Home Đời Sống Tôn Giáo Đức Giáo hoàng Piô XI

Đức Giáo hoàng Piô XI PDF Print E-mail
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Chúa Nhật, 30 Tháng 5 Năm 2010 09:58

Giáo hoàng Piô XI (Tiếng Latinh: Pius XI, tiếng Ý: Pio XI) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma.

Giáo hoàng Piô XI

 
     Đức Giáo hoàng Piô XI
Tên lúc sinh  Ambrogio Damiano Achille Ratti

Tựu nhiệm
  6 tháng 2 năm 1922

Bãi nhiệm  10 tháng 2 năm 1939

Tiền nhiệm  Biển Đức XV

Kế nhiệm  Piô XII

Sinh  31 tháng 5, 1857
Desio, Lombardy-Venetia, đế quốc Áo

Qua đời  10 tháng 2, 1939 (81 tuổi)
Điện  Tông tòa, thành phố Vatican

Giáo hoàng Piô XI (Tiếng Latinh: Pius XI, tiếng Ý: Pio XI) là vị Giáo hoàng thứ 259 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày ngày đắc cử Giáo hoàng là ngày 6 tháng 2 năm 1922, ngày khai mạc chức cụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 12 tháng 2 và kết thúc triều đại của mình vào ngày 10 tháng 2 năm 1939.
Ông đã được giáo hội suy tôn lên hàng chân phước ngày 3 tháng 9 năm 2000. Ông thường được xưng hô là Apostolicus (Giáo hoàng truyền giáo), ông giành lấy quyền chỉ huy tối cao và trực tiếp trong sứ vụ này.
Ông khuyến khích việc giáo dục Kitô giáo, tố cáo những việc làm quá đáng của các chủ nghĩa đương thời. Ông dàn xếp với Mussolini về vấn đề Rôma với việc ký Hiệp ước Latêranô, hình thành Thánh đô Vatican, chống lại chủ nghĩa quốc xã. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu được ông tuyên phong có ảnh hưởng mạnh trong cuộc sống thiêng liêng của ông.

Trở thành linh mục
Giáo hoàng Piô XI tên thật là Ambrogio Damiano Achille Ratti, sinh tại Desio, Milan ngày 31 tháng 5 năm 1857. Ratti sinh ra trong một gia đình các nhà công nghiệp Lombarđi.
Năm 1867, ông vào chủng viện Seveso rồi Monza. Năm 1874, ông vào trường dòng ba Phanxicô.
Năm sau, ông vào đại chủng viện Milanô. Năm 1879, ông nhập vào học viện Lombarđi ở Rôma.
Ông thụ phong linh mục ngày 20 tháng 12 năm 1879 ở Vương cung thánh đường thánh Gioan Latran. Ông đạt được ba bằng tiến sĩ triết, giáo luật và thần học ở học viện Grêgôriô.
Ông trở về với những người dâng mình cho Chúa của thánh Carôlô Borrômêô ít lâu sau khi ông được bổ nhiệm làm người quản đốc thư viện Ambrôsiô, tháng 11 năm 1888. Ông giữ nhiệm sở này cho đến năm 1912.
Các nghiên cứu của ông trong thời gian này quay sang đời sống và công việc của thánh Carôlô Borrômêô, cũng như giáo phận Milanô. Năm 1907, ông làm trưởng thư viện Ambrôsiô, thay thế Antonio Maria Ceriani. Ông thực hiện công việc đổi mới và sắp xếp thư viện xưa. Những việc làm này làm cho công đồng những người thông thái chú ý đến ông.
Năm 1914, Giáo hoàng Biển Đức XV bổ nhiệm ông làm trưởng Thư viện Vatican bên cạnh tu sĩ dòng Tên Franz Ehrle. Tuy nhiên, Ratti vẫn giữ công việc quản thủ thư viện Ambrôsiô.

Ngoại giao tại Ba Lan
Ngày 25 tháng 4 năm 1918, ông làm kinh lý tông tòa ở Varsôvi.
Khi quốc gia Ba Lan được khôi phục lại ông chính thức nhận tước hiệu khâm sứ tòa thánh và thăng chức tổng giám mục Lépante. Ông mang lại kết quả cuối cùng cho những cuộc đàm phán ngoại giao và cho thấy một sự can đảm cá nhân tuyệt vời trong khi Varsôvi bị người Xô Viết vây hãm vào tháng 8 năm 1920.
Sứ mệnh của ông đã phải kết thúc nửa chừng, ông được bổ nhiệm làm cao ủy giáo hội tại Haute-Silésie vùng còn bị bắt phải theo sự trưng cầu dân ý. Tại đây, ông tuân theo những sự chỉ dẫn xuất phát từ hồng y Bertram, tổng giám mục Breslan, ra lệnh cho các giám mục Ba Lan không được quyết định trong cuộc tranh luật, điều này đã làm cho hàng giáo sĩ Đức trở nên dễ dàng trong hành động. Ratti đã bị báo chí Ba Lan tấn công.

Giám mục
Tháng 5 năm 1921, ông được Giáo hoàng Biển Đức XV bổ nhiệm làm tổng giám mục Milan và rồi ngày 13 tháng 6 làm hồng y. Tuy nhiên, nhiệm kỳ giám mục của ông ngắn ngủi (chưa đầy một năm).
Ông cũng đã hoạt động mạnh mẽ nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Là một người có nhiều năng lực trong công việc, ông còn là một nhà thể thao lớn và ham mê leo núi.

Giáo hoàng

Bầu cử
 
  

 
          Đức Giáo hoàng Piô XI
Cuộc bầu Giáo hoàng năm 1922 được coi là cuộc tranh cử giữa hai nhân vật nổi bật trong Giáo triều Rôma: một bên là Hồng y "bảo thủ" Merry del Val cựu tổng trưởng ngoại giao của Cố Giáo hoàng Piô X, bên kia là Hồng y "cấp tiến" Gasparri. Bởi thế, cuộc bầu cử kéo dài 5 ngày.
Sau đợt bỏ phiếu lần thứ 14 (lần bầu lâu nhất thế kỉ 20) mới chọn được Đức Hồng y Achille Ratti - của thành Milan và ông lên làm Giáo hoàng, lấy tông hiệu là Piô XI.
Trong lần bầu cử này, các vị Hồng y Hoa Kỳ không tham dự được vì họ đã không tới Rôma trước 10 ngày khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu diễn ra.

Công cuộc truyền giáo
Giáo hoàng khai triển công cuộc truyền giáo, trong một tinh thần độc lập đối với tất cả mọi thành kiến về chủng tộc hay chính trị. Ông còn được gọi là “Giáo hoàng truyền giáo”, vì ông rất quan tâm đến việc thiết lập chủng viện đào tạo những nhà truyền giáo tương lai.
Vì muốn chiếu cố đến việc xích lại gần với Đông phương Kitô giáo, ông đã nới rộng hết sức Học viện Giáo hoàng Đông phương, thành lập một chủng viện Nga và dễ dãi đối với các phụng vụ Đông phương.
Giáo hoàng Piô XI củng cố vai trò Bộ truyền giáo, tổ chức triển lãm các thành quả truyền giáo (1925), thiết lập ngày Khánh Nhật truyền giáo (chúa nhật thứ ba tháng 10) và đặt thánh Têrêxa Hài Đồng làm bỗn mạng các xứ truyền giáo.
Ông lưu tâm đến Đông Phương: tấn phong giám mục Trung Quốc và giám mục Nhật Bản đầu tiên. Ngày 20 tháng 5 năm 1925, Giáo hoàng Piô XI ban tông thư “Ex Officio Supremo”, tuyên bố lập tòa khâm sứ tòa thánh tại Đông Dương và Xiêm La, trụ sở ở Việt Nam đặt tại Huế. Đồng thời ông cũng cử giám mục Costantino Ayuti làm khâm sứ đầu tiên.
Thông điệp Rerum Ecclesiae 1926 nói rõ lập trường của ông: phải có hàng giáo sĩ địa phương để tự đảm trách Giáo hội mình. Ngoài loan báo đã đến lượt Giáo hội địa phương phải đảm nhận sứ vụ truyền bá phúc âm: “Hiền đệ hãy nhớ rằng việc chính yếu của hiền đệ là đào tạo hàng giáo sĩ bản quốc, bởi vì chỉ vài năm nữa sẽ không còn có thừa sai người Âu ở Á châu nữa”. Ấn Độ có giám mục tiên khởi 1923.
Ngày 28 tháng 10 năm 1926, Giáo hoàng Piô XI đích thân tấn phong sáu giám mục Trung Quốc. và ngày 30 tháng 10 năm 1928, Nhật Bản có giám mục tiên khởi.
Năm 1933, tại Rôma ngày 11 tháng 6, giáo hoàng Piô XI đã tấn phong linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm giám mục tiên khởi của Việt Nam.

Công giáo tiến hành
 
 
 Đức Giáo hoàng Piô XI ngồi bàn làm việc.
Ông là người đã đặt nền tảng cho phong trào Công giáo Tiến hành, phát triển công cuộc truyền giáo độc lập với mọi thành kiến. Ngay từ thông điệp đầu tiên là Ubi arcano Dei (Nước chúa Ky-tô trong lĩnh vực xã hội) ngày 23 tháng 12 năm 1922, ông muốn: “xây dựng một cộng đoàn Kitô hữu mới, khước từ những hình thức thể chế của Chế độ cũ, cố gắng tái tạo những hình thức thể chế trong lòng xã hội hiện đại và chỉ một giáo hội công gióa được Thiên Chúa lập ra, giải thích các chân lý mặc khải, mới có khả năng thăng tiến cộng đoàn đó”. Ông khích lệ việc tông đồ giáo dân và đặt nền tảng cho hoạt động mà sau này đã trở thành phong trào Công giáo tiến hành.

Ông vốn tự nhận là giáo hoàng Công Giáo Tiến Hành, lại đề cao hướng chuyên biệt hóa theo từng thành phần. Khi lập nhóm Công giáo tiến hành ở Ý (1922) ông chia thành bốn ngành nam, nữ, thanh nam, thanh nữ. Trong thông điệp này, ông cũng đưa ra khẩu hiệu “Hòa bình Chúa Ky-tô trong nước Chúa Ky-tô” (Pax Christi in Regno Christi) làm mục tiêu hoạt động của triều đại ông đồng thời cũng cố gắng giải quyết sự mâu thuẫn về mặt thần học giữa “nước trời” và “nước hiện thực”.
Trong một văn thư ngày 29 tháng 4 năm 1922 gửi hội nghị Genova (Ý), giáo hoàng yêu cầu các quốc gia cố gắng thực hiện hòa bình và kêu gọi cứu trợ nước Nga Xô Viết đang lâm nạn đói sau nhiều năm chiến tranh (1914 - 1921).
Trong diễn từ ngày 20 tháng 12 năm 1926, giáo hoàng Piô XI nói:
“ Người Công giáo không được tham gia bất cứ cách nào vào những tổ chức trường phái đặt quyền lợi đảng phái lên trên tôn giáo… Không được phép nâng đỡ, khuyến khích và đọc những tờ báo mà các bài viết tách rời khỏi tín lý và luân lý chúng ta. ”
—Giáo hoàng Piô XI

Năm thánh
Năm Thánh 1925 thời Giáo hoàng Piô XI có thể gọi là "Năm Thánh Hoà Bình" để nói đến bầu khí an lành giữa Giáo Hội và Quốc gia Ý. Do triều đại Piô XI mang đặc điểm truyền giáo được biểu hiện qua việc ông là vị Giáo hoàng đầu tiên tấn phong các vị Giám mục Trung Hoa.
Năm Thánh 1925 cũng có tính cách truyền giáo. Năm Thánh này còn chứng kiến việc tôn phong hiển thánh của Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, Thánh Gioan Vianney, và Thánh Gioan Ơđê. Có khoảng 500.000 người đến Rôma năm này.
Trong cương vị là giáo hoàng ông trở về với truyền thống cổ xưa, bị gián đoạn từ thời Giáo hoàng Piô IX, là ban phép lành cho dân chúng Rôma và thế giới từ ban công của Đền Thánh Phêrô.
Ông đã công bố mở năm thánh 1933. Ðây là một Năm Thánh ngoại lệ. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1932, ông làm mọi người ngạc nhiên khi ông công bố mở Năm Thánh ngoại lệ vào năm 1933 gọi là Năm Thánh Cứu Ðộ để kỷ niệm Chúa Giêsu chịu chết cho nhân loại hầu đem ơn cứu rỗi cách 1900 năm về trước. Có vài thay đổi trong Nghi thức phụng vụ của Năm Thánh này, như việc mở Cửa Thánh được ấn định vào Chúa Nhật Lễ Lá chứ không phải vào Ðêm Vọng Giáng Sinh, và việc đóng Cửa Thánh vào thứ Hai Tuần Thánh năm sau.

Đoàn kết Kytô giáo
Vấn đề đoàn kết Ky-tô giáo, từ 1890 cha Portal dòng Lagiarist cổ động cho việc hợp nhất với Anh giáo. Sau khi Rôma tuyên bố việc phong chức của Anh giáo vô hiệu (1896) và dù bị kết án năm 1908, ông vẫn nỗ lực cổ vũ cho việc hiệp nhất này.
Từ năm 1921 đến năm 1925, hồng y Mercier đứng ra Tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ với Anh giáo tại Malines. Thế nhưng Giáo hoàng Piô XI năm 1928 trong Thông Điệp "Mortalium Animos" mong muốn những Kitô hữu ngoài công giáo Rôma trở về trong vòng giáo hội nhưng lại cấm người tín hữu tham gia các phong trào Tin Lành vì sợ những thay đồi về "chân lý mạc khải". Tuy nhiên, trong Giáo hội, phong trào đại kết thiêng liêng qua việc cầu nguyện vẫn được cổ động tích cực.

Vấn đề Rôma
Xem thêm: Hiệp ước Latêranô
Khi những người Ý, do sự thúc đẩy của các vua miền Piémont và vài tướng lãnh đánh thuê, vào thế kỷ XIX, đã thống nhất Bán Đảo (1861), thì vần đề các Quốc gia Giáo hoàng và Rôma được đặt ra một cách gay gắt trước toàn thể thế giới. Giải pháp bằng vũ lực (các toán quân Ý chiếm Rôma) không bao giờ được chấp nhận bởi các Giáo hoàng Piô IX, Lêô XIII, Piô X và Biển Đức XV. Những vị Giáo hoàng này từ chối công nhận Bộ luật Ý về những Bảo đảm (Loi des Garanties), và tự xem mình là những tù nhân ở Vatican.
Năm 1922, Benito Mussolini đứng đầu chủ nghĩa phát xít tiếp thu nước Ý. Biết rằng cần có sự hỗ trợ của Giáo Hội Công Giáo ở Ý, vào năm 1929 Mussolini đã ký một thỏa ước với Giáo hoàng Piô XI, đem lại sự hòa bình giữa Giáo Hội và chính quyền, nhưng chỉ sau khi ông giao quyền kiểm soát các lãnh địa của giáo hoàng cho Mussolini.
Sau hai năm rưỡi thương thuyết, Hiệp ước Latêranô được ký ngày 11 tháng 2 năm 1929 giữa Giáo hoàng Piô XI và vua nước Ý là Victor-Emmanuel III đã chấm dứt mọi mâu thuẫn giữa Vatican và Quirinal đã kéo dài trên 60 năm. Hiệp ước công nhận quyền tuyệt đối của Giáo hoàng trong quốc gia Vatican, tuyên bố quyền bất khả xâm phạm của ông, cũng như quyền ngoại giao với các nước khác. Hòa ước cũng nhìn nhận Ý dưới triều đại dòng họ Savoie, đóng đô ở Roma.
Quốc gia Vatican nằm gọn trên đồi Vatican với diện tích 440.00m2. Lãnh thổ Vatican còn bao gồm ba vương cung thánh đường Thánh Gioan Latran, Đức Bà Cả, thánh Phao-lô ngoại thành, cùng các công sở, dinh thự của Tòa thành trong thành Phố Roma, biệt thự Castel Gandolfo (cách Roma 30km), viện Bác cổ. Quyền quản trị các hang toại đạo cũng thuộc Tòa thánh. Cùng với Hiệp ước Latêranô còn có một hiệp ước khác với Vương quốc Ý.
Hiệp ước này xác nhận Công giáo là quốc giáo ở Ý, các giám mục có mọi quyền tự do trong lãnh vực tôn giáo, Quốc gia tôn trong luật hôn nhân Công giáo, bảo vệ các tu viện và các trường Công giáo-nhưng cấm các tu sĩ dòng triều tham gia hoặc ủng hộ một đảng phái chính trị-đồng thời bãi bỏ các đạo luật chống Giáo hội.

Đương đầu với chủ nghĩa phát xít
Ngoài hoà ước Latêranô, giáo hoàng Piô XI cũng đã ký 20 thỏa ước (Accords) với các nước châu Âu khác. Thay mặt cho Giáo Hội Công Giáo, ông từ chối hỗ trợ chính phủ phát xít, và đổi lại, chỉ chấp nhận sự độc lập và an toàn trong Thánh đô Vatican.
Năm 1931, Giáo hoàng Piô XI ban hành thông điệp "Chúng tôi không cần" (Non abbiamo bisigno, 29-6), chống những lạm dụng của chủ nghĩa phát xít Ý. Vào năm 1933, ông còn phải ký kết một thỏa ước khác với Adolf Hitler - tân lãnh tụ Ðức Quốc Xã. Một lần nữa, giáo hoàng từ chối bất cứ vai trò chính trị nào của Giáo Hội Công Giáo trong chế độ Hitler và chỉ tìm cách đảm bảo sự tự do và quyền lợi trọn vẹn của người
Công Giáo ở Ðức.
Trước khi chữ ký ráo mực, Hitler bắt đầu đàn áp Giáo Hội Công Giáo và khởi sự chính sách tàn sát Do Thái. Cuối cùng, ngày 14 tháng 3 năm 1937, với thông điệp Mit brennender Sorge (Thông điệp: "Với nỗi lo âu hồi hộp"), ông đã công khai nói về tình trạng của Giáo hội trong Đế quốc Đức (Reich Allmand), ông kết án chủ nghĩa độc chủng, việc bài Do Thái và thần thánh hóa Hitler. Thông điệp này đặc biệt lên án chủ nghĩa quốc xã (nazisme) và phân biệt chủng tộc.
Ngày 6 tháng 9 năm 1938, lấy lại lập trường chống luật bài Do Thái của Ý, ông tuyên bố với một nhóm người hành hương Bỉ câu danh tiếng này: [1]
“ Thông qua Chúa Kitô và trong Đức Kitô, chúng tôi là những hậu duệ tinh thần của Abraham. Về mặt thiêng liêng, chúng ta, những Kitô hữu đều là những người Xê-mít.

—Giáo hoàng Piô XI
Ông cũng ra lệnh cho các trường đại học Công giáo tổ chức giảng dạy chống chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa đề cao 1 chủng tộc. Trong tình hình các Đảng Phát xít đang nắm quyền và đang mạnh tại châu Âu lúc đó, việc ông lên tiếng bênh vực người Do Thái (đang bị áp bức) và chống lại phát xít là một hành động dũng cảm.

Chống cộng sản và lên án chiến tranh
Ngoài là người chống chủ nghĩa phát xít, ông cũng là người chống chủ nghĩa Cộng sản. Ngày 19 tháng 3 năm 1931, Ông ban hành Tông thư Thiên Chúa cứu chuộc (Divini Redemptoris). Đây được coi là nền tảng học thuyết bác bỏ chủ nghĩa Cộng sản. Sự phân tích về Chủ nghĩa Cộng sản của Giáo hoàng Piô XI đã cung cấp cơ sở lý luận cho khuynh hướng chống Cộng sản của học thuyết chính trị - xã hội này của Tòa thánh mãi đến tận những năm trước công đồng Vatican II.
Trong đó, ông đã trách các nhà lãnh đạo các nước tư bản Âu-Mỹ:
“ Nếu các vị lãnh đạo các nước đã không coi rẻ những lời dạy và cảnh giác đầy tình nghĩa mẫu tử của Giáo hội thì làm gì có Chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Nhưng họ lại muốn dựa trên các nền móng của chủ nghĩa tự do và tục hóa để xây dựng những cơ cấu xã hội khác, xem ra tưởng chừng hùng mạnh, vững chắc lắm, nhưng chẳng bao lâu mới thấy cái cơ cấu đó không có nền tảng vững chắc, chúng sụp đổ liên tục một cách thảm hại, như số phận của bất cứ cơ cấu nào không dựa vào hòn đá góc tường duy nhất là Chúa Giêsu Ky-tô. ”
—Giáo hoàng Piô XI
Sau khi viết chín văn kiện chính thức về hiểm họa của chủ thuyết cộng sản. Ngày 19 tháng 3, lễ Thánh Giuse Thợ năm 1937, Giáo hoàng Piô XI nghiêm khắc lên án cộng sản vô thần trong thông điệp Divini Redemptoris (chỉ vài ngày là sau thông điệp Mit brennender Sorge ). Trong đó đánh giá chủ nghĩa Cộng sản không thể dung nạp với văn minh Kitô giáo. Trong thông điệp này ông cũng công khai lên án chiến tranh:
“ Người ta không thể nói rằng như thế là những hiện tượng thoáng qua thường đi kèm theo mọi cuộc cách mạng lớn, những điều quá đáng tách biệt với sự nguy kịch xảy ra trong tất cả mọi chiến tranh là những kết quả tự nhiên của một hệ thống hoàn toàn không có phanh hãm bên trong. ”
—Giáo hoàng Piô XI
Các thông điệp
Thông điệp Quadragesimo Anno (tứ thập niên) ngày 15 tháng 5 năm 1931 nhắc lại và xác định giáo lý xã hội của thông điệp Rerum Novarum của Giáo hoàng Lêô XIII, nhân dịp kỷ niệm 40 năm thông điệp này. Ông đã nới rộng những nhãn giới của thông điệp Tân-sự, ông kêu gọi tái tổ chức trật tự xã hội và kinh tế theo tiêu chuẩn công bằng hợp lý.
Trong đó có đoạn:
“ (…) Nơi một số người chai cứng lương tâm đến mức cho rằng với mọi phương tiện đều tốt nếu nó làm gia tăng lợi nhuận riêng… Chế độ kinh tế mới khởi từ giai đoạn chủ nghĩa duy lý tràn lan, đã tách rời khỏi luật đạo đức và phó mặc tự do cho tham vọng của con người… Vật chất bất động ra khỏi xưởng thợ được trau chuốt nên tốt đẹp, đang khi con người trong đó kiệt quệ và bị hủy diệt. Các chuyên viên trong lãnh vực Khoa Học Xã Hội lớn tiếng kêu mời lập lại trật tự trong sinh hoạt kinh tế sao cho hợp lý. Nhưng trật tự này rõ rệt là không hoàn chỉnh… nếu nó không thể hiện sự thống nhất kì diệu theo chương trình Thiên Chúa… Đó là trật tự hoàn bị mà Giáo hội không ngừng rao giảng và chính lý trí ngay thẳng đòi hỏi. ”
Giáo hoàng Piô XI đã “kiểm điểm” ý tưởng của Thông điệp Tân sự về hành động của Giáo hội trước tình trạng tập trung, nạn thất nghiệp, sự can thiệp của nhà nước, vai trò của công đoàn, quan hệ chủ - thợ, đặc tính cá nhân và xã hội của quyền tư hữu,… và khẳng định thẩm quyền thiêng liêng của Giáo hội khi tham gia giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội nói trên. Như mọi giáo huấn Công Giáo khác về xã hội, các giá trị của Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm được coi là tiêu chuẩn tối cao để thẩm định và phê phán các nguyên tắc và hệ thống kinh tế và chính trị. Phong trào Công Giáo Tiến Hành tiếp tục được khích lệ như một phương cách để thấm nhập giá trị phúc âm vào thế giới. Giáo Hoàng tiếp tục nhấn mạnh rằng “con đường duy nhất để có hòa bình và hạnh phúc là qua sự trị vì của Ðức Kitô, Vua của tất cả nhân loại”.
Về việc thánh hóa môi trường, Giáo hoàng Piô XI nói:
“ (…) Để đưa trọn vẹn những giai cấp khác nhau này về với Chúa Kitô, cần phải chọn lựa và huấn luyện ngay trong lòng những giai cấp này các trợ tá cho việc mục vụ Giáo hội, những trợ tá hiểu được giai cấp mình, biết những khát vọng và biết nói vào tâm hồn họ trong tinh thần bác ái, dịu hiền và huynh đệ. Những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của công nhân phải là những công nhân, những tông đồ của thế giới kỹ nghệ và thương mại phải là những người xuất thân từ môi trường này. ”
—Giáo hoàng Piô XI
Thông điệp Diviniillius magistri khuyến khích việc giáo dục Kitô giáo, Casti connubi (1930) nhắc lại lý tưởng tôn giáo của hôn nhân và xác định rõ ràng mối quan hệ vợ chồng.

Qua đời
 
 
                     Quách của Đức Giáo hoàng Piô XI.
Năm 1939, Giáo hoàng Piô XI qua đời sau khi đã cố gắng vô ích để cứu vãn hòa bình chống lại những mưu toan bành trướng của chủ nghĩa quốc xã.
Ông đã tiến hành nhiều sự phong thánh trong đó có thánh Bernađét Subiru, Gioan Boscô, Têrêsa Lisieux và Gioan Vianê. Ông cũng nêu tên bốn tiến sĩ mới của giáo hội: Phêrô Canisiô, Gioan Thánh giá, Rôbertô Bellarmin và Albertô Cả.