự hào là thạo tin nhắc tới. Đúng sai, hậu xét. Nhưng rỏ ràng là có Mỹ can dự vào nội tình của VN. Oan nghiệt thay do định mệnh hay đẩy đưa của dòng lịch sữ mà nước ta lại rơi vào Bàn Tay Lông Lá của tên Juda của thế kỷ. Sách viết về chiến tranh VN nhiều vô kể vì 1 lý do dể hiểu, vì tự ái dân tộc nhân dân Mỹ không dể dàng chấp nhận sự thật phũ phàng xảy đến cho 1 quốc gia mà công dân luôn tự hào là 1 cường quốc bất bại. Trái lại những gì dính líu đến hành vi tráo trở. bội phản của cặp bài trùng Nixon-Kissinger chỉ khiêm nhường là chủ đề của vài tựa sách, chưa kể 1 số khác gượng gạo đổ lổi cho khách quan, khi là Quốc Hội Mỹ khi là vai trò yếu kém của VNCH như Thiên Niên Sữ Truyền Hình do Karnow thực hiện cho PPS và các quan điểm của Daniel Ellsberg, tác giả của “Tài Liệu Mật Ngủ Giác Đài” (The Pentagon Papers) tên phản chiến cùng mang dòng máu Juda với Kít. Bàn tay khuynh loát bằng các trò bẩn (dirty tricks) của Kít chỉ xuất hiện rãi rác đó đây trong 3 quyển sách của Nguyển Tiến Hưng, “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” cùng viết năm 1980 với nguyên Chủ bút tuần báo TIME, “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” xuất bản năm 2005 và gần đây nhất 2010 “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” vì thật ra Tiến Sỉ Hưng theo đuổi 1 mục đích khác. Nêu bậc khía cạnh man trá giảo quyệt của Kít là quyển “Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự. Nixon, Kissinger và Sự Phản Bội ở VN” của Larry Berman, giáo sư chính trị học của Đại Học California, được giáo sư chính trị học và bang giao quốc tế của Đai Học George Mason (Virginia) Nguyển Mạnh Hùng chuyển ngữ và do tuần báo Viet Tide xuất bản năm 2003. Quyết liệt và sâu sắc hơn cả là “ The Trial of Henry Kissinger” dưới dạng sách và băng video của Christopher Hitchens mỡ màn cho những phần tham gia góp ý trên mạng cũng như phản ứng gượng gạo chống chế của Kít. Sách của Hitchens không chỉ gói gọn vào 1 nạn nhân là VNCH mà còn phơi bày các tội ác khác của Kít trên tòan cầu từ Á sang Âu, Trung Đông, Phi Châu và Nam Mỹ Hòa Đàm Ba Lê bắt đầu từ 13 tháng 5 năm 1968 trong phòng hội của khách sạn Majestic và chấm dứt ngày 27 tháng 1 1973 với việc ký kết Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình ở VN tại Trung Tâm Quốc Tế của Paris là sân khấu biểu diển các thủ thuật gian manh vô tiền khóang hậu của hậu duệ Juda. Họp công khai cho có và cũng để tuyên truyền, mọi thương lượng mặc cả đều diển ra trong vòng bí mật được mệnh danh là những chuyến đi đêm qua móc nối của Sainteny, cựu Tòan quyền Đặc mệnh của Pháp ở Hà Nội, người đã từng điều đình trực tiếp với Hồ năm 1946. Vợ Sainteny đã từng là sinh viên của Kít trong 1 khóa học Hè ở Harvard. Chúng bí mật đến đổi ngòai 1 vài nhân viên phụ tá trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, chỉ có Nixon, và Đại Sứ Ellsworth Bunker biết mà thôi. Khởi đầu là cuộc gặp gở với Xuân Thủy và Mai Văn Bộ tại ngôi nhà sang trọng của vợ chồng Sainteny trên đường Rivoli ngay trung tâm Paris. Mặc dù kết quả cuộc gặp Xuân Thủy-Kít chẳng là bao nhưng nó mỡ cữa cho những cuộc điều đình tay đôi với Lê Đức Thọ về sau nầy. Bài diển văn được truyền đi khắp nước Mỹ cho thấy Nixon có sáng kiến Hòa Bình mới: Ngừng bắn tại chổ và trong hồi ký của mình Kít giải thích đề nghị ngừng bắn tại chổ năm 1970 cũng là giải pháp được chấp nhận năm 1972. Nghĩa là: “ việc quân Bắc Việt được ở lại trong Nam được hiểu ngầm trong đề nghị Ngừng bắn tại chổ, không cuộc thương thuyết nào có thể buộc họ rút lui nếu chúng ta không đẩy được họ ra bằng biện pháp quân sự” Kít đã viết như thế! Trở lại ngày 8 tháng 10 năm 1972 được hỏi trong cuộc họp báo “Có phải chúng ta bỏ đòi hỏi trước đây là phải rút quân song phương không?” Kít đã trả lởi, “Dĩ nhiên là không, tùy theo các ông định nghĩa thế nào là song phương. Nhưng chúng tôi không bỏ nguyên tắc chung” Thế là thế nào? Có nên nhắc lại câu hài của Hòai Linh “Hiểu, chết liền!” Thế nên trong “Không Hòa Bình , Chẳng Danh Dự...” Larry Berman đã mở đầu bằng câu nói của George Orwell 1 biếm luận gia chính trị của Anh (1903-1950) “ Sự thiếu thành thật là kẻ thù của ngôn ngữ trong sáng.” Ai cũng hiểu vấn đề rút quân Bắc Việt ra khỏi miền Nam quyết định sự tồn vong của VNCH nhưng Kít vẩn khăng khăng ngụy biện rằng sự hiện diện của chúng không phải là mối đe dọa cho sự sống còn của miền Nam. Từ 12 đến 17 tháng 10 72 K và Thọ đã đồng ý về 1 văn bản Hiệp Định mà VNCH không hề được thông báo. Cần biết rỏ thêm là từ đấu đến cuối thỉnh thoảng VNCH chỉ được thông báo qua loa về kết quả thương thuyết nhưng chẳng bao giở được hỏi ý kiến. Đến lúc ấy Thọ và K đã tổ chức ăn mừng “thắng lợi” tại Hà Nội trước khi K vào Saigon ngày 18 tháng 10 để gọi là thông báo cho Thiệu biết. Tổng Thống Thiệu đòi xem văn bản ấy và K đã trao cho ông văn bản tiếng Anh, không đính kèm thời khóa biểu mà Thọ và K đã đồng ý để ký Hiệp Ước sớm hơn dự liệu tức 31 tháng 10. Được trao cho bản Anh Ngữ Hòang Đức Nhã giận dữ phản ứng, “Chúng tôi không thể điều đình về số phận của đất nước chúng tôi bằng ngọai ngữ”. Khi được hỏi Bắc Việt đưa cho K bản tíếng Anh hay Việt K thú nhận có nhận bản tiếng Việt “nhưng nhân viên của tôi đã dịch thành bản văn tiếng Anh nầy” Nhã xách mé vặn lại: “Có phải ông muốn bảo tôi rằng người Mỹ có thể hiểu tiếng Việt hơn người Việt hay không? Trong phần tóm luợc kết quả thương lượng kéo dài 45 phút K khoe: “ Hiệp Ước nầy phản ánh sự suy sụp hòan tòan của lập trường Bắc Việt và chính Thọ đã ôm tôi mà khóc” ??? Mãi sau nầy phe ta mới được gởi cho bản văn tiếng Việt và Nhã hiểu ra VNCH bị yêu cầu ký 1 bản “Hiệp Ước đầu hàng”.!!! Ngòai ra bản dự thảo Hiệp Ước chỉ nói đến 3 quốc gia Đông Dương; Việt, Miên, Lào. Có nghĩa là ngay từ đầu họ chỉ xem Việt Nam như 1 nước duy nhất. Điều nầy lại 1 lần nữa giúp Bắc Việt giữ nguyên quân đội ở miền Nam vì Nam hay Bắc cũng chỉ là 1 nước thì lấy cớ gì để buộc họ rút quân. Khi Nhã hỏi lại K điểm nầy thì y lấp liếm đổ cho đây là lổi đánh máy. Nhã cười mĩa mai: “Dự thảo không viết số mà viết bằng chữ BA, B....A vậy đánh máy trât là trật thế nào?”Lại nữa cái Hội Đồng Quốc Gia Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc trên thực tế là 1 Chính Phủ Liên Hiệp trá hình, trong bản Anh ngữ nó được xem như 1 “cơ cấu hành chính” trong khi bản Việt ngữ nhận được sau nầy thì lại gọi nó là 1 “cơ cấu chính quyền” Do vậy sáng 20 tháng 10 72 Nhã đưa ra 64 điểm thắc mắc yêu cầu K giải thích. Mặc dù thừa biết Tổng Thống Thiệu sẻ từ chối ký Hiệp Ước K vẩn bay sang Kampuchia để cùng Lon Non nâng ly mừng nền Hòa Bình vừa đạt được cho VNCH. Theo Hòang Đức Nhã, “Những thiếu sót và thứ ngôn ngữ dùng trong Hiệp Ước cho thấy Hoa Kỳ đã bác bỏ tất cả các lập trường trước kia của chúng tôi. Dưới cái nhình của Thiệu K đang đãm nhiệm vai trò rao bán kế họach của Bắc Việt cho miền Nam. Từ ve vãn (củ cà rốt viện trợ) đến hăm dọa (6 tháng nữa Quốc Hội Mỹ sẻ cúp việ trợ) rồi chuyển sang lẩy hờn K bảo Nhã: “ Tổng Thống Thiệu đã chọn đóng vai trò 1 người tữ đạo, nhưng ông không có khả năng làm việc ấy. Nếu cần Hoa Kỳ sẻ ký Hiệp Ước với Hà Nội. Còn tôi, tôi sẻ không bao giờ đặt chân lên Sàigòn nữa. Nhất là sau vụ nầy. Đây là thất bại lớn nhất trong cuộc đời ngọai giao của tôi” Nhã đáp lời: “ Chúng tôi rất ân hận....nhung ông phải nhớ rằng chúng tôi có 1 quốc gia để phải bảo vệ”. Tổng Thống Thiệu nhất định không ký và nói: “...đặt bút ký vào 1 Hiệp Ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận 1 bản án tữ hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết. Không! Nó còn tệ hơn là chết!” Ngày 12 tháng 12 72 Tổng Thống Thiệu đọc diển văn trước lưỡng viện Quốc Hội sau đó trong cuộc họp 3 tiếng đồn hồ với các lảnh tụ chính trị ông cho biết đề nghị sữa đổi của VNCH đã không được chấp thuận và gọi dự thảo Hiệp Ước là 1 cái giá quá cao để đổi lấy việc phóng thích 600 tù binh Mỹ. Thiệu hãnh diện tuyên bố mình là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên dám đương đầu với Nixon. Ở trang 273 của “Không Hòa Bình Chẳng Danh Dự” Larry Berman viết;” Để đạt được 1 Hiệp Ước và đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam K sẳn sàng nói với bên nầy 1 điều rồi lại nói với bên kia 1 diều ngược hẳn lại và để cho về sau họ (ám chỉ VNCH, Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt) phải tự giải quyết lấy. Frank Snepp trong quyển “Decent Interval” của mình đã viết: “ Hiệp Định Ba Lê thực sụ chỉ là 1 hình thức bỏ chạy của Hoa Kỳ. Điều duy nhất được bảo đãm sẻ xảy ra là sự triệt thoái của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam vì điều nầy chỉ cần hành động đơn phương của Hoa Kỳ, Các vấn đề còn lại, những vấn đề gây ra chiến tranh và khiến nó vẩn tiếp tục vẩn không được giải quyết và không thể giải quyết được!” 24 tháng sau VNCH mất. Tới chừng đó các tai to mặt lớn ở Sàigòn mới vỡ mộng “ VNCH-Tiền Đồn Chống Cộng ở Đông Nam Á mà Mỹ sẻ bảo vệ bằng bất cứ giá nào” Có biết đâu trong tài liệu Tối Mật mới được giải mật gần đây được đưa lên mạng http://www.gwu.edu/ ở các trang 28-29 của bản ghi chép (transcript) về cuộc gặp gở tại Bắc Kinh giữa K và Chu Ân Lai, K đã bảo với Chu rằng Hoa Kỳ nhìn nhận kẻ thù Bắc Việt của mình là 1 nhân tố thường trực và có thể là “thực thể dũng mãnh nhất trong vùng” và “Chúng tôi chẳng hề có ý tiêu diệt hay quật ngã nó.” Sang trang 37 K còn nói thêm: “Và trong khi chúng tôi không được đưa 1 Chính quyền Cộng Sản lên cầm quyền, nếu như, do hậu quả của chuyển biến lịch sử, cần phải để chuyên ấy từ từ hình thành; nếu chúng tôi có thể sống với Chính quyền Cộng Sàn Trung Hoa thì chúng tôi cũng phải chấp nhận chuyện đó tại Đông Dương”(...And while we cannot bring a communist government to power, if, as a result of historical evolution it should happen over a period of time, if we can live with a communixt government in China we ought to be able to accept it in Indochina) Ở trang 327 của “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” Tiến Sỉ Hưng trích dẩn bài viết của ký giả Elaine Sciolino về tài liệu mới được giải mật do National Security Archive đưa ra gồm có biên bản phiên họp ngày 9 tháng 7 71 giữa K và Chu Ân Lai theo đó K đã khẳng định: “Dù có thương thuyết hay không thương thuyết với Bắc Việt đi nữa, rồi chúng tôi cũng sẻ rút quân – 1 cách đơn phương” Sang trang 328 ta có thể đọc được kết luận của phần trả lời của Stanley Karnow, nhà sữ học chuyên về Việt Nam:” Không còn nghi ngờ gì nữa là từ lúc tuyển chọn ứng cữ viên vòng sơ bộ (Đảng Cộng Hòa) tháng 3 68, lập trường của Nixon vẩn luôn luôn là ‘Hòa Bình Trong Danh Dự’. Vậy mà khi đến Trung Quốc, K lại nói:’ kế họach của chúng tôi là sẽ rút đơn phương’. ‘Đơn phương’ là điểm chính, và đây là điều mới lạ đối với tôi” Nếu ai còn thắc mắc nghi ngờ thì xin đọc thêm câu tuyên bố nầy của K cũng được ghi trong cùng tài liệu nói trên. “ Lập trường của chúng tôi là sẻ không duy trì bất cứ chính phủ nào ở miền Nam cả, và nếu như chính phủ miền Nam không được nhiều người ưa chuộng như Ngài nghỉ, thì khi quân đội chúng tôi rút đi càng nhanh, nó sẻ bị lật đổ càng lẹ. Và nếu nó bị lật đổ sau khi chúng tôi rút, chúng tôi cũng sẻ không can thiệp nữa” Sau nầy trong hồi ký “The White House Years” của mình K đã dùng 1 phần 3 quyển sách của mình để kể công và chạy tội: “ Chúng tôi đã đi tìm không phải chỉ 1 khoảng thời gian trước khi sụp đổ, nhưng 1 nền Hòa Bình lâu dài và Danh Dự” Thời gian trước khi sụp đổ là thời gian gì? “A Decent Interval” (tựa sách đã dẩn ở trên) mà Nguyển Tiến Hưng dịch là “1 khọảng thời gian coi cho được” Khái niệm nầy K đã đeo duổi từ năm 1967. Nó có nghĩa là sự sụp đổ của chính phủ miền Nam điều mà K cho là có thể xảy ra nếu không muốn nói là đương nhiên phải được trì hoãn 1 thời gian sau khi Hoa Kỳ rút quân để không bị chỉ trích là đã không bảo vệ được đồng minh của mình, còn phe nào cai trị miền Nam thì K cóc cần. Tàn tệ hơn nữa lúc bấy giờ K đã là Ngoại Trưởng của Gerald Ford và vận mệnh VNCH như chỉ mành treo chuông, ngày 8 tháng 4/75 tại Washington D.C. Thượng Nghị Sỉ Henry Jackson lên tiếng tố cáo đã có những thõa ước mật giữa Mỹ và VNCH, ông nói: “...có nguồn tin đáng tin cậy cho biết những thõa ước ấy chưa bao giờ được tiết lộ và chính ngay cả Tổng Thống Ford cũng chỉ mới được nghe nói về chúng mấy hôm gần đây thôi” Bạch Cung họp bàn cách đối phó, K không bình luận trực tiếp chỉ cho phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nhắc lại lời tuyên bố trước đây của ông rằng; ”không có cam kết pháp lý nào hết!” và những nghĩa vụ của Hoa Kỳ chỉ là “cam kết tinh thần” Ngày 9 tháng 4, 1 ngày trước khi Ford ra Quốc Hội để thuyết phục các nhà lập pháp chấp thuận ngân khoãn 722 triệu chi viện cho VNCH K dùng lời của Cố vấn Ron Nessen (rất được Ford tin dùng) để khuyên Ford: “ Tổng Thống phải lảnh đạo đưa Mỹ ra khỏi Việt Nam chứ chớ đưa vào nữa”. Toàn bộ những văn kiện cam kết trao đổi liên hệ đến sự sống còn của VNCH đã bị ém nhẹm: 27 mật thư của Nixon gởi Thiệu từ 1972 dến 73, cam kết miệng (được ghi lại) của K với Ngọai trưởng Trần Văn Lắm lúc ký Hiệp Định, 4 thư của Ford gởi Tổng Thống Thiệu để trấn an, thư cầu cứu của Thiệu gởi Ford ngày 25 tháng 3 75, thư của Quốc Hội VNCH gởi Ford ngày 24 tháng 3 75 và 2 thư của Quốc Hội VNCH gởi Thượng và Hạ Viện Hoa Kỳ. Ém nhẹm thư tín để có cớ đổ lổi cho Quốc Hội Hoa Kỳ đã để cho miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Bộ Trưởng Quốc Phòng Schlesinger phàn nàn:” I remember how surprises I was when the letters surfaced, because I felt that they meant a welching by the U.S. on commitments that had been entered into by the President. However, if you don’t know the commitments have been entered into, you don’t know the country has welched” Phần dịch của Tiến Sỉ Hưng:” Tôi còn nhớ tôi đã vô cùng sững sốt khi đọc 1 số lá thư ấy, vì chúng có nghĩa là Hoa Kỳ đã chạy làng những nghĩa vụ mà chính Tổng Thống đã cam kết. Tuy nhiên nếu ta không biết được là có những nghĩa vụ được cam kết thì ta đâu biết được là Hoa Kỳ đã chạy làng!”K rất sợ nếu VNCH khiếu nại với Quốc Hội Mỹ trên căn bản nầy thì sẻ gây thêm tranh luận đưa hắn vào thế kẹt vì tuần báo TIME số ra ngày 21 tháng 4 có trích đăng câu trả lời của hắn trong 1 cuộc phỏng vấn: Hỏi: Có nghị định thư nào đã được thõa thuận với miền Nam không? Đáp:không có sự thông cãm (understanding) bí mật nào hết (trích từ “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”) Đúng là sở trường của hậu duệ Juda- “Làm sao không nói sự thật mà lại không là nói dối” Tiến Sỉ Hưng có đọc được câu phê bình nầy trên mặt báo nhưng không nhớ được xuất xứ.. Với “tài ba” ấy nếu chỉ dùng để bán đứng 1 nước nhỏ bé như Việt Nam thì uổng phí lắm, thế nên ngoài nước ta K còn với tay GIEO HOẠ KHẮP CÙNG Việt Nam mình có “những vì sao thời lữa đạn”, 4 vị sinh vi tướng tữ vi thần cùng hàng bao quân cán chính cùng chết theo với Tổ Quốc. Tiếc thương ở ta và ngậm ngùi cho người qua lời trăn trối bi hùng viết tay bằng tiếng Pháp của Thủ Tướng Kampuchia Sirik Matak gởi Đại Sứ Dean ngày 12 tháng 4 75. Cặp bài trùng Nixon-Kissinger cũng đã khai tữ láng giềng của ta. Không chỉ có vậy thôi đâu, sách “The Trial of Kissinger” của Christopher Hitchens, 1 nhà báo Mỹ gốc Anh, được dựng thành phim và chiếu trên băng tầng truyền hình của các đài PPS ở Seatle và Chicago từ năm 2001 đã liệt kê những mánh khoé ngoại giao không những vô luân (có ngớ ngẩng không khi trông chờ đạo đức ở các chính khách nhất là ở 1 kẻ mà máu Juda trộn lẩn với gene Aryan) mà còn man trá, bịp bợm và bạo ngược. Man trá bịp bợm là vụ oanh tạc lén lút lảnh thổ Kampuchia bằng B52 dưới mật danh MENU được biện minh là để ngăn đường tiếp liệu và chuyển quân dụng của Cộng Sản vào Việt Nam. Chiến dịch nầy chỉ có 1 số ít viên chúc được biết và phải dấu nhẹm vì Kampuchia là 1 nước trung lập. Hơn nửa nó đi ngược lại với lời hứa mang lại Hòa Bình của Nixon khi tranh cữ. Bằng mưu chước “hóa đơn kép” để vừa xin Bộ Quốc Phòng cho oanh tạc vừa chứng minh cho việc xữ dụng tài nguyên, xong phi vụ phúc trình giả được gởi theo đường dây thông thường nhằm chứng minh cuộc oanh tạc nhắm vào các mục tiêu Việ Nam còn phúc trình thực thì gởi theo đường dây riêng của chiến dịch MENU. Sau nầy chính Bộ Tham Mưu Liên Quân phải nhìn nhận biện pháp bảo mật cho MENU kéo dài 14 tháng và chấm dứt ngày 26 tháng 5 70 sau 3875 phi vụ đế trút xuống lảnh thổ 1 nước trung lập 180.823 tấn bom dân chúng Mỹ không hề hay biết đã đành mà ngay hầu hết viên chức Hoa Kỳ cũng mù tịt. Trong khi đó phi hành đoàn B52 không hề được cho biết là họ sẻ oanh tạc Kampuchia và vì các phi vụ nầy được thực hiện trong đêm nên đặt dưới sự hướng dẩn của các đài chỉ huy dưới đất và chính các đài nầy đã ra lệnh cho họ chuyển hướng bay. Nếu có ai thắc mắc đã biết không thể thắng trong cuộc chiến Việt Nam thì tại sao không kết thúc nó ngay sau cuộc bầu cữ 1968, Gordon Duff, chủ bút trang mạng Veterans Today giải thích:”The answer is simple. Nixon kept the war going for 4 years because he needs a ploy to use for a second election” (....ông cần con bài tẩy cho nhiệm kỳ 2). Còn đối với K, đàng nào cũng rút quân thì liệu có cần phải oanh tạc Kampuchia để bảo vệ chiến binh Mỹ như hắn thường biện bạch hay không? Trong bài viết có tựa đề “ Henry Kissinger, enlightened statesman or odious schlumpf” (K 1 chính khách sáng suốt hay 1 tên họat đầu chính trị nhuốc nhơ) tác giả Fred Branfman đã viết: “Việc mỡ rộng mục tiêu oanh tạc đâu cần thiết để bảo vệ người Hoa Kỳ như thường được biện bạch. Bắc Việt hẳn phải hoan hĩ khi thắy Mỹ rút quân và không chừng còn tổ chức rầm rộ để tiển đưa. Thế mà K vẩn tiếp tục cho oanh tạc gây biết bao thương vong ngay cả khi khả năng đạt được thắng lợi rất xa vời... mối quan tâm duy nhất của K là tránh bị qui trách về sự sụp đổ tất yếu của Đông Dương. Như vậy đó, tham vọng thắng thêm 1 nhiệm kỳ Tổng Thống của Nixon, để giữ thể diện cho Đảng mình, nổi lo bị chê trách của K đã giết hại 40.000 binh sỉ lẩn thường dân Kampuchia và góp phần gây thêm hổn lọan cho cuộc nội chiến giữa Lon Nol và Pol Pot và trong khi David Chandler người viết tiểu sữ Pol Pot lập luận là: “Các cuộc oanh tạc đã giúp Mỹ đạt được hiệu quả mong muốn, phá vỡ vòng vây Phnom Penh của Khờ Me Đỏ” thì Christopher Hitchens, tác giả của “The Trial of Kissinger” khẳng định rằng các cuộc oanh tạc ấy đã giúp Khờ Me Đỏ tuyrển mộ thêm binh sỉ. Bàn tay vấy máu của K còn với xa hơn nữa sang Nam Dương quần đảo đến Đông Timor. Quốc gia non trẻ nầy mới được Bồ Đào Nha trao trả Độc Lập năm 1975 liền rơi vào cặp mắt dòm ngó của Suharto, tay sai mẩn cán trung thành của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Viện lẻ phong trào Fretilin thiên tã đang chi phối đảo quốc nầy, Suharto “xin phép” ma cô Hoa kỳ cho mình làm thịt em bé nầy. Chẳng những gật đầu chấp thuận K còn dạy khôn Suharto khi hắn tỏ ý e ngại Thế giới phát giác hắn dùng vũ khí do Hoa Kỳ cung cấp để thực hiện hành vi thôn tính bạo ngược nầy. Mặc dù K chối bai bãi nhưng trong phấn ghi chép của Đại Sứ David Newsom người ta tìm thấy câu nói của K: “Cám ơn Tổng Thống đã chia sè với chúng tôi mối lo ngại về việc xữ dụng vũ khí mang nhản hiệu Hoa Kỳ sẻ gây rắc rối. Chuyện ấy tùy thuộc vào cách giải thích của mình: để tự vệ hay hành quân ra nước ngoài. Điều quan trọng là, làm gì thì làm Ngài cần đạt thắng lợi chóng vánh. Phần chúng tôi sẻ chi phối phản ứng ở Hoa Kỳ miển sao chuyện phải đến sẻ đến sau khi chúng tôi cất bước ra về” Sau chuyến viếng thăm của Ford và K vào tháng 12 75 được Ford và nhất là K bật đèn xanh Suharto huy động Hải, Lục, Không Quân tấn chiếm Đông Timor giết hại hàng 100.000 dân chúng. Băng video “The Trial of Kissinger” ghi lại cảnh tàn sát giết chóc vô cùng dã man của quận đội Indonesia. Chuyện Đông Timor có thể trong chúng ta ít người quan tâm nhung khó bỏ qua sự kiện Mỹ thấu cáy Đài Loan 1 vố đau điếng. Còn ai trồng khoai đất nầy. Trên trang mạng w.taiwandc.org/twcom/101-no2.htm người ta đọc thấy bài “Kissinger transcripts shows betrayal of Taiwan” Ngày 27 tháng 2 năm 2002 Văn khố An ninh Quốc gia tại Đại Học George Washington công bố bản ghi chép liên quan đến Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Henry Kissinger bí mật đến Bắc kinh để thu xếp cho cuộc họp thượng đĩnh dẩn đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trái hẳn với điều được viết trong tập sách “The White House years” xuất bản năm 1979 của mình theo đó “Vấn đề Đài Loan chỉ được đề cập vắn tắc.” Qua bản ghi chép được công bố thì đó là 1 đề tài quan trọng. 17 tiếng đồng hồ thương thảo với Chu Ân Lai từ 9 đến 11 tháng 11 71 cho chuyến công du của Nixon và để sọan thảo bản Thông Cáo Thượng Hải. Lúc đó chẳng đếm xĩa gì đến vị thế của Đài Loan K đã gieo mầm rối rắm, tạo nên những bế tắc tồn tại qua 3 thập niên trong mối bang giao Mỹ-Trung Cộng-Đài Loan. Tài liệu cho thấy K và Chu đã bàn về tương lai của Đài Loan mà chẳng kể số gì đến quan điểm của nhân dân nước nầy. Trong buổi sơ giao ấy K đã tình nguyện “triều cống” lập trường của Mỹ: *Không hổ trợ cho tính độc lập của Đài Loan đồng thời còn cho biết Nixon sẻ chính thức thừa nhận toàn diện Trung Cộng nội trong 2 năm đầu của nhiệm kỳ thứ 2. Vì vậy Bản Thông Cáo số 101 tháng 5 2002 của Đài Loan phê phán:”Ông Kissinger đã tìm cách rao bán cái không thuộc quyền sỡ hữu của mình, đó là tương lai của Đài Loan, 1 quốc gia tự do, dân chủ và độc lập Một sự kiện khác nữa mà cả Thế Giới đều lên án: xen vào nội bộ của Chí Lợi. Năm 1970 ứng cữ viên Tổng Thống của Đảng Xã Hội Chí Lợi đắc cữ khiến Hoa Thịnh Đốn lo ngại về chủ trương thân Cuba của ông. Thế là C.I.A. được lệnh xúi giục đảo chánh quân sự ngăn trở không để Tổng Thống đắc cữ Salvador Allende làm lể tuyên thệ nhậm chức. Mưu toan thất bại.Sau đó với sự chấp thuận của Ủy Ban 40 do K cầm đầu C.I.A. không ngừng khuấy động, lúc xúi giục phe nầy lúc cãn trở nhóm kia, thậm chí còn trấn an họ rằng, đừng lo Hoa Thịnh Đốn sẻ cúp viện trợ vì những hành vi vi phạm nhân quyền. Quan điểm của K lúc ấy là:” Tôi không thấy có lý do gì để chúng ta đứng im mà nhìn 1 nước đi theo chủ nghĩa Cộng sản chỉ vì công dân của nó không có ý thức trách nhiệm” Sau khi dùng kế họach TRACK II của C.I.A. để bắt cóc rồi giết chết Tướng Schneider, cãn trở lớn nhất cho bất cứ mưu toan nào nhằm lật đổ Salvador Allende. Cuối cùng K cũng tìm ra được 1 tay sai, Augusto Pinochet, Tổng Tư Lệnh Lục quân và phần thưởng dành cho hắn ta là chiếc ghế Tổng Thống mà Allende đã để lại sau khi tự sát ngay trong tư dinh của mình ngày 11 tháng 9 73. Năm 2000 1 tài liệu do CIA công bố mang tên “Hoạt động của CIA ở Chí Lợi” cho thấy CIA đã tích cực hổ trợ cho giới cầm quyền quân sự sau khi Allende bị lật đổ, xữ dụng 1 số quân nhân thân cận với Pinochet làm đầu mối được hưởng lương, hoặc làm việc cho quân đội Mỹ mặc dù khá nhiều tên trong bọn nầy đã từng can dự vào những vụ vi phạm nhân quyền trầm trọng. Pinochet thì khỏi nói, hắn đóng đầy đũ vai trò của 1 bạo chúa. Cũng có thư phần, bắt cóc, tra tấn, thủ tiêu, ám sát...Sau 17 năm trị vì dưới ô dù che chắn của K thành tích đạt được của Pinochet là ngoài 3.197 nạn nhân bị sát hại trong cuộc đảo chánh quân sự đẩm máu, các vụ vi phạm nhân quyền và tra tấn còn được thực hiện nhắm vào 28.000 người khác thêm vào đó là những vụ bắt người đưa đi biệt tích. Nhờ công đào luyện của CIA đặt dưới quyền giám sát của Cố Vấn An Ninh kiêm Ngoại Trưởng Kissinger, lực lượng an ninh của Pinochet đã góp phần sát hại 2115 người và đưa đi biệt tích 957 người khác còn bên mật vụ thì kết quả là 392 vụ biệt tích Do đơn kiện của gia đình Tướng Schneider và đơn tố cáo của hàng ngàn gia đình có thân nhân bị Pinochet giết hoặc thủ tiêu nên khi sang Anh chữa bệnh vào tháng 9/98, ngày 6 tháng 10 Cảnh sát Anh thi hành trát của quan Tòa ở Tây Ban Nha đã từng thụ lý vụ chính quyền Pinochet bắt bớ và thủ tiêu các lãnh tụ của Phong trào Cách Mạng Cánh Tã hồi tháng 4 năm 1976 đã đến bệnh viện để làm thủ tục dẩn độ Pinochet. Nội vụ dằng dai giữa Bộ Nội Vụ, Tòa Án Tối Cao và Quốc Hội Anh; và cuối cùng Pinochet được phép trở về Chí Lợi để rồi chết năm 2006. Riêng K do những vụ tàn sát ở Đông Timor và Chí Lợi mà hiện nay ở 1 số nước Á cũng như Âu (nhất là Pháp) các quan Tòa cũng như luật sư đều trông chờ K đến hoặc quá cảnh qua nước họ để tống đạt trát triệu dụng hoặc thư mời làm “chứng” cho những can dự, dính líu vào những tội ác chiến tranh cũng như vi phạm nhân quyền của đương sự. Riêng trường hợp giật dây cho con rối Pinochet thì đã có 5 quốc gia như thế. Do vậy vào những năm cuối đời mặc dù làm chủ 1 Công Ty Tư Vấn có nhiều khách hàng, cứ mổi lần phát biểu hay đọc tham luận là nhét túi từ 25 đến 30 ngàn đô la, K hạn chế tối đa các chuyến xuất ngọai. Sau biến cố 9/11 K là người đầu tiên được Bush chọn để điều khiển cuộc điều tra, nhưng chẳng bao lâu xin rút lui sau khi gặp gia đình các nạn nhân và bị chất vấn “trong số thân chủ của ông có ai tên là Bin Laden không?” Tội trạng của K còn nhiều, nhiều lắm. Nhưng rất tiếc, rất tiếc, không biết có ý mĩa mai hay không mà tác giả của “The Trial of Kissinger” viết:” Hoa kỳ rất ư là rộng lượng để tự ban cho mình toàn quyền đặc miển tài phán và 1 phần quyền ấy cho các công bộc của mình. Mỹ cũng là nước tụt hậu trong việc ký kết để tôn trọng các công ước quốc tế (chỉ phê chuẩn Công Ước về Diệt Chũng năm 1989 và ký Hiệp Ước về Dân quyền và Quyền Chính trị năm 1992 [Convenant on Civil and Political Rights])”. Còn vế các khoãn của Pháp Chế Roma (Roma Statute) theo đó K có thể bị xữ phạt nghiêm ngặt (nếu được công nhận từ năm 1968) thì chỉ mới có hiệu lực từ tháng 4 năm 2002 và không được hồi tố. Hú hồn cho K, đến tháng 11/2010 Tòa Án Hình Sự Quốc Tế (ICC) đã có 114 thành viên và 34 nước khác đang chờ phê chuẩn Pháp Chế Roma trong khi đó 3 nước Hoa Kỳ, Do Thái, và Sudan đã rút lại chữ ký của họ và từ chối mọi ràng buộc pháp lý mà họ đã ký trước đây. Đến đây xin tạm xếp hồ sơ mặc dù vẩn còn vụ diệt chũng (từ 500 ngàn đến 3 triệu nguời), đảo chánh và ám sát ở Bangladesh do chế độ Pakistan thân Mỹ thực hiện với bàn tay đốc thúc của K, vụ lật đổ Giáo Chủ Makarios ở Chypre với hàng ngàn người chết. Xếp tạm vậy thôi chứ như Fred Branfman viết trên trang mạng “3rd World Traveler” : “ Những Reagan, Nixon, George W. Bush, chúng ta sẻ cho qua. Nhưng với K dù sự thể diển biến ra sao, chúng ta cũng sẻ mãi dõi theo bất cứ gì xảy đến cho nhân vật độc đáo (độc địa?) hi hữu nầy. G.O.Đ.
|