Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Nội dung chính của hiệp định Paris và lập trường các bên

Nội dung chính của hiệp định Paris và lập trường các bên PDF Print E-mail
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Bảy, 20 Tháng 3 Năm 2010 08:28

Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút khỏi cuộc chiến và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.

Nội dung hiệp định được chia thành chín "chương", nói về các chủ đề về cơ bản giống như trong bản dự thảo 9 điểm mà Hoa Kỳ và Việt nam Dân chủ Cộng hoà đã thống nhất với nhau vào tháng 10 năm 1972. Đó là 
 

 
         Phía Hoa Kỳ ký kết Hiệp Định Paris
 

1. Hoa Kỳ tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như được công nhận bởi hiệp định Geneva.

Đây là lập trường có tính nguyên tắc mà phía Bắc Việt Nam kiên quyết giữ vững. Phía Việt Nam Cộng Hòa coi đây là điều khoản nguy hại cho mình nên đã ra sức bác bỏ. Hoa Kỳ thuyết phục tổng thống Thiệu rằng điều khoản này chỉ có tính nguyên tắc trên lý thuyết, thực tế không trực tiếp gây nguy hại cho an ninh của Việt Nam Cộng hoà; rằng ngoài ra trong hiệp định còn có điều khoản quy định Nhân dân Miền Nam Việt Nam có quyền tự định đoạt chế độ chính trị của mình thông qua bầu cử có giám sát quốc tế, là điều khoản vô hiệu hoá được mối đe doạ của điều khoản thứ nhất này.
Năm 1973, sau khi ký chính thức hiệp định trong một chuyến đi hội đàm đến Hà Nội ông Kissinger có đến thăm Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại Hà Nội, Khi nghe cán bộ bảo tàng dịch nghĩa các câu thơ chữ Hán của bài thơ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt trên tường nhà bảo tàng, ông Kissinger nhận xét: "Điều 1 khoản 1 của Hiệp định Paris!"
 

2. Ngừng bắn trên toàn Việt Nam sẽ bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973: với tất cả các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí. Mọi tranh chấp về quyền kiểm soát lãnh thổ sẽ được giải quyết bởi uỷ ban quân sự liên hợp giữa hai lực lượng của Việt Nam Cộng hòa và Việt Cộng. Trong vòng 60 ngày, sẽ có cuộc rút lui hoàn toàn của quân đội Mỹ và đồng minh cùng các nhân viên quân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam Cộng hòa. Các bên không được tăng cường binh lính, nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược hoặc vật liệu chiến tranh vào Nam Việt Nam, trong trường hợp để thay thế thì phải theo nguyên tắc một-đổi-một. Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục can thiệp quân sự vào "các vấn đề nội bộ" của Nam Việt Nam.
Đây là vấn đề quan trọng số một là thực chất của hiệp định nó quy định quân đội Hoa Kỳ và đồng minh phải rút hết khỏi Việt Nam chấm dứt mọi can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trong khi đó quân đội Bắc Việt Nam tiếp tục được ở lại trên chiến trường miền Nam đây là nhượng bộ lớn nhất mà qua 4 năm đấu tranh trên chiến trường và bàn hội nghị cuối cùng Hoa Kỳ đã thoả hiệp. Đây là điều khoản mà Việt Nam Cộng hoà cương quyết bác bỏ vì thấy trước là mối hiểm hoạ nhất định nổ ra sau khi Hoa Kỳ rút hết quân. Trong chương này có điều khoản về thay đổi quân số và binh bị theo nguyên tắc một-đổi-một: đây là nhượng bộ của phía Bắc Việt Nam nhưng thực ra điều khoản này trên thực tế sẽ nhanh chóng bị vô hiệu hoá vì không có một lực lượng nào có thể kiểm chứng số lượng, trang bị của quân Bắc Việt Nam trên chiến trường và trên đường tiếp tế.
 

 
   Bộ Trưởng Nguyễn Thị Bình ký hiệp định
 

1. Tất cả tù binh chiến tranh của các bên sẽ được trao trả không điều kiện trong vòng 60 ngày. Các tù nhân chính trị sẽ được trả tự do sau đó theo thoả thuận chi tiết của các phía Việt Nam.
Điều khoản trao trả tù binh không điều kiện trong vòng 60 ngày có tầm quan trọng rất lớn và cực kỳ nhạy cảm đối với chính phủ của Tổng thống Nixon. Uy tín chính quyền Nixon trong con mắt người dân Mỹ phụ thuộc lớn vào việc có nhanh chóng đưa được các tù binh Mỹ về nước như đã hứa khi bầu cử tổng thống hay không và điều rất quan trọng nữa là điều này tạo ra được ấn tượng tâm lý "ra đi trong danh dự". Việc giải phóng tù binh không điều kiện, còn tù nhân dân sự sẽ được giải quyết sau phản ánh nguyên tắc của phía Hoa Kỳ là tách các vấn đề thuần tuý quân sự ra khỏi các vấn đề rất phức tạp về chính trị. Chính vì vấn đề tù binh Mỹ quá quan trọng với chính quyền của Tổng thống Nixon nên đây cũng là một lý do giải thích cho phản ứng rất dữ dội của Nixon bằng chiến dịch Linebacker II khi phía Bắc Việt Nam đặt lại vấn đề phóng thích tù binh phải gắn liền với vấn đề tù chính trị.
 

2. Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Các bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng. Nhân dân Nam Việt Nam sẽ quyết định tương lai chính trị của mình qua "tổng tuyển cử tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế".
Điều khoản này phản ánh thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Phía Mỹ yêu cầu phải có điều khoản bảo đảm cho quyền của nhân dân miền Nam quyết định tương lai chính trị của mình thông qua bầu cử tự do dân chủ dưới sự giám sát quốc tế là để ngăn ngừa về mặt pháp lý sự thôn tính bằng vũ lực của Bắc Việt Nam đối với Nam Việt Nam. Đối với yêu cầu này Bắc Việt Nam không có phản đối gì đặc biệt.
 

3. Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Chương này khẳng định ranh giới và khu phi quân sự tại vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời theo như quy định tại Hiệp định Genève. Hai bên Việt Nam sau này tiến hành đàm phán để đi đến thống nhất Việt Nam... cụ thể vấn đề thống nhất chỉ mang tính nguyên tắc không có cơ chế thi hành: các biện pháp đó là gì, tiến hành như thế nào thì hiệp định chưa xem xét đến.
 

4. Để giám sát việc thực hiện hiệp định, một uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế và phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên (gồm Bắc Việt, Hoa Kỳ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà) sẽ được thành lập.
Cơ chế giám sát thi hành này trong thực tế không có hiệu lực gì đáng kể.
 

5. Lào và Campuchia giữ vị trí trung lập và tự chủ, không cho nước ngoài được phép giữ các căn cứ quân sự trong lãnh thổ của hai nước này.
Đây là trói buộc của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đối với các căn cứ và tuyến vận chuyển của Bắc Việt Nam và cộng sản miền Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào và Campuchia. Đây là một nhượng bộ của phía cộng sản nhưng trên thực tế thì phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa không có cách gì để bắt buộc đối phương thi hành điều khoản này một phần vì ngay tại các nước này cũng đang nội chiến không có một chính quyền trung ương mạnh.
 

6. Hoa Kỳ có nghĩa vụ sẽ giúp đỡ việc tái thiết sau chiến tranh, đặc biệt là ở Bắc Việt Nam và trên toàn Đông Dương, để hàn gắn các thiệt hại do chiến tranh.
Điều khoản tái thiết sau chiến tranh sau này không được thi hành. Sau này trong thập niên 1990 khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước thì một yêu cầu của phía Hoa Kỳ là Việt Nam phải chấm dứt đòi hỏi Hoa Kỳ nghĩa vụ tái thiết sau chiến tranh mà như hiệp định đã quy định.
 

7. Tất cả các bên đồng ý thi hành hiệp định. Và hiệp định được sự bảo trợ của quốc tế thông qua việc các quốc gia ký nghị định thư quốc tế về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt nam.
Điều khoản cuối của hiệp định và cũng không có điều khoản cưỡng chế: hiệp định không đưa ra được biện pháp và lực lượng cưỡng chế nếu một bên vi phạm hiệp định.
 

Vai trò và kết quả
Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ soạn thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ đây là cách họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì hiệp định này là bước thứ nhất trong hai bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đối với Việt Nam Cộng hoà thì hiệp định này là một tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hoà trước một nguy hiểm trong một tương lai gần.
Để trấn an Việt Nam Cộng hoà, Tổng thống Nixon đã hứa riêng bằng lời với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là trong trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam Cộng Hòa thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng bằng cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam Cộng hòa. Tất nhiên lời hứa này sẽ không có giá trị thực tế vì sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đã ra nghị quyết không cho phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được phép của Quốc hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Với các áp đặt như vậy thì dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị thì cũng không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được. Đối với người Mỹ họ thực sự muốn đóng lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới.
 

 

 Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris.


 Trich: Sách Chính phủ Việt nam 1945- 1998

NXB Chính trị Quốc gia 7.1999

Chính vì vậy trong hiệp định có những điều khoản có vẻ là nhượng bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng chẳng có ai có thể kiểm chứng và cưỡng chế được; ví dụ điều khoản quy định quân đội Bắc Việt Nam được quyền thay quân và trang bị vũ khí theo nguyên tắc một-đổi-một. Số quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Miền Nam trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường mòn Hồ Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm chứng được. Còn vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không thì dễ dàng được quản lý. Tương tự, điều khoản về ngăn cấm các bên lập căn cứ quân sự trên đất Lào và Campuchia trung lập là nhượng bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng phía đối phương không thể có biện pháp áp chế hữu hiệu gì. Điều khoản uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là hình thức vì quyền lực của uỷ ban này không có đủ để can thiệp gì vào các tiến trình sự việc. Các điều khoản về quy chế chính trị như thành lập chính phủ hoà hợp dân tộc tiến tới thống nhất cũng không có cơ chế thi hành mà chỉ là ý tưởng đẹp...
Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút khỏi cuộc chiến và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hoà, còn Việt Nam Cộng Hòa cố gắng xoay trở chống đỡ chẳng kể gì đến hiệp định. Vai trò của Hiệp định Paris, trên thực tế, đến đây là đã hết.