Tổng kết về ung thư |
Tác Giả: Minh Luân | |||
Chúa Nhật, 13 Tháng 9 Năm 2009 04:57 | |||
Vào cuối thập niên 70, người ta cho rằng chỉ cần bỏ thêm tiền vào việc nghiên cứu để tiệt trừ được bệnh ung thư. Sai lầm : hàng trăm triệu đôla đã tiêu tốn nhưng căn bệnh này vẫn không lùi bước. Tuy nhiên các nỗ lực đã không phải hoàn toàn vô ích.
Từ hơn 2 thập niên qua, số người mắc bệnh ung thư đã không thay đổi mấy : từ 200.000 đến 220.000 ca mới hàng năm (tại Pháp). Tuy nhiên khó mà có được con số chính xác bởi vì bệnh nhân ung thư không phải bắt buộc trình báo như bệnh AIDS. Nơi đàn ông, các dạng ung thư dễ gặp nhất là ung thư phổi và đường hô hấp tiêu hóa (17%, nhưng đã có dấu hiệu giảm bớt từ năm 1989 do việc bỏ thuốc lá và rượu), tiếp sau là ung thư kết tràng (13%) và tuyến tiền liệt (10%). Ở phụ nữ, ung thư vú chiếm 33%, ung thư trực tràng 16% rồi đến ung thư tử cung 12%. Tỉ lệ tử vong do ung thư nơi đàn ông hiện nay là 0,3%, tức đã gia tăng 30% từ năm 1950. Đối với phụ nữ, tỉ lệ này thấp hơn 2 lần và giảm bớt nhờ việc phát hiện sớm các ung thư ở vú và tử cung, đồng thời cũng do những tiến bộ về trị liệu. Nhưng giới bác sĩ đang lo ngại rằng trong những năm sắp tới, xu hướng hút thuốc của các cô gái trẻ sẽ làm gia tăng tỉ lệ này. Hiện nay tại Mỹ, ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu nơi phụ nữ, trên cả ung thư vú. Các chuyên gia ước tính rằng đến năm 2025, thuốc lá sẽ gây ra cái chết cho 160.000 người tại Pháp. Vấn đề gay go nhất vẫn là ung thư vú. Bệnh này đang gia tăng tại khắp các nước phương Tây và tấn công 1/10 giới phụ nữ. Mỗi năm tại Pháp lại có thêm 25.000 bệnh nhân mới và 10.000 ca tử vong. Người ta chỉ biết nguyên nhân của bệnh này trong 5 hay 10% số trường hợp : đó là di truyền. Nhưng đa số vẫn còn là bí ẩn. Một giả thuyết được đưa ra : có lẽ do một chế độ ăn quá nhiều chất béo. Giả thuyết thứ nhì là việc điều trị bằng hormone (thuốc ngừa thai hay oestrogène thay thế trong kỳ mãn kinh). Thuốc lá và rượu cũng bị nghi ngờ. Các chuyên gia đã lên án những yếu tố thực phẩm thúc đẩy sự xuất hiện ung thư : ăn nhiều thịt gây ung thư kết tràng, chất béo tạo ung thư vú, buồng trứng và tuyến tiền liệt. Ngược lai, dùng nhiều trái cây và rau cải tươi dường như có thể giảm bớt nguy cơ ung thư đường tiêu hóa, hô hấp và bàng quang. Bức xạ ion làm tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp và ung thư máu. Tia cực tím thúc đẩy sự xuất hiện ung thư da. Ngoài ra, mạt cưa và bụi nickel sinh ra ung thư mũi, mặt; chất radon, những dẫn xuất của chrome và chất amiante có liên quan đến ung thư phổỉ. Hơn nữa, amiante còn gây nên ung thư màng phổi, màng tim và màng bụng. Chất bezène và hắc ín tấn công bàng quang. Một số virus cũng liên quan đến việc sinh ung thư : virus viêm gan B và C mở đường cho ung thư gan; papillomavirus dẫn đến ung thư cổ tử cung; còn virus herpès có thể làm phát sinh ung thư sarcoma Kaposi. Một khối u rộng 1mm, hoàn toàn không phát hiện ra, đã chứa đến 1 triệu tế bào ung thư. Khi nó rộng 1cm, nó có đến 1 tỉ tế bào. Nếu khối u nặng 1g vào năm 2009, đến năm 2020 nó sẽ đạt trọng lượng 1kg nếu người ta không ngăn chặn sự phát triển của nó. Sau khi tiếp xúc với 1 yếu tố gây ung thư, thông thường phải cần từ 10 đến 20 năm để một khối u hình thành. Mọi triệu chứng mới lạ và kéo dài đều cần được bác sĩ khám. Chẳng hạn như một nốt ruồi đột nhiên thay đổi hình dạng (ung thư hắc tố), thở có tiếng rít (ung thư phổi); đau nhói tái diễn ở ngực hay vai (ung thư phổi); đêm đi tiểu nhiều lần (ung thư tuyến tiền liệt hay bàng quang). Nói chung, có 2 hiện tượng cần phải được xét nghiệm để có thể chẩn đoán sớm một khối u : những cơn đau kéo dài không biết lý do; xuất huyết sau khi ho, ra máu trong phân, nước tiểu hay ngoài kỳ kinh. Trừ trường hợp ngoại lệ, còn thì một khối u mới phát rất khó nhận ra. Nó phải có kích thước vài milimét để ảnh X-quang có thể phát hiện ra. Điều này có nghĩa là khối u đã phát triển âm thầm trong nhiều năm. Nhưng các kỹ thuật mới tạo ảnh 3 chiều cộng với vi tính có thể phát hiện sớm hơn và chính xác hơn một tổn thương kín đáo. Sau khi đã nhận ra khối u, kế đến là làm sinh thiết để xét nghiệm tế bào học xem u lành hay u ác tính. Hiện nay bác sĩ không chỉ bằng lòng với việc phân biệt đó. Nếu là u ác tính, ông còn phải nhận định chủng loại, mức độ độc hại (có 3 cấp) và khả năng đáp ứng với những phương cách trị liệu khác nhau. Từ lâu các bác sĩ xem kích thước khối u như là yếu tố chủ yếu của việc tiên liệu. Giờ đây người ta biết rằng những tính chất tế bào học cũng đóng một vai tró quan trọng không kém trong sự tiến triển của khối u. Chẳng hạn như một khối u lớn lại có thể không mấy hung hãn và cho một tiên liệu lạc quan. Thuốc chủng ngừa lao BCG hiện đang có một sức sống mới. Khi được tiêm vào bàng quang, nó sẽ tạo ra một phản ứng miễn nhiễm lâu dài và mạnh mẽ để tiêu diệt các tế bào ung thư tại chỗ và có thể giúp khỏi bệnh. Do vậy người ta đang quan tâm đến phương pháp điều trị miễn nhiễm để trị các khối u xác định. Tuy nhiên, đối với những di căn rải rác trong cơ thể, hiện nay người ta đang thí nghiệm tác động của các chất do những tế bào miễn nhiễm sản sinh ra (interferon, interleukine...) nhưng kết quả vẫn còn rất bấp bênh. Một câu hỏi cơ bản : tại sao các tế bào ung thư không bị hệ miễn nhiễm nhận dạng như kẻ thù để tiêu diệt ? Những vũ khí của tương lai Cách điều trị lý tưởng là tái tạo khả năng... chết của tế bào ung thư mà không phá hủy tế bào bình thường. Do vậy, một trong các vũ khí của ngày mai là liệu pháp gène. Nhưng nhiều loại thuốc mới chống ung thư, chẳng hạn như các chất trích từ lá cây thông đỏ, tỏ ra rất hữu hiệu trong việc điều trị ung thư buồng trứng, ung thư vú và ung thư phổi. Những chất dẫn xuất của camptothécan dường như cũng rất hứa hẹn đối với ung thư kết tràng-trực tràng và ung thư phổi. Sau nữa, nhiều loại thuốc mới đang được nghiên cứu giúp bảo vệ các tế bào máu bằng cách kích thích sự sản sinh ra chúng, điều này cho phép tăng liều lượng của thuốc chống ung thư mà không gây hại cho các tế bào lành. Một trong những chiến lược mới đang được giới y khoa quan tâm là chặn đứng sự hô hấp của tế bào ung thư bằng cách phá hủy các mạch máu nuôi dưỡng khối u. Một khi đã bị cắt đường nuôi dưỡng, khối u sẽ không thể phát triển được. Từ 5 năm nay, các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm 2 chất ức chế mạch máu mạnh mẽ : anti-intégrine và angiostatine. Trên loài vật, chất angiostatine chặn đứng hoàn toàn sự phát triển các mạch máu mới, cả trên khối u cũng như trên những tế bào di căn. Nhiều nhóm nghiên cứu hiện đang tìm cách “kích thích” các lymphô bào. Họ cũng cố chế ngự những kháng thể bằng cách tạo ra các “bản sao” như những tên lửa có đầu đạn tìm mục tiêu. Kháng thể có mang chất chống ung thư sẽ tìm đến cắm vào tế bào ung thư để nhả thuốc ra. Và còn niềm hy vọng về phương pháp trị liệu gène vốn rất nhiều hứa hẹn. Liệu có một chế độ lý tưởng để ngừa ung thư không ? Ngoài nguy cơ từ thuốc lá và rượu, còn có chứng béo phì tạo dễ dàng cho ung thư vú, tử cung, kết tràng hay tuyến tiền liệt. Dùng nhiều trái cây, rau cải và chất xơ sẽ ngừa được ung thư kết tràng và dạ dày. Vai trò của chất béo vẫn còn bị tranh cãi nhiều. Và cuối cùng, những kết quả nghiên cứu về lợi ích của các vitamin hay muối khoáng trong việc phòng ngừa ung thư đã tỏ ra không mấy thuyết phục.
|