Home Đời Sống Tôn Giáo Trở Về Nguồn

Trở Về Nguồn PDF Print E-mail
Tác Giả: Rev. Nguyễn Quốc Hải, Ph.D.   
Thứ Bảy, 13 Tháng 3 Năm 2010 22:46

Trở về nguồn, tìm lại những gía trị tuyệt chân thực mang ơn Cứu Rỗi khởi nguyên từ Thiên Chúa!

Một Nhu Cầu Khẩn Thiết

Một thoáng nhìn qua trang lịch sử thế kỷ hai mươi, chúng ta có cảm giác cơ hồ vừa thoát khỏi những cơn ác mộng! Nhân loại như đã trút khỏi gánh nặng âu lo,  thấy lòng nhẹ nhỏm vừa trốn thoát một tai kiếp kéo dài cả trăm năm!Cảm tạ Thiên Chúa vì chúng ta đã sống  qua những tai ách còn tồn tại đến hôm nay! Chúng ta mầng vui như những người thắng trận trở về từ vùng chiến địa. Những trận thế chiến tuy nay đã không còn, nhưng cơn ác mộng chắc mãi còn theo con người ta đi vào những ngày tháng mới, nhất là khi những ác mộng được gieo sâu trong lòng cuộc sống như những chủng tử được trồng cấy, sẽ tạo nên những qủa báo trong tương lai. Theo thuyết nhân qủa, nếu đã tạo nên nhân, thì chắc chắn sẽ có qủa. Lời Kinh Thánh  dạy:“Ai gieo gío chắc sẽ gặt bão".

Trong thế kỷ thứ hai mươi, con người đã gieo vô số những chủng tử độc ác ghê gớm, chắc chắn sớm muộn gì cũng phải gặt hái những hậu quả tai hại khôn lường của chúng!

Làm sao tránh khỏi những qủa báo của  một qúa khứ nhiều đa đoan ngang trái?
Chỉ còn một phương thế duy nhất là việc trở về nguồn.
Trở về nguồn, tìm lại những gía trị tuyệt chân thực mang ơn Cứu Rỗi khởi nguyên từ Thiên Chúa!

Trước khi bước vào ngưỡng cữa của tôn giáo mặc khải, ta hãy dừng lại một thoáng suy tư về Đạo Minh Triết Đông Phương. Từ cổ xưa nhà hiền triết Lão-Tử nhìn nhận sự khẩn thiết phải quay trở về với cội ngườn của vạn vật! Theo triết của Lão-Trang, mọi vận hành của vũ trụ nhiên giới cũng như lịch sử và văn minh loài người đều phát xuất từ một nguồn duy nhất : đó là "Đạo". Vạn vật trong vũ trụ trải qua một qúa trình phát triển , tiến hóa phức tãp, nhưng muốn giữ vững sự sinh tồn, vũ trụ phải tìm đươc thế quân bình, muốn giữ được thế quân bình ấy, vạn vật cần thiết phải quay về nguồn. Đó cũng là qúa sinh thiết yếu của Đạo. Qúa trình đó hệ tại ở hai động tác: ra đi và quay trở về đều mà Lão-Tử cho là cái dụng của Đạo. Sách Đạo-Đức-Kinh, chương 40 minh xác định luật tiên quyết ấy của vũ trũ như sau: "Phản gỉa Đạo chi động", nghĩa là: trở lại là cái động của Đạo. Đây chính là điểm chủ yếu then chốt của Lão học. Cái động của Đạo không phải là đi ra ngoài, nhưng là trở về bên trong, trở vào trong, tức là trở về với cội nguồn. Theo triết thuyết của Lão-Tử, muôn vật muôn loài là do Đạo phát sinh và điều hợp. Muốn đi đúng đường lối của Đạo, muôn vật muôn loài phải trở về huyền đồng với Đạo. Đạo không những là nguồn gốc, giếng mối trong tương quan nhân qủa, mà còn là Mẹ nuôi dưỡng muôn loài, muốn có sự sống trung thực, trở về với Mẹ là nhu cầu khẩn thiết, ông viết:" Thiên hạ ữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu, ký đắc kỳ ẫu, dĩ tri kỳ tử, ký tri kỳ tử, phục thủ kỳ mẫu, một thân bất đãi (chương 52) nghĩa là “thiên hạ có nguồn gốc, dùng làm Mẹ của thiên hạ, hễ giữ được Mẹ thì biết được con, đã biết được con , trở về với Mẹ, thân đến chết không nguy”( Đạo Đức Kinh, chương 52)

Trở Về Nguồn Đạo Minh Triết

Một nhân tố quan trọng trong triết thuyết Lão-Tữ, và đồng thời cũng là phương diện tích cực nhất xây dựng triết lý đó là giáo thuyết vế Đạo. Trong giáo thuyết nấy. Lão-Tữ đã phát triển một Quan-Niệm chưa từng được biết tới trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa, và quan niệm nẩy được Lão-Tữ dùng làm tiêu chuẩn cho con người cũng như vạn sự vạn vật. Theo nguyên ngữ, thì chữ Đạo được ghép lại bởi hai yếu tố, yếu tố thứ nhất gọi là thủ, tức là đầu, còn yếu tố thứ  hai gọi là xích, tức là chân bước đi, Trong khi yếu tố thủ là đầu, cũng có nghĩa là phương pháp, nguyên tắc, nguyên lý, chân lý, một  thực tại, một sự hiểu biết về chân lý hay một nguyên tắc chân chính. Ý nghĩa của xích là bước đi, hay sự thực hành chân lý mà thủ (đấu) đã đã lãnh hội được. Thủ và xích ghép lại hợp thành vả đọc là Đạo, tức là con đường đi, lối mòn trên đó người ta qua lại. Vậy Đạo là con Đường để người ta đi, để qua lại, để giao thông. Đường đưa ta đi từ noi nầy dến nơi khác, lả nhịp cầu nối ta giữa hai điểm A và B, không có con Đường, ta không biết lối mà đi, và cũng không biết đi về đâu.

 Về phương diện triết sử, chữ Đạo là ý niệm chủ chốt của các trường phái triết học cổ thời Trung Hoa, các triết gia Trung Hoa khi bàn đến mục đích tối  hậu của triết lý nhân sinh đều bàn đến Đạo như con đường tối hậu dùng đưa đến cứu cánh luân lý đạo đức. Theo truyền thống, khi chữ Đạo dùng như một danh từ, thì có nghĩa là đường đi hay lối mòn người ta thường dùng trong việc giao thông. Khi chữ Đạo dùng như một động từ thì có nghĩa là chỉ đạo, hướng dẫn kẻ khác, hoặc thiết lập mối tương giao giữa hai người. Khi một nhân vật hướng dẫn một người khác bằng cách chỉ cho họ con đường phải theo, thì chữ Đạo có thể hiểu là khải đạo, bày đường chỉ lối, hoặc nói với, bày tỏ, chỉ vẽ, khuyên dạy, chỉ bảo… Và trong ý nghĩa đó, giáo huấn dạy dỗ. Chữ Đạo cũng còn có ý nghĩa là giáo thuyết (doctrine). Nhưng trên hết, khi chữ Đạo gợi ý là con đường phải theo, nó còn mang một nghĩa sự hướng dẫn  về luân lý đạo đức, hay qui luật của hành vi nhân sinh.

 Trước khi bước vào cách sử dụng và ý nghĩa theo truyền thống Khổng giáo về Đạo, chúng ta cần xác nhận rằng chữ Đạo có nhiều ý nghĩa khác nhau và được truyền thống triết lý đạo học huyền bí học. Đạo ám chỉ một nghệ thuật thiết lập sự tương- giao, sự thông truyền giữa Trời và Đất, giữa thần linh và con người, cũng như giữa con người với con người.

 Trong chiều hướng nầy, Đạo có nghĩa là một nghệ thuật, một phương thức, một quyền lực như quyền lực của nhà tiên tri, của phù thủy và của vua chúa…Tại Trung Hoa, cũng như ở nhiều quốc gia khác,, cũng có thời kỳ trong đó sự phân biệt giữa phù thủy và người cai trị thật là khó. Ngay cả trong thời kỳ  có lịch sử được biên soạn, nhiều vị đế vương Trung Hoa còn muốn giữ uy thế bằng cách tạo ra nhiều huyền thoại về chính mình như là những bậc thần linh có quyền lực phi thường, vì có trình độ đạo đức cao vời đến nỗi họ có ảnh hưởng, chẳng những trên các thần dân mà thôi, mà còn ảnh hưởng trên thiên nhiên nữa.

 Để thấu triệt mối tương quan giữa những khái niệm về Con Đường và trật tự trong tư tưởng tôn giáo cổ truyền Trung Hoa, chúng ta nên nhìn lại các huyền thoại, chẳng hạn như huyền thoại thời danh về Vua Vũ là vị anh hung lừng danh, Người đã cứu Trung Hoa khỏi cơn lụt kinh khủng, ông đã triệt hạ làn nước ghê gớm hòng tràn ngập lút đến tầng trời, bằng cách mở đường(đạo) cho nước chảy qua núi đồi. Vũ Vương đã thăm viếng và đặt nước vào trật tự (Đạo) của chúng trong chín tỉnh lớn của thế giới (con số huyền thoại). Ông chăm lo tưới nhuần trái đất, làm cho con người có nơi sinh sống bằng cách kiểm soát sự lưu chảy của các dòng sông, đồng thời thiết lập mối tương thông giữa các miền của trái đất. Chính nhờ sự lam lũ vất vả của Vũ Vương được sự  trợ giúp của con vật lạ lùng, nhờ nhân đức cua Vua Vũ.

 Qua huyền thoại trên đây, chúng ta hiểu chữ Đạo, một cách nào đó hàm chỉ một quyền lực vị vương giả đặc biệt, hoặc quyền lực của các bậc vua chúa, cũng thỉnh thoảng nhờ các lễ bái mà vãn hồi được quyền lực thiên nhiên… một trong các lễ bái quan trọng đó là lễ bái Thiên- Địa…Hoàng Đế, Sau khi đi kinh lý trong khắp lãnh thổ, thì hằng năm, vào thời giờ được ấn định, Ngài đi chung quanh điện thờ mà lối kiến trúc bắt chước cách thức của vũ trụ.

 Trong thực tế, suốt đời của Thiên Tử, phải điều hành mọi sự theo luật lệ của thiên nhiên, vì thế đường lối cai trị của Ngài được gọi lả Vương Đạo, nghĩa là bắt chước theo Thiên-Đạo. Trật tự  của Trời, hay của Thiên Nhiên cũng gọi là Đạo vậy. Thiên-Đạo, Đạo tự nhiên, nói cách thật đơn giản là Đạo, theo cách suy tư của truyền thống, Đạo tự nhiên được quan sát qua sự tuần hoàn đều đặn của vũ trụ nhiên giới, của sự đắp điếm đổi thay từ ngày sang đêm, của sáng tối, nóng lạnh, của sự tuần hoàn hai nguyên lý âm dương, của sự luân phiên thay đổi không ngừng, của các cặp mâu - thuẫn, đối - ngẫu song trùng vô hạn như sóng vỗ nơi trùng dương vời vợi.

 Trong tư tưởng tôn giáo và triết học truyền thống, Đạo có nghĩa là Trật-tự, hoặc nguyên lý của trật tự được thể hiện  trong nhiều lãnh vực khác nhau của cuộc đời thực tế. Đạo, vì thế, không những so sánh với Thiên Đạo hay Hoàng Đạo,nhưng còn dược áp dụng trong Nhân đạo và Địa Đạo nữa. Địa Đạo được coi như đối đãi với Thiên Đạo như kiểu Âm đối đãi với Dương, và trong mạch văn ấy, Thiên Đạo được hiểu trong một ý nghĩa có giới hạn nào đó, chẳng hạn như khi chúng ta bàn đến định luật của các hành tinh trên trời v.v…

  Sự đắp đổi, ảnh hưởng liên hoàn có tính cách dịch lý của hai nguyên lý đối đãi Âm Dương cho chúng ta cái nhìn về sự ảnh  hưởng liên đới giữa Thiên- Đạo và Địa- Đạo, giữa Đất với Trời.

 Cũng trong cái nhìn của Triết lý truyền thống, vạn sự vạn vật, và ngay cả con người, tất cả đều được kết cấu bởi những nhân tố thuộc cả Thiên lẫn Địa. Vì thế chúng ta hiểu tại sao người xưa cho vũ trụ là một kết hợp tuyệt vời của Tam-Tài: Thiên-Địa-Nhân, và cũng vì thế, con người được coi như vị trung gian quan trọng đứng giữa Trời và Đất, đặc biệt chỉ có Đấng Thiên- Tử (Hoàng Đế) mới xứng với danh từ trung gian ấy thôi… Trung gian giữa Đất-Trời chính lả Đạo, biểu tượng cho lý tưởng cao đẹp của Đức Khổng-Tử, người quả quyết với các môn đệ rằng: “Ai nghe được Đạo buổi sáng, có thể chết an- lành vào buổi chiều” (LN XXX). Trong Khổng –giáo, cái lý tưởng cao đẹp đó con người có thể đạt được qua sự chăm chỉ nghiên cứu học tập, và nhờ vào lòng chân thành thực thi các đức tính tốt như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín…

 Vậy Nhân- Đạo hay Đạo của con người bao gồm tất cả các nguyên tắc hướng dẫn đời sống, giúp cho con người, trong cá nhân của vị Thiên tử, đóng đúng vai trò trung gian giữa hai cõi Đất-Trời. Tuy nhiên, Thiên-Đạo là đề tài vô cùng tế vi huyền diệu mà các bậc Thầy trong cổ thời không dám bàn tới. Sau này, các môn đổ của Đức Khổng đã thêm vào trong danh sách Ngũ-Kinh, tuyển tập các bài giảng giải gọi là Dịch Kinh, nói về những biến hóa trong vũ trụ. Tuyển tập được gọi là Kỳ-Thư, hàm chứa tất cả nguyên lý sinh thành vũ trụ con người,k nghĩa là gồm đủ các bộ môn như triết lý, khoa học, y-học, thiên văn, địa dư, lịch sử, siêu hình tâm lý của Trung Hoa. Cuốn triết thuyết Trung Hoa bắt đầu nơi cuốn kỳ- thư nầy. Kinh Dịch là một tuyển tập của những đồ hình, những biểu tượng và ký hiệu vạch thẳng chỉ khí Dương, và vạch dứt chỉ khí Âm. Hai lẻ Âm- dương ấy, Kinh- Dịch gọi là Lưỡng Nghi, Lưỡng-Nghi sinh ra Tứ -Tượng là Thiếu-Dương, Thái Dương, Thiếu-Âm, Thái- Âm, Tứ-Tượng sinh ra Bát-Quái là Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Khi những vạch thẳng, hay vạch đứt hợp lại với nhau thành từng nhóm cứ ba hình một, chúng ta sẽ có 8 hình, nhóm 3, nghĩa là chúng ta có trọn vẹn một Đồ-Hình Bát-Quái lý tưởng.

 Theo huyền thoại, thì Phục – Hi vẽ nên Bát-Quái, Văn-Vương lập 64 quẻ, Chu-Công viết 380 hào, còn Đức Khổng-Tử viết Thập-Dực để bổ sung cho Kinh Dịch.

 Nói theo ngôn từ Dịch Kinh, những vạch thẳng, tượng trưng cho cứng, mạnh gọi là khảm, những vạch đứt đoạn tượng trưng cho sự mềm, yếu gọi là Khôn. Theo từ ngữ thông thường, thì vạch thẳng gọi là Dương, còn những vạch đứt đoạn được gọi là Âm, Thái cực, Âm-Dương, Lưỡng-Nghi, Tứ-Tượng, lả những yếu tố căn cơ, nền tảng cho mọi biến dịch trong toàn cõi vũ hoàn.

 Nói khác đi, đó là nền tảng của mọi vận chuyển của Thiên-Đạo, Với Lão-Tử, lần đầu tiên trong lịch sử, chữ Đạo nao hàm một ý nghĩa siêu hình, Đạo là Mẹ, là tổ phụ của muôn loài hiện hữu giữa trời và đất.

 Nền văn hóa và truyền thống Trung Hoa sẽ khác biệt, nếu như sách Đạo-Đức-Kinh của Lão Tử đã không ra đời. Và cho dầu ảnh hưởng của Khổng giáo, một hệ thống tư tưởng then chốt, ngay cả Phật giáo nữa, cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của Lão giáo. Học giả Trung Hoa Wing-Tsit-Chan, trong cuốn sách thời danh “The Way of Lao Tzu”, đã  khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: “Không ai có thể hiểu biết một cách thấu đáo triết lý, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, y-hocr5, và ngay cả cách nấu ăn Trung- Hoa, mà không chịu ảnh hưởng ít nhiều về tư tưởng triết lý mà sách Đạo Đức Kinh mang lại” (Wing-Tsit-Chan, the Way of Lao-Ztu, Page 3). Quả thật, trong khi mà Khổng học chú trọng vào cơ cấu xã  hội và sự sinh hoạt tích cực, thì Lão học lại chú trọng đến đời sống cá nhân và sự êm đềm hiền hòa của cuộc sống như lối đi êm ái của thiên nhiên. Lão học dùng cái không hòa đồng để chống chọi với cái hòa đồng của Khổng giáo, dùng cái tinh thần siêu việt chống với cái thuận theo dòng đời của Khổng học. Nói tóm tắt, Lão giáo là gương cho Khổng học nhìn vào để tự kiểm điểm. Nhìn vào  học thuyết của Lão-Tử đối với chính quyền, về cách chăm lo và bảo vệ cuộc nhân sinh, thì Lão học ngang hàng với Lão giáo.

  Từ thời cổ đại Trung Hoa, đã có nhiều trường phái dạy về Đạo, chỉ có Lão học lấy tên Đạo đặt tên cho trường phái của mình, và có một ảnh hưởng thật thâm sâu trong đời sống người dân hơn các trường phái khác. Khổng giáo vá Phật giáo có ảnh hưởng trên hai mươi thế kỷ vừa qua, Lão học không thua gì hai triết thuyết trên, mà còn trở nên một phần quan yếu hay nói khác đi, lả một phần cốt tủy của nền văn minh Trung - Hoa.

 Với câu hỏi làm sao phong trào Lão-Trang lại trở nên mạnh mẽ và đặc thù trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa, mà vẩn còn được bao quanh bằng huyền thoại, bí nhiệm? Còn nhiều câu hỏi khác chẳng hạn về nguồn gốc lịch sử của Lão-học, về tên tuổi và thân thế của vị sang lập ra Lão-giáo, về nền tảng lý thuyết căn cơ của Đạo Đức-Kinh vẫn còn là đối tượng cho các cuộc tranh luận và tham khảo. Cuộc tranh luận còn tiếp diễn chẳng hạn phải chăng Lão Tử sống vào Kỷ nguyên thứ sáu hoặc thứ tư trước Tây Lịch? Phải chăng Đạo-Đức-Kinh do Lão-Tử viết, là sản phẩm của thời Xuân-Thu (722-481 B.C). Hay là sản phẩm của thời Chiến quốc (403-222 B.C)? Có một điều chắc chắn là cái tên “trường phái Lão-Trang” tuy chưa được nhắc đến trong kỷ nguyên thứ nhất trước công nguyên, nhưng phong trào Lão-học trong dân gian đã được lưu truyền tử nhiều thế kỷ. Truyền thống cho rằng các trường phái triết học thường có xuất xứ từ các cơ quan của triều chính, chỉ có Lão  học có xuất xứ từ một vị quan chuyên về viết sử cho triều đình nhà Châu. Điều đó có nghĩa là Lão học được phát sinh như một sự trả lời cho một nhu cầu của một hòan cảnh lịch sử đặc biệt, nghĩa là: “Lão-Tử viết ra Đạo-Đức-Kinh là để trả lời quan lệnh Doãn-Hy xin ông để lại cho đời một cái gì hữu dụng (Nguyễn Duy Cần, Lão Tử Tinh Hoa trang 16). Khác với các triết gia cổ Hy Lạp chiêm ngắm Vũ trụ hay các triết gia Ấn Độ chiêm niệm về Tinh Thần, các triết gia Trung-Hoa, Khổng-Học hay Lão giáo, được khai sinh do một hoàn cảnh đặc biệt của thời đại.

 Khổng-Tử ra đời (554-479 B.C), vào thời nhà Chu mạt, thời các Dế Vương mạt vận, thời Phong kiến vô kỷ cương, thời các vua chư hầu lủng đoạn, mưu mô chém giết, dành giật quyền bính biết bao trận binh đao đẫm máu đã xảy ra (ví dụ như Tần-Sở tranh chấp nhau về cương giới). Thời Khổng Tử cũng chính là thời Ngô, Việt tranh nhau, là thời Lạp-Lư(514-496), Phù Sai(495-473) và Câu-Tiễn (496-465) tranh chấp.

 Vào thời mà các vua phía cực Nan lợi dụng địa thế xa xôi hiểm trở xưng vương xưng đế, và cũng vì thế mà các nước chư hầu không còn thần phục quyền của triều đình nữa. Sau cùng, đời Chu mạt là thời mà luân thường đạo lý đảo lộn, vua chẳng ra Vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, an hem không còn sống trong nghĩa tình huynh đệ như xưa, người ta sống trong thác loạn ăn chơi thỏa mãn, con người sống không còn lý tưởng cao đẹp nữa, cảnh chém giết trộm cướp phạm pháp như trò đùa trong xã hội. Một xã hội sụp đổ, mọi cơ chế tốt đẹp xa xưa không còn, tất cả đều tan vỡ đổ nát của cơ chế cũ, vả đòi  hỏi sự xây dựng một kiến trúc mới cho tương lai. Lão-Tử, với học thuyết Đạo-giáo của Ngài muốn làm cả hai công việc trên: phá cái cơ chế cũ và thiết lập một cái gì mới cho con người đương thời.

 Đứng về phương diện tiêu cực, Lão-Tử nghiêm nghị phê phán những cơ cấu chính trị và phong hóa xã hội thời đó như sau:

Dân chi cơ                  
Dĩ kỳ thượng thuế chi đa.
Thị dĩ cơ.
Dĩ kỳ thượng chi hữu vi.
Thị dĩ nan trị.
Dân chi khinh tử.
Dĩ kỳ cầu sanh chi hâu.
Thị dĩ khinh tử.
Phù duy vô dĩ sanh vị giả.
Thị hiền ư quý sanh. (Đ. Đ. K.ch. 75)

(Dân mà đói, là vì trên bắt thuế nhiều, nên mới đói. Dân mà khó trị, là vì trên dùng đạo “hữu-vi” nên mới khó trị. Dân mà khinh chết, là vì trọng cầu sự sống,, nên mới khinh chết. Kẻ nào không làm gì cả để sống, ngoan hơn kẻ có làm để sống).

Bậc trị dân mà như thế, tức là tự rước lấy sự đổ vỡ cho chính mình.(Chương 9), triết gia khuyên người trị dân như sau:

“Trì Nhi doanh chi,
Bất nhi chuyết chi,
Bất khả trường bảo,
Kim ngọc mãn đường,
Mặc chi năng thủ,
Phú quý nhi kiêu,
Tụ di kỳ cữu.
Công toại thân thối.
Thiên chi đạo” (Đ.Đ.K. ch.9)

(Ôm giữ chậu dầy, chẳng bằng thôi đi, Dùng dao sắc bén không bền được lâu, vàng ngọc đầy nhà khó mà giữ lâu. Giàu sang mà kiêu tự vời họa ưu, nên việc, lui thân, Đó là Đạo Trờ).

Nơi khác Ông chỉ trích người lãnh đạo thiếu khôn ngoan:
     Thiên hạ đa kỵ húy,
     Nhi dân di bần,
     Dân đa lợi khí.
     Quốc gia tư hôn.
     Nhơn đa kỹ xão,
     Kỳ vật tư khởi,
     Pháp lệnh tư chương.
     Đạo tặc đa hữu” (Đ.Đ.K. ch.57)

(Thiên hạ nhiều kiêng kỵ, thì dân chúng càng nghèo, nhân dân nhiều lợi khí, nước nhả càng tối tăm, người nghèo nhiều tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng sinh nhiều).

     Dân bất úy tử,
     Nại hà dĩ tử cụ chi?
     Nhược sử dân thường úy tử.
     Nhi vì kỳ giả,
     Ngô đắc chấp nhi sát chi,
     Thục cảm?
     Thường hữu tư sát giả sát,
     Phù đại tư sat1 giả sát,
     Thị vị đại đại tượng trác,
     Phù đại đại tượng trác gia.
     Hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ. (Đ.Đ.K. ch 74).

(Trong những chế độ hà khắc hay dùng cực hình mà đe dọa dân chúng, hằng ngày phải sống trong sợ hãi, thét rồi họ không còn sợ chết nữa. Khi mà dân không còn sợ chết nữa thì lấy gì dùng mà dọa họ? dùng cái chết mà dọa họ nữa chăng? Có ích gì? Hãy để cái sự giết chóc cho Đấng tư sát, tức là Trời)

 Lão –Tử kết luận, chiến tranh giết choc là dấu của sự thoái hóa của con người vậy. Theo Ngài, con người có sự mệnh làm cho Đạo sang tỏ trong thiên hạ, đó là con đường tốt nhất để tránh tai ương hoạn nạn cho kiếp người. Nơi chương 46, Ngài viết:
     
Thiên hạ hữu Đạo,
     Khước tẩu mã dĩ phẩn,
     Thiên hạ vô Đạo
     Nhung mã sanh ư giao
     Họa mạc đại ư bất tri túc:
     Cữu mạc đại ư dục dắc,
     Tri túc chi túc,
     Thường túc hĩ. (Đ.Đ.K. ch. 46)

(Khi con người có Đạo, thì ngựa phun phân ruộng. Khi con người vô đạo, thì ngựa chiến nuôi ngoài thành. Không họa nào lớn bằng họa không biết đủ. Không họa nào to bằng họa muốn được. Bởi vậy, biết đủ trong cái đủ mới luôn luôn đủ)

 Suốt dọc giòng lịch sử, đã có biết bao nhiêu lý thuyết ra đời nhằm cứu nhân độ thế, biết bao nhiêu học thuyết ra đời như chủ thuyết nhân, nghĩa, lễ v.v… nhằm cứu con người, nhưng theo Lão Tử, đó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là dấu hiệu, hiện tượng của những hỗn loạn mà thôi. Nơi chương 38 và 18, Ngài viết:
     
Phù Lễ giả,
     Trung tín chi bạc,
     Nhi loạn chi thủ. (Đ.Đ.K ch. 38)

Lễ chỉ là cái vỏ của lòng trung tín, mà cũng là đầu mối của hỗn loạn.
     
Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa.
     Huệ trí xuất, hữu daị ngụy, (Đ.Đ.K. ch 18)
     (Đạo lớn mất, mới có nhân nghĩa
     Trí Huệ sanh, mới có dối trá).
   
Vì thế Ngài khuyến cáo con người:
     
Tuyệt thánh khí trí,
Dân lợi bách bội,
Tuyệt nhân khí nghĩa   
Dân phục hiếu từ,
Tuyệt xảo khí lợi,
Đạo tặc vô hữu.
Nghĩa lả:
     Dứt thánh bỏ trí,
     Dân lợi trăm phần,
     Dứt nhân bỏ nghĩa,
     Dân lại thảo lành.
     Dứt xảo bỏ lợi,
     Trộm cướp không có. (Đ.Đ.K ch 19)
 
Những đoạn văn trích dẫn trên đây từ cuốn sách triết lý cổ xưa của vị thánh hiền, ngôn  từ thấm đượm mầu triết lý huyền học, nói về tương quan giữa vũ trụ nhiên giới và cũng như lịch sử văn minh loài người. Tuy vậy, chúng ta có thể tìm được sự ứng dụng tuyệt vời trong lãnh vực luân lý đạo đức và đặc biệt trong đời sống tâm linh.

 Nêú hỏi rằng tại sao có những sự lệch đường lịch sử của các nhà lãnh đạo chính trị, tại sao có những sự lầm đường lạc bước của con người trong lãnh vực tâm linh, luân lý đạo đức?

 Câu trả lời tất nhiên là vì mất gốc, sự lạc xa nguồn, xa ánh sang chân lý. Khi con người mất gốc tức vong bản, chính sự vong bản sẽ đưa đến vong thân tức là đánh mất chính mình, trở nên xa lạ đối với chính mình. Bất ổn, bất an, xao xuyến âu lo chính là đây: đi ra mà không trở về, có khởi nguyên mà thiếu huyền đồng tức là trở lại với cội nguồn.

 Lý thuyết huyền đồng trở về với cội nguồn của hiền triết Lão-Tử đã hội ngộ trùng phùng với giáo huấn của các thánh giáo phụ trong giáo hội công giáo.

 Các Thánh giáo phụ đã tóm kết mầu nhiệm Đạo-Thánh Chúa qua hai mệnh đề ngắn gọn dễ hiểu nầy:

     Exitus a Deo,
     Reditus ad Deum
     Mọi sự khởi nguyên từ Thiên Chúa,
     Cuối cùng sẽ trở về với Thiên Chúa.

Trở Về Với Thiên Chúa, Nguồn Ơn Cứu Rỗi

Nhu cầu của con người là Trở Về với Thiên Chúa, Nguồn Ơn Cứu-Rỗi không phải là một điều mới lạ, nhưng là một giáo thuyết căn bản, chiếm một địa vị tôn quí và ưu  thế trong Kinh Thánh. Theo mặc khải Kinh Thánh, Thiên Chúa là suối nguồn yêu thương, chính bởi tình yêu mà Ngài đã tạo nên vũ trụ và con người để thông truyền, chia sẻ hạnh phúc và mời gọi con người sống trong tình thân thiện vói Ngài. Nhưng Thiên CHúa đã và không luôn luôn thành công, bởi vì con người tội lỗi, đã xử dụng tự do sai quấy, chống đối và làm lệch chương trình tình yêu thương của Thiên Chúa.

 Toàn bộ Kinh Thánh Cựu-Ước được coi như chứng từ của một tấn thảm kịch siêu hình, trong đó, Thiên Chúa là vị Cha luôn tìm cách để thi thố tình yêu thương và ban ân  huệ cho dân Ngài tuyển chọn, nhưng dân Ngài đã bội phản, đã khước từ và đánh mất Thần Linh. Việc con người khước từ Thần-Linh được khởi đầu bằng sự hiện kiện Adam Evà, nguyên tổ loài người, bất phục tòng mệnh lệnh của Thiên Chúa, dám đưa tay lên hái trái cấm để rồi bị đuổi ra khỏi Vườn Diệu-Quang, đi lang thanh vô định khởi nguyên cho cả một nhân loại lầm than khốn khổ từ đây.

 Tiếp đến là sự bội ước, thất tín của dân Isael, đã quên đi những dấy thần kỳ phép lạ Chúa đã làm trong lịch sử cho dân tộc họ. Sau khi được giải phóng khỏi vùng đất tù đày nô lệ, đi vào Miền Đất-Hứa phong phú màu mỡ, dân Chúa đã mê theo thần lạ và lối sống sa đọa, phế bỏ giao ước và lề luật của Thiên Chúa.

 Cũng như nguyên tổ loài Người, vì bất phục tùng, khước từ giới lệnh của Thiên Chúa đã phải hứng lấy những hệ luận tai hại thế nào, dân Chúa cũng phải gánh chịu những hậu quả ghê gớm do hành vi phản bội của họ. Đất nước của họ bị kẻ thù xâm chiếm, dân chúng bị phát vãng lưu đày, cuộc sống của họ và con cháu ngấn dài giòng suối lệ khổ đau tủi nhục miên trường.

 Nhưng tình yêu thương và lòng từ bi của Thiên Chúa đã không chịu thua tội lỗi và sự vô ơn của loài người. Ngài đã gọi và mãi mãi tiếp tục mời gọi những con người tội lỗi trở về nối lại tình thân hữu với Ngài.

 Xuyên qua lịch sử Dân Chúa, nhất là qua lời các tiên tri, tiếng gọi Trở Về Nguồn, trở về với Đức Yahvê (Am 5,4), trở về nhận diện lại Nhan Thanh Chúa Trời (Ho 5,15; Ps 24,6), trờ về xưng thú tội lỗi, tỏ lòng thống hối ăn năn để xin Ơn Tha Thứ nơi Thiên Chúa khoan nhân. (1k 21, 24; 2 K 22, 19), trở về với cội nguồn Chân Thiện Mỹ, bằng canh tân cuộc sống cho phù hợp với luật thánh thiện của Thiên Chúa, được coi như sứ điệp quan trọng vang vọng trong lòng những ai tin kính Thiên Chúa.

Trở Về Nguồn, Chứng Từ Các Vị Ngôn Sứ

 Lời kêu gọi Dân Chúa Trở Về qua sứ điệp các Đấng Tiên Tri có một truyền thống lâu đời trong lịch sử Dân Chúa, mà sự khiện minh nhiên nhất có lẽ là biến cố tội lỗi của vua David và sự can thiệp của tiên tri Nathan. Theo sách Samuel quyển II, David, một vị vua tài ba đạo hạnh, được Thiên Chúa Yahvê chúc phúc, phù trợ, vì thế đã chiến thắng vẻ vang và dựng nên được một đất nước giàu sang và hung mạnh bậc nhất thời đó. Nhưng trong cảnh thái bình thịnh trị ấy, nhà vua đã làm một việc tai tiếng, đó là việc ông ngoại tình với bà Betsêba, phu nhân đại tướng Uriad,. Sau tội lỗi ghê tởm ấy, David còn làm thêm một việc thất đức tầy trời nữa, tức là tìm cách để cho tướng Uriad phải chết tức tưởi nơi chiến trận. Việc giết người bịt miệng nầy của nhà vua, tuy che được mắt người  trần thế, nhưng làm sao thoát khỏi mắt Trời. Thần Linh Thiên Chúa đã sai tiên tri Nathan đến đối chất và tố giác hành vi tội lỗi của nhà vua, đồng thời loan báo những tai ương sẽ giáng xuống trên hoàng gia do hành vi ác đức của Vua. David nhìn nhận tội lỗi của mình, khiêm tốn xưng thú và sẵn lòng chấp nhận hình phạt theo lề luật Thánh.

 Lòng ăn năn thống hối của vua David đã được Thiên Chúa chấp nhận, vì thế Ngài đã tha tội chết cho ông, và tiếp tục phù trợ ban ơn Thánh sủng cho ông đến trọn kiếp. David là vị vua vang danh lưu thế, không phải vì nhờ có tài thao lược và kinh bang tế thế xuất chúng, nhưng là do lòng khiêm tốn, biết nhìn nhận tội lỗi do mình gây nên. Biến cố tội lỗi của ông cũng là cơ hội cho ông cảm nghiệm thâm sâu lòng từ nhân dung thứ của Thiên Chúa.

 Bài Thánh Vịnh 51, là một chứng tích hùng hồn về tâm hồn khiêm cung và lòng thống hối quyết tâm trở về nguồn Cứu –Rỗi Của Thiên Chúa, đã trở nên lời kinh sám hối cho con người muôn thủa, mang tên Bài Ca Sám Hối Miserere:
   
“Lạy Thiên Chúa,
   Xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
   Mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm,
   Xin rửa con sạch hết lỗi lầm,
   Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy,
   Vâng, con biết tội mình đã phạm,
   Lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm,
   Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
   Dám làm điều dữ trái mắt Ngài,
   Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
   Liêm chính khi xét xử,
   Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
   Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai,
   Nhưng Ngài yêu thích tâm  hồn chân thật,
   Dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan,
   Xin dùng cành hương  thảo,
   Rảy nước thanh tẩy con,
   Con sẽ được tinh tuyền,
   Xin rửa con cho sạch,
   Con sẽ trắng hơn tuyết,
   Xin cho con được nghe,
   Tiếng reo mừng hoan hỷ,
   Để xương cốt bị Ngài nghiền nát,
   Được nhảy múa tưng bừng,
   Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi,
   Và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm,
   Lạy Chúa Trời,
   Xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
   Đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.
   Xin đừng nỡ đuổi con,
   Không cho gần Nhan Thánh,
   Đừng cất khỏi lòng con,
   Thần khí thánh của Ngài
   Xin ban lại cho con,.
   Niềm vui vì được Ngài cứu độ,
   Là lấy tinh thần quãng đại đỡ nâng con;
   Đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi,
   Ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài,
   Lạy Thiên Chúa con thờ,
   Là Thiên Chúa cứu độ,
   Xin tha chết cho con.
   Con sẽ tung hô Ngài công chính,
   Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
   Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài,
   Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm,
   Con có thượng tiến toàn thiêu,
   Ngài cũng không chấp nhận,
   Lạy Thiên Chúa,
   Tế phẩm con dâng Ngài là tâm thần tan nát,
   Một tấm lòng tan nát giày vò,
   Ngài sẽ chẳng khinh chê,
   Xin rộng lòng tuôn đổ hồng phúc xuống Xi-on
   Thành lũy Gierusalem, xin Ngài xây dựng lại,
   Bấy giờ Ngài vui nhận tế phẩm luật truyền,
   Lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến tế,
   Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ,
   Dâng trên bàn thờ Chúa” (Ps. 51).

“Miserere mei, Deus, secundum misericordiam tuam;
et secundum multitudinem miserationum tuarum
dele iniquitatem meam.
Amplius lava me ab iniquitate mea
et a peccato meo munda me.
Quoniam iniquitatem meam ego cognosco,
et peccatum meum contra me est semper.
Tibi, tibi soli peccavi et malum coram te feci,
ut iustus inveniaris in sententia tua et aequus in iudicio tuo.
cce enim in iniquitate generatus sum,
et in peccato concepit me mater mea.
cce enim veritatem in corde dilexisti
et in occulto sapientiam manifestasti mihi.
sperges me hyssopo, et mundabor;
lavabis me, et super nivem dealbabor.
Audire me facies gaudium et laetitiam,
et exsultabunt ossa, quae contrivisti.
Averte faciem tuam a peccatis meis
et omnes iniquitates meas dele.
Cor mundum crea in me, Deus,
et spiritum firmum innova in visceribus meis.
Ne proicias me a facie tua
et spiritum sanctum tuum ne auferas a me.
Redde mihi laetitiam salutaris tui
et spiritu promptissimo confirma me.
Docebo iniquos vias tuas,
et impii ad te convertentur.
Libera me de sanguinibus, Deus, Deus salutis meae,
et exsultabit lingua mea iustitiam tuam.
Domine, labia mea aperies,
et os meum annuntiabit laudem tuam.
Non enim sacrificio delectaris;
holocaustum, si offeram, non placebit.
Sacrificium Deo spiritus contribulatus;
cor contritum et humiliatum, Deus, non despicies.
Benigne fac, Domine, in bona voluntate tua Sion,
ut aedificentur muri Ierusalem.
Tunc acceptabis sacrificium iustitiae, oblationes et holocausta;
tunc imponent super altare tuum vitulos”. (Ps. 51).

Qua tiến trình thời gian và dưới nhiều hình thức khác nhau, Thiên Chúa tiếp tục sai các vị tiên tri đến với dân Ngài, để nhắc nhở và quảng diễn cho họ về ý nghĩa và nội dung của sự trở về nguồn Ơn Cứu-Rỗi.

 Tiên tri Amos được người đời tặng cho biệt danh: vị tiên tri của đức công chính. Lý do của biệt danh nầy là vì Ngài không những chỉ kêu gọi dân chúng trở về nguồn trong ý nghĩa đại cương mờ ảo, hoặc chỉ chú trọng vào các nghi lễ có tính cách hời hợt ngoại diện, trái lại, với Ngài, trở về với Thiên Chúa có nghĩa là cải tà qui chánh, xa lánh điều xấu xa và hành thiện. Làm lành lánh dữ không chỉ đóng khung trong đời sống cá nhân riêng tư mà thôi, mà còn bao hàm một ý nghĩa thực thi đức công chính thánh thiện trong cộng đoàn xã hội:”Hãy tìm sự lành, chứ đừng tìm điều ác, ngõ hầu các ngươi được sống”.

 “Ước gì như thế, Yahvê Thiên Chúa các cơ binh sẽ ở với các ngươi, như các ngươi đã nói, lo ghét điều ác và mến sự lành, đề cao công lý nơi công môn. Có lẽ Yahvê Thiên Chúa sẽ ân xá cho số sống sót của Giuse”. (Am5, 14-15)

 Trong cùng một chiều hướng tư tưởng và văn mạch, tiên tri Hosêa đi xa hơn nữa là đòi  hỏi dân Isael thành thực trở lại, bằng cách thể hiện trong đời sống thực tế, dứt khoát từ bỏ lối sống lệch lạc sai quấy, như việc tôn thờ ngẫu tượng. Được như thế, họ mới hòng thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Hỡi Isael, hãy trở lại với Yahvê Thiên Chúa của ngươi! Vì bởi tội lỗi mà ngươi đã sa xuống vực sâu. Hãy lấy lời đem các ngươi trở lại cùng Chúa Yahvê. Hãy thưa với Ngài mọi tội xin Ngài tha thứ. Xin Ngài Khấng chịu lấy lời”.

“Convertere, Israel, ad Dominum Deum tuum,
quoniam corruisti in iniquitate tua.
Tollite vobiscum verba
et convertimini ad Dominum;
dicite ei: “ Omnem aufer iniquitatem
et accipe bonum,
et reddemus fructum labiorum nostrorum.
Assyria non salvabit nos;
super equum non ascendemus
nec vocabimus ultra: “Deos nostros!”
opera manuum nostrarum,
quia in te misericordiam consequetur pupillus ”.
“ Sanabo praevaricationem eorum,
diligam eos spontanee,
quia aversus est furor meus ab eis.
Ero quasi ros pro Israel;
germinabit quasi lilium
et mittet radices suas ut Libanus.
Expandentur rami eius;
et erit quasi oliva gloria eius,
et odor eius ut Libani.
Convertentur sedentes in umbra mea,
colent triticum
et germinabunt quasi vinea;
memoriale eius sicut vinum Libani”.(Ho 14, 2-9)
 

Theo tiên tri Hosêa, sự trở lại hời  hợt bên ngoài sẽ không bao giờ mang lại hoa trái công chính. Sự trở về nguồn trung thực phải được khởi sắc bằng tình yêu mến và nhận biết Thiên Chúa:

   Nào ta hãy trở lại với Yahvê.
   Người đã xé rách, Ngài sẽ chữa lành,
   Đánh rồi, Ngài sẽ băng bó lại cho,
   Sau hai ngày, Ngài sẽ cứu sống ta,
   Đến ngày thứ ba, Ngài sẽ cho chỗi dậy,
   Cho ta sống lại trước nhan Thánh của Ngài. (Ho 6, 2-3)
 
Isaia, vị tiên tri lớn của thời Cựu - Ước đã mạnh dạn cảnh giác dân Isael về những bất trung và tội lổi của họ, ngài khẳng định là họ cần thành tâm thống hối trở về với Thiên Chúa, Đấng sẽ ban Ơn Cứu-Rỗi, không có lòng sám hối chân thành ấy, các nghi thức tế tự bên ngoài chẳng ích lợi gì:
   
Ích gì cho ta, lễ tế vô vàn của các ngươi, Yahvê phán.

   Ta đã chán ngấy thượng hiến cừu tơ và mỡ thú vật béo ngậy,
   Huyết bò non với chiên con, và dê đực ta cũng không màng,
   Khi các người vào bái yết nhan thánh Ta,
   Nào ai đòi các ngươi làm thế: dẫm lên các tiền dình của Ta?
   Các ngươi đừng mang lại lễ dâng vô nghĩa,
   Hương hoa với Ta là đồ ghê tởm, ngày sóc, ngày hươu, chiêu hội,
   Ta không chịu được tai quái với lễ lạy,
   Ngày sóc và lễ bái của các ngươi Ta đã ghét,
   Chúng là gánh nặng cho Ta, Ta đã chán rồi không chịu nổi.
   Các ngươi dang tay lên, ta đã bịt mắt lại,
   Các ngươi có gia tăng nguyện cầu, Ta cũng chẳng nghe
   Tay các ngươi vấy những máu,
   Hãy tắm rửa, hãu thanh tẩy mình đi, hãy cất khỏi trước mắt Ta.
   Những hành vi gian ác của các ngươi, hãy thôi làm điều gian ác,
   Hãy học làm điều lương thiện, hãy ăn ở theo đức công minh,
   Hãy xét xử công bằng cho kẻ mồ côi.
   Hãy bênh đỡ người góa bụa”

“ Quo mihi multitudinem victimarum vestrarum?,
dicit Dominus.
Plenus sum holocaustis arietum
et adipe pinguium;
et sanguinem vitulorum
et agnorum et hircorum nolui.
Cum veneritis ante conspectum meum,
quis quaesivit haec de manibus vestris,
ut ambularetis in atriis meis?
Ne afferatis ultra sacrificium vanum;
abominatio mihi incensum,
neomenia et sabbatum et conventus;
non feram scelus cum coetu sollemni;
calendas vestras et sollemnitates vestras odivit anima mea,
facta sunt mihi molesta, laboravi sustinens.
Et cum extenderitis manus vestras,
avertam oculos meos a vobis;
et cum multiplicaveritis orationem,
non exaudiam:
manus enim vestrae sanguine plenae sunt.
Lavamini, mundi estote,
auferte malum cogitationum vestrarum ab oculis meis;
quiescite agere perverse,
discite benefacere:
quaerite iudicium, subvenite oppresso,
iudicate pupillo, defendite viduam.
Et venite, et iudicio contendamus,
dicit Dominus.
Si fuerint peccata vestra ut coccinum,
quasi nix dealbabuntur;
et, si fuerint rubra quasi vermiculus,
velut lana erunt. (Is 1, 11-18)

Lẽ tất nhiên, những lời cảnh cáo cương trực ấy sẽ gặp sự chống đối của người đời, đặc biệt những loại người vô đạo nghĩa, những người chỉ giữ đạo hờ hững cho cái vỏ truyền thống bên ngoài. Khước tứ sứ điệp thống hối của tiên tri, cũng có nghĩa là chống lại Thánh ý Thiên Chúa và đi ngược lại lề luật thánh thiện của Ngài. Tấm thảm kịch của lịch sử dân Isael khơi nguồn huyết lệ từ sự bất trung bất tín đối với lời giao ước với Chúa Yahvê.

 Trung thành với truyền thống loan báo sự sám hối ăn năn, tiên tri Ezekiel không ngần ngại báo cho dân Chúa những lời đe dọa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên đầu, nếu họ không kịp thời cải tà qui chính tìm quay trở vế với Chúa Yahvê.
“Hỡi nhà Isael, Ta sẽ xét xử theo hành động của các ngươi, Sấm cùa Chúa Yahvê, hãy trở lại, hãy qui hàng, hãy bỏ những điều nguy nghịch các ngươi đã xúc phạm đến Ta.

Hãy tránh xa những dịp tội, hãy tạo cho mình một tấm lòng mới, một thần khí mới. Tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thế, Ta không vui gì nơi cái chết của kẻ phạm tội.

Sấm của Chúa Yahvê, hãy quay trở về, các ngươi sẽ được sống”. (Ez 18, 31f).

 Trở về vói Chúa Yahvê, không những có tính cách tập thể của toàn dân, tiên tri Ezkiel nhần mạnh đến tính cách cá nhân của sự thống hối ăn năn trở lại riêng tư của mỗi người trước thánh nhan Thiên Chúa. Ngoài trách nhiện tập thể ra, một cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành vi tội phúc của mình đối với Thiên Chúa”

“Và xảy ra là sau bảy ngày có lời của Dức Yahvê đến với tôi mà rằng: “Con người hỡi, Ta đã đặt ngươi làm tuần canh trên nhà Isael. Hễ ngươi nghe lời nào từ miệng Ta, ngươi phải cảnh giác chúng cho Ta. Giả như Ta phán với kẻ vô đạo:”Đã hẳn ngươi phải chết”, mà ngươi lại không cảnh giác, không nói lên để cảnh giác kẻ vô đạo bỏ đàng dữ nó theo để cứu sống nó, nó sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. Nhưng giả như ngươi đã cảnh cáo kẻ vô đạo, song nó không chịu bỏ sự dữ và con đường xấu xa của nó, chính nó sẽ phải chết vì tội của nó, còn ngươi, ngươi sẽ thoát được mạng. Khi người tốt nỏ đường công chính đi theo đường trái, nó sẽ phải chết bởi ngươi không cảnh giác nó vì tội lỗi nó, nó sẽ phải chết và những công trạng nó làm, sẽ không còn được nhớ đến nữa; nhưng Ta sẽ hỏi tội ngươi về máu của nó. Còn nếu như ngươi cảnh giác người tốt, để nó khỏi phạm tội, tất nó sẽ được sống, vì nó nhận lời cảnh giác, và ngươi sẽ được thoát mạng”. (Ez 3, 16-21).

 Vị tiên tri cuối cùng, chuyển tiếp giữa hai thời Cựu-Ước và Tân- Ước là Gioan Tẩy giả, cũng được gọi là đấng tiền hô, vì Ngài dọn đường cho Chúa Cứu-Thế. Theo ngôn từ vang vọng từ thời Cựu-Ước của tiên tri Isaia:
   
“Tiếng của người hô trong sa mạc,
   Hãy dọn đường cho Chúa đến,
   Hãy san bằng những lối đi,
   Nơi cao hãy bạt xuống,
   Hố sâu hãy lấp đầy,
   Mọi núi đồi hãy hạ thấp xuống,
   Những nơi cong queo tà vạy, hãy uốn cho ngay thẳng,
   Mọi lối đi hãy làm cho phẳng lì.
   Bởi chưng những con mắt trần thế
   Sẽ được nhìn thấy ơn cứu chuộc của Thiên Chúa”. (Lk 3, 1-7).
 
Trung thành với truyền thống các tiên tri thời Cựu-Ước về sứ điệp sám hối, tuy nhiên Gioan Tẩy giả đã đưa việc hối cải đến tình trạng tinh tuyền, nghĩa là tới việc thực hành đức công chính theo lề luật thánh thiện của Thiên Chúa, theo đó, sự phán xét là giai đoạn giáo đẩu chuẩn bị cho Nước Chúa.

 Thánh sử Luca đã giới thiệu con người và sứ mệnh tiên tri của Giaon tẩy giả nằng những lời trịnh trọng và sâu sắc như sau:”Ngươi sẽ vui mừng hoan hỷ, vả nhiều người sẽ được vui mừng hoan hỷ vì việc nó sinh ra, vì nó sẽ làm lớn trước mặt Thiên Chúa. Rượu chua, chất cay, không uống, từ trong lòng mẹ, đã được  tràn đầy Chúa Thánh Thần, và nó sẽ đem nhiều con cái Isael trở về với Chúa là Thiên Chúa chúng ta. Nó sẽ đi trước mặt Chúa trong thần khí và quyền năng của một Êlya, để hướng lòng dạ cha ông trở về với con cái, và kè ngỗ nghịch về lại với ý tưởng ngay lành của hàng công chính, hầu dọn cho Chúa một dân được chuẩn bị sẵn sàng”. (Lk 16, 14-18).

 Thánh Sử Mathew, bằng một bút pháp thần tình, đã long trọng giới thiệu con người và sứ mệnh của Gioan tẩy giả trong một mệnh đề ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sa:

   “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2).

Nước Trời gần đến mở ra cho nhân loại một chân trời mừng vui và hy vọng.Tuy nhiên sứ vụ rao giảng của Gioan tẩy giả chú trọng đến nột số sắc thái quan trọng chuẩn nị cho vương quốc thánh thiện siêu việt của Thiên Chúa, đó là sự phán xét nhằm tinh luyện dân Chúa xứng đáng nhận lãnh Hồng –Ân-Cứu Chuộc. Lý do quan trọng khiến Gioan rao giảng sự phán xét tinh luyện vì không ai biết được thời điểm của biến cố nước Trời.

Thấy nhiều người Biệt phái và bè Sađốc đến xin chịu phép thanh tẩy, ông liền bảo họ: “Hỡi nòi rắng độc, ai mach bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đang sắp sửa đổ xuống trên đầu các ngươi? Hãy sinh hoa quả phước đức xứng với lòng hối cải. Đừng có kiêu hãnh hão huyền mình là giòng giống của tổ phụ Abraham!  Ta bảo các ngươi, Thiên Chúa có thể biến những hòn đá nầy thành con cái của Abraham. Lưỡi rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây, cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và ném vào lò lửa”. (Mt  3,7-10).

Gioan khuyến cáo dân chúng canh tân cải hóa cuộc sống theo đấng bậc của mình, hầu xứng đáng đón nhận vào Nước Chúa. Để biểu lộ lòng thành khẩn sám hối ăn năn, Gioan làm phép thanh tẩy cho họ, như một chuẩn bị cho Phép Rửa Mới trong lửa và Thánh Thần.
Phần Ta, Ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để lo sám hối đền tội, còn Đấng sẽ đến sau ta, quyền thế hơn ta, và ta không xứng đáng xách dép cho Ngài, chính Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Lửa va Thánh Thần. Cái sàng đã sẵn trong tay, Ngài sẽ sang sảy các ngươi như lúa trong sàng vậy, lúa thì Ngài cho vào kho lẫm, còn trái thì Ngài quăng vào lửa mà thiêu đốt đi”. (Mt 3, 11-12).

Với những tâm hồn thành tâm thiện chí chờ mong ơn cứu rỗi, thánh sử Marcô mô tả sứ mệnh của Gioan tẩy giả rao truyền phép rửa thống hối để nhận lấy thần linh và ân sủng của Thiên Chúa: “Nầy Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi, tiếng của người kêu trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa, hãy san phẳng các lối đi”…. (Mt 1, 2-3).

“Phần tôi, tôi thanh tẩy anh em bằng nước, nhưng có Đấng đến sau tôi, cao trọng hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và Ân Sủng”. (Mt 1, 2-9)

 Với những tâm hồn sùng mộ sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa, thánh sử Gioan, tác giả của Phúc-Âm thứ tư mô tả sự canh tân đổi mới của trở về nguồn như một cuộc tái sinh linh thiêng trong ân sủng và trong Chúa Thánh Thần.

   Quả thật ta bảo ông:
   Ai không tái sinh bởi nước và Thánh Thần,
   Thì không thể vào Nươc Thiên Chúa được,
   Sự gì sinh bởi xác thịt, là xác thịt,
   Sự gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh
 
“Respondit Iesus: “ Amen, amen dico tibi: Nisi quis natus fuerit ex aqua et Spiritu, non potest introire in regnum Dei.
Quod natum est ex carne, caro est; et, quod natum est ex Spiritu, spiritus est”.(Jn 3,5-7)

Gioan Tẩy Giả rao giảng sự thống hối, mời gọi con cái nhà Isarel trở về nguồn chân lý và tinh thần đạo đức của truyền thống mặc khải. Nghĩa là con cái Chúa phải khước từ những gì ngụy tạo, giả trá do bàn tay loài người thêu dệt ra trên tiến trình của lịch sử, để có thể đạt tới sự tôn kính mến yêu Thiên Chúa một cách trung thực trong Tinh Thần và Chân-Lý.

 Tinh thần và chân lý là trung tâm của Đạo mặc khải. Muốn giữ cho lòng mình luôn có Thần Linh và Chân lý, người tín hữu Chúa cần phải hành trình liên tục để trở về cội nguồn Linh Thánh.

 Sống giữa cuộc đời như thuyền trôi giữa giòng nước lũ, mà thế gian, ma quỉ, xác thịt như những chướng ngại vật ngăn cản, xô đẩy con người đi xa cội nguồn của mình.

 Gioan tẩy giả đã sống trung thực và đã chết can trường vì chứng từ cho Chân Lý và Tinh Thần.


Trở Về Nguồn Qua Chứng Từ Kinh Thánh

Trở về nguồn để gần Thiên Chúa hơn không phải là một giáo thuyết mới mẻ, nhưng đã khởi nguyên từ Kinh Thánh. Hãy lần mở những trang Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt về các Tiên Tri, Chúa Yahvê đã dùng miệng lưỡi các đấng tiên tri để rao giảng truyền cho dân Chúa nhu cầu thiết yếu là họ phải qay trở về với Ngài

Tiên tri Isaia khẳng quyết với dân Chúa nếu họ muốn được cứu sống, chỉ còn một cách nữa là trở về với Ngài, vì ngoài Thên Chúa ra, không còn thần linh nào khác có thể cứu được họ:
 
“Hãy quay lại với Ta, hòng được cứu thoát,
Hởi toàn thể cõi bờ thế giới,
vì chính Ta là Thiên Chúa, không còn ai khác nữa!
Ta lấy mình Ta ta thề,
từ miệng Ta phát ra lời đức nghĩa,
lời sẽ không bao giờ phải hối, là trước mặt ta, mọi gối sẽ lạy thờ,
mọi miệng lưỡi sẽ tuyên xưng rằng: chỉ nơi Yahvê có đức nghĩa uy hùng”

“Convertimini ad me et salvi eritis,
omnes fines terrae,quia ego Deus, et non est alius.
In memetipso iuravi:
Egressa est de ore meo iustitia, verbum, quod non revertetur;
Quia mihi curvabitur omne genu,et iurabit omnis lingua ”.           (Isa 45:22-24)

Trong tai ương hoạn nạn mà biết quay trở về, Thiên Chúa sẽ hoán cải số phận hẩm hiu, lời sấm của tiên tri Jêrêmia vang vọng:
 
"Có khi ta lên án dân tộc nầy hay dân tộc khác phải tận diệt, nhưng nếu dân tộc ấy biết hoán cải, bở con đường tà vạy mà quay về chính lộ, ta sẽ đổi số phận của chúng"(Jer 18:7-8)

Những kẻ ăn ở vô đạo nghĩa, vô luân thường đạo lý , mà cứ lỳ lẫm không chịu nghe lời khuyên can để cải tà qui chính, chắc chắn sẽ không tránh khỏi tai ách đang đổ xuống trên số phận của họ!Tiên tri Ezekiel cảnh cáo: " phường vô đạo nghĩa, dầu đã được nghe lời cảnh cáo mà không chịu hoán cải đường tà, nó sẽ chết vì tội lỗi mình gây nên"( EZ 33:9)

Bước sang thời điểm Tân-œớc, Thánh Gioan tẩy gỉa cũng đã theo truyền thống các vị tiên tri thời cổ, mời gọi mọi người ăn năn thống hối, trở về đường lối ngay thẳng của Thiên Chúa. Chính Gioan đồng hóa mìh với tiếng kêu trong sa mạc, người tiền hô dọn đường cho Đấng Cứu-Thế, theo ngôn từ vang vọng từ thời Cựu-œớc của tiên tri Isaia:

" Tiếng của người hô trong sa mạc,
Hãy dọn đường cho Chúa đến,
hãy san bằng những lối đi:
nơi cao hãy bạt xuống.
hố sâu hãy lấp đầy,
mọi núi đồi hãy hãy hạ thấp xuống,
nhô9ng nơi cong co tà vạy, hãy uống cho ngay thẳng,
mọi lối đi hãy làm cho phẳng lì,
bởi chưng những con mắt trần thế,
sẽ được nhìn thấy ơn cứu chuộc của Thiên Chúa"

Anno autem quinto decimo im perii Tiberii Caesaris, procu rante Pontio Pilato Iudaeam, tetrarcha autem Galilaeae Herode, Philippo autem fratre eius tetrarcha Ituraeae et Trachonitidis regionis, et Lysania Abilinae tetrarcha, sub principe sacerdotum Anna et Caipha, factum est verbum Dei super Ioannem Zachariae filium in deserto.
 Et venit in omnem regionem circa Iordanem praedicans baptismum paenitentiae in remissionem peccatorum,
Sicut scriptum est in libro sermonum Isaiae prophetae:
“ Vox clamantis in deserto:
“Parate viam Domini,
rectas facite semitas eius.
Omnis vallis implebitur,
et omnis mons et collis humiliabitur;
et erunt prava in directa,
et aspera in vias planas:
Et videbit omnis caro salutare Dei”
( Luke 3:1-7)

Lời kêu gọi trở về nguồn, canh tân cải hóa cuộc sống như một sứ điệp khẩn trương vang vọng trong cả bốn Phúc Âm.
Cho con cái nhà Israel, thánh sử Mathêu mạnh dạn tuyên bố:

 " Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến"(Mt 1, 2 ).

Với những tâm hồn thành tâm thiện chí chờ mong ơn cứu rỗi, thánh sử Marcô rao truyền phép rửa thống hối để nhân lấy thần linh và ân sủng của Thiên Chúa:

"Nầy ta sai sứ thần ta đi trước mặt ngươi  để dọn đường cho ngươi, tiếng của người kêu trong sa mạc:hãy dọn đường Chúa, hãy san phẳng các lối đi
 
"phần tôi , tôi thanh tẩy anh em bằng nước, nhưng có Đấng đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và Ân Sủng."( Mk 1: 2-9)

Với những tâm hồn sùng mộ sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa, thánh sử Gioan, tác gỉa của Phúc-„m thứ tư mô tả sự canh tân đổi mới của về nguồn như một cuộc tái sinh linh thiêng trong ân sủng và trong Chúa Thánh Thần:
 
" Quả thật ta phán bảo ông:
 Ai không tái sinh bởi nước và Thánh Thần,
 thì khơng thể vào Nước Thiên Chúa được,
 sự gì sinh bởi xác thịt, là xác thịt,
 sự gì phát sinh bởi Thần Linh là thần linh"

Respondit Iesus: “ Amen, amen dico tibi: Nisi quis natus fuerit ex aqua et Spiritu, non potest introire in regnum Dei.
Quod natum est ex carne, caro est; et, quod natum est ex Spiritu, spiritus est.
Non mireris quia dixi tibi: Oportet vos nasci denuo. (John 3:5-7)

Sự trở về nguồn chân lý và thần linh bắt buộc con người phải khước từ những gì ngụy tạo, gỉa trá do bàn tay loài người thêu dệt ra trên tiên trình của lịch sử. qua cuộc đối thoại với thiếu nữ Samarita bên bờ giếng Giacop, Chúa Cứu-Thế mặc khải cho ta nhu cầu sống thực phải khởi sự bằng một khước từ quyết liệt ngay cả đến vÔi những gì ta cho là truyền thống ngàn đời cảu cha ông:
 
" Chúa Kitô phán bảo người phụ nữ: Hởi bà, hãy tin Ta, đã đến giờ, những kẻ tôn thờ Thiên Chúa đích thực, không phải thờ trên núi hay trong thánh đường  Jêrusalem, mà tôn thờ ngài trong tinh thần và trong chân lý...vì Thiên Chúa là Tinh Thần, nên phải thờ kính Ngài trong Tinh Thần và trong Chân-Lý"

Dicit ei Iesus: “ Crede mihi, mulier, quia venit hora, quando neque in monte hoc neque in Hierosolymis adorabitis Patrem.
Vos adoratis, quod nescitis; nos adoramus, quod scimus, quia salus ex Iudaeis est.
 Sed venit hora, et nunc est, quando veri adoratores adorabunt Patrem in Spiritu et veritate; nam et Pater tales quaerit, qui adorent eum.
 Spiritus est Deus, et eos, qui adorant eum, in Spiritu et veritate oportet adorare ”.
( John 4:21-25).

Thần Linh và Chân Lý là trung tâm của Đạo mặc khải, muốn giữ cho lòng mình luôn có Thần Linh và Chân Lý, người con Chúa phải hành trình liên tục để trở về cội nguồn Linh Thánh, bởi vì sống giữa cuộc đời như thuyền trôi giữu giòng nức lũ, mà thế gian, ma qủi xác thịt như những chướng ngại vật ngăn cản, xô đẩy con người đi xa cội ngườn của mình!

Đoạn Kinh Thánh trên cũng mạc khải cho chúng ta một chân lý nòng cốt của Đạo Chúa. Dân Chúa thời cựu ước coi Đạo như một thứ truyền thống mà cha ông họ truyền lại,nên họ giữ đạo như tiếp tục gìn vàng giữ ngọc một tập tục, một tuyền thống tốt của quốc gia giòng giống của mình, đạo vì thế trở nên một trang trí cho văn hóa chủng tộc Do-Thái của họ. Chúa Kitô nhắc nhở họ nhu cầu trở về nguồn Thần Linh và Chân Lý là nền móng và gốc rễ của Đạo. Hơn thế nữa, Chúa Kitô còn nhấn mạnh Đạo là Con Đường phải đi, là cuộc Sống mà con người phải sống mỗi ngày. Chính Chúa Kitô là Con Đường và cuộc Sống viên mãn đó đang tuôn tràn xuống cho trần gian qua biến cố Nhập Thề Giáng Trần của Ngài. Chúa Phán:

" Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống"

Dicit ei Iesus: “Ego sum via et veritas et vita;
Nemo venit ad Patrem nisi per me” (John 14, 6).
 
  Vì thế, người tín hữu kitô giáo được định nghĩa bằng ngôn từ la ngữ Christianus, nghĩa là người có Chúa Kitô, người mang Chúa Kitô và làm nhân chứng sống động cho ngài. Có Chúa hay mang Chúa diễn đạt một tình trạng được thông truyền, được tiếp nối với ngồn sống thần linh. Người tín hữu chúa là người được chia sẻ cuộc sống ân sủng, nghĩa là được nguồn ơn thánh sủng của Thiên Chúa ba Ngôi tuôn chảy trong tâm hồn, như những con sông nhỏ, hay những giòng nhỏ, những on suối đang được tiếp nguồn với giòng sông lớn ăn qua đại dương. Chúa là đại dương thánh đức, người thông hiệp với Chúa được ân thánh sủng tuôn trào trong linh hồn như giòng điện được nối liền với  mạch điện. Trở về nguồn vị thế, theo ngôn từ triết Lão-Trang, là cái động của Đạo. Và nói theo từ ngữ của truyền thông công giáo là hiệp thông, là chung hoà  với với Thiên Chúa. Sự trở về ngồn của những tâm hồn tội lỗi chính là sự ra đi về nhà Cha của người con hoang đàng trong Phúc-„m thánh Luca. Vì xa laì nhà cha, lạc xa tình Cha chỉ còn đêm tối mờ mịt, mất mát ê chề mà thôi!

Trở về với Thiên Chúa, nguồn ơn thánh sủng , sức sống nuôi dường đời nguời tín hữu!
Trở về  với Chân-Thiện-Mỹ , kim chỉ nam cho con người  thành tâm thiện chí muôn thủa!
Trở về nguồn khám phá lại Nguồn Ánh-Sáng Chân-Thực soi đường chỉ lối cho mọi người, đặc biệt những người mang trách nhiệm làm lịch sử, là một nhu cầu khẩn trương cho nhân loại bên thềm tân thiên kỷ!

 Sám hối, trở về nguồn
Điều kiện đón nhận Nước Trời

 Với sự xuất hiện của Chúa Kitô, sứ điệp sám hối trở về nguồn đã thay hình đổi dạng và mang một nội dung hoàn toàn mới mẻ. Thực vậy, Chúa Kitô đến, không những để loan báo về Nước Trời, mà Ngài còn làm cho Nước Chúa trở thành một thực tại sống động nơi trần thế. Với Ngài, Nước Trời đã khởi đầu, và diễn biến trong một tiến trình đến chỗ thành tựu vẹn toàn nhiệm lạ. Trong khi lời rao giảng của Gioan tẩy giả về sự ăn năn sám hối chỉ là một dọn đường cho tương lai, thì sứ điệp sám hối là chính cuộc đời sứ mệnh của Chúa Kitô. Ngài đến trong thế gian là để kêu gọi người có tội ăn năn trở lại:

 “Ta đến, không nhằm kêu gọi những người hiền đức, nhưng là người tội lỗi cần ăn năn sám hối”. (Lk 3, 32)
 Kêu gọi người có tội hối cải trở về với Thiên Chúa là trọng tâm của giáo thuyết Phúc-Âm. Theo đó, khi người có tội, ý thức được tình trạng tội lụy của mình, tín thác vào Chúa Kitô, muốn quay trở về với Ngài, Ngài sẽ tha thứ cho họ, vì Ngài có quyền tha tội 
“Song để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất, bây giờ Ngài phán bảo người bất toại: “Hãy chỗi dậy, vác giường về nhà”. (Lk. 9, 6)

Tuy nhiên, sứ điệp sám hối được Chúa Kitô ban bố, cũng chịu chung số phận như lời rao giảng của các vị ngôn sứ trong thời Cựu-Ước, tức là gặp phải sự chống đối của người đương thời, bởi vì sứ điệp ấy trước hết va chạm tới lòng tham lam tiền bạc, gắn bó với vật chất của con người:

 “…Và Chúa Kitô nhìn người thanh niên đem lòng thương mến mà phán bảo: “Ngươi hãy về bán đi tất cả những gì chiếm hữu mà bố thí cho người nghèo khó, và ngươi sẽ có một kho tang vô giá trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta”. Người thanh niên nghe những lời ấy thì tối sầm mặt lại, lặng lẽ bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cài”

Ille autem dixit ei: “ Magister, haec omnia conservavi a iuventute mea ”.
 Iesus autem intuitus eum dilexit eum et dixit illi“Unum tibi deest: vade, quaecumque habes, vende et da pauperibus et habebis thesaurum in caelo; et veni, sequere me.
Qui contristatus in hoc verbo, abiit maerens: erat enim habens possessiones multas”
(Mk 10, 21-22)
 
Những người giàu sang quyền quý mà lòng kiêu căng tự phụ, chẳng hạn tầng lớp Phariseu tìm thấy nơi sứ điệp của Chúa Kitô như một thách đố căn để, một kết án nặng nề, vì thế họ đã kháng cự kịch liệt, không những với lời rao giảng của Chúa, mà cao điểm đến khi chính Chúa Kitô đã phải chịu treo trên Thập Tự Giá, như dấu chỉ của tiên tri Gioana xưa giữa lòng một thế hệ hư hỏng tội lụy.

 Như xưa dân Isael khước từ lời rao giảng của Gioana, không chịu ăn năn hối cải vì lòng họ đã lì lợm chai đá, nên đã bị Thiên Chúa trừng phạt, thì những người Phariseu cứng lòng kiêu căng thù nghịch với lời kêu gọi của Chúa Kitô, cũng là căn cơ mở đường cho muôn vàn khốn khó sẽ xảy đến cho họ.

 “Nhằm lúc ấy, có người đến báo tin cho Ngài về những người Galilê, Philatô đã đổ máu hòa với lễ tế của họ, Ngài phán bảo họ: Các ngươi tưởng những người Galilê ấy là hạng người tội lỗi hơn các người khác, vì đã phải khốn đốn như thế sao? Không đâu, ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không hối cải, thì hết thảy các ngươi sẽ bị tiêu diệt như thế. Hay mười tám người khác đã bị  tháp Silôam đổ xuống đè chết, các ngươi  tưởng họ tội lỗi hơn các người khác cư ngụ tại Jerusalem sao? Không dâu, Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không hối cải, tất cả các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt như  thế”. (Lk 13, 1-5)

 Loan báo hình phá tương lai đối với những ai kiêu căng tự phụ, những hạng người lì lợm chai đá, chỉ là giai đoạn giáo đầu của sứ điệp Trở về. Trọng tâm lời rao giảng của Chúa Kitô là mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón nhận hồng ân Cứu-Rỗi, bắt đầu bằng sự tái sinh, trở nên con người mới cho triều đại Nước Trời đang đến giữa lòng nhân thế. Chính những tâm hồn trở nên trong sạch, khiết tịnh, đơn sơ như trẻ thơ sẽ khát mong tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, tìm kiếm Nước Thiên Chúa là trọng tâm lời rao giảng của Chúa Cứu-Thế.

 Dấu chỉ sự hiện hữu của Nước Trời nơi lòng người là nỡi vui mừng và niềm hy vọng quang tỏa trong cuộc sống. Sự sám hối trở về với Thiên Chúa không những đem niềm vui tuyệt vời trên chốn trời cao. Phúc Âm Thánh Thánh Luca như chứng từ của sứ điệp niểm vui nơi những tâm hồn sám hối tìm lại được thiên đàng nơi dương thế.

 “Ta bảo các ông hay, trên trời sẽ vui mừng gấp bội vì một người tội lỗi biết hối cải hơn là chin mươi chin người công chính, những kẻ không cần thống hối ăn năn”. (Lk 15, 7)

 Tóm lại, toàn bộ Phúc Âm, khi ghi lại đời rao giảng của Chúa Kitô, các tác giả tuy có khác nhau về chiều hướng thần học, sắc thái văn chương và nhãn quan mục vụ, nhưng đều qui hướng về một điểm then chốt, tức là sứ điệp cải hối canh tân như một điều kiện để đón nhận Nước Trời.

 Trong lúc sinh thời, Chúa Cứu- Thế đã đích thân đi giảng dạy hoặc sai các môn đệ ra đi loan truyền Tin mừng Nước Thiên Chúa. Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa lại tiếp tục dạy các tong đô về sứ mệnh cao quí nầy. Trước khi về trời hiển vinh, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, làm vua cai quản vũ trụ, Ngài lại long trọng tuyên bố cho các môn sinh sứ mệnh khẩn thiết phải ra đi khắp thế gian rao giảng cho mọi dân mọi nước về sự thống hối và phép tha tội”

 “Và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho các dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi, khởi từ Jerusalem. Về các điều ấy, các ngươi là nhân chứng”.

“Et praedicari in nomine eius paenitentiam in remissionem peccatorum in omnes gentes, incipientibus ab Ierusalem”.  (Lk 24, 47)

Đồng thời Chúa Kitô cũng hứa là Ngài luôn hiện diện trong giáo hội do Ngài sáng lập, để bênh vực, hỗ trợ ngõ hầu sứ mệnh của giáo hội sẽ đạt tới cùng đích viên mãn.

 Chúa Kitô phán bảo các môn đệ: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta, vậy các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Ta đã truyền dạy cho các ngươi, Này đây, Ta sẽ ở với các ngươi mọi ngày cho đến tận thế”.

 Vì thế, người  tín hữu được định nghĩa bằng ngôn từ La ngữ Christianus, nghĩa là người có Chúa Kitô, người mang Chúa Kitô và làm nhân chứng sống động cho Ngài. Có Chúa hay mang Chúa diễn đạt một tình trạng được thông  truyền, được tiếp nối với nguồn sống thần linh.

 Người tín hữu Chúa là người được chia sẻ cuộc sống ân sủng, nghĩa là được nguồn ơn thánh sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi tuôn chảy trong tâm hồn, như ngành nho tiếp nối với thân cây nho, hoặc như những con sông nhỏ, những con suối nhỏ đang được tiếp nguồn với giòng sông lớn để thông vào đại dương.

 Chúa là đại dương thánh đức,  Người thông hiệp với Chúa được ơn thánh sủng tuôn trào trong linh hồn như mạch điện được nối liền với giòng điện. Trở về Nguồn vì thế, theo ngôn từ triết Lão-Trang, là cái động của Đạo. Và nói theo từ ngữ của truyền thống công giáo là hiệp thông, là chung hòa với Thiên Chúa. Sự trở về nguồn của những tâm hồn tội lỗi chính là sự đi về nhà Cha của Người con hoang đàng trong Phúc-Âm thánh Luca. Vì xa lìa nhà Cha, lạc xa tình Cha, chỉ còn đêm tối mờ mịt, mất mát ê chề mà thôi.

 Trở về với Thiên Chúa, nguồn ơn thánh sủng, sức sống nuôi dưỡng đời người tín hữu. Trở về với Chân-Thiện-Mỹ, Kim chỉ nam cho con người thành tâm thiện chí muôn thủa.

 Trở về nguồn khám phá lại Nguồn Ánh-Sáng Chân-Thực soi đường chỉ lối cho mọi người, đặc biệt nghững người mang trách nhiệm làm lịch sử, là một nhu cầu khẩn thiết cho nhân loại bên thềm thiên niên kỷ.                                            

Trở Về Nguồn Hạnh Phúc Chân Thực

Bài Giảng Trên Núi cũng được gọi là"Tám-Mối-Phúc-Thật"chiếm một phần quan trọng trong giáo thuyết của Chúa Kitô! Như sẽ bàn sau nơi chương một"Ba năm rao-giảng một chủ đề": Đưa nhân loại vào đường chân hạnh phúc", tất cả mọi  lời giảng huấn của Chúa xoay quanh đề tài nầy, hay nói khác đi, "Bài Giảng Trên Núi là cao điểm của giáo thuyết Phúc-Âm", vì con đường cứu rỗi của con người là tùy vào sự áp dụng chân lý được hàm chứa trong "Tám Mối-Phúc-Thật" nầy. Vì thế, người viết muốn đặt tên cho cuốn sách nhỏ nầy là "Cõi-Phúc", gồm những suy tư về "Bài Giảng Trên Núi". Tầm quan trọng của "Tám-Mối-Phúc-Thật", không những là đề tào bao hàm mọi lời rao giảng của Chúa Cứu Thế mà thôi, mà còn trở nên mẫu mực cho cuộc sống của bất cứ ai dám nhận mình là môn đệ của Ngài. "Tám-Mối-Phúc-Thật, vì thế được các giáo-phụ đặt tên là Hiến Chương Nước-Trời, là kim chỉ nam, là lý tưởng, khuôn-khổ, mẫu-mực cho cuộc sống của người kitô hữu! Sau cùng "Tám-Mối-Phúc-Thật" trở nên như chìa khóa mở cữa "Nước-Trời" cho những ai tin nhận Chúa Kitô là Cứu-Chúa!

Trong Phúc-Âm thứ nhất, khi đề cập đến những hoạt động mục vụ đầu đời của Chúa Cứu-Thế, Thánh Sử Mathêu đã hạ bút viết lên những giòng nầy:

" Khi Chúa thấy dân chúng lũ lượt kéo tới, Ngài đi lên triền núi, và sau khi an tọa, có các môn đệ bao quang, Chúa đã cất tiếng giảng dạy họ”
“Videns autem turbas, ascendit in montem; et cum sedisset, ac cesserunt ad eum discipuli eius;  et aperiens os suum docebat eos dicens: "(Mt. 5:1-2)

Bài giảng của Chúa ngày đó được thâu tóm lại trong" Tám Câu Huấn-Dụ" mà ngày nay chúng ta gọi là "Tám-Mối-Phúc-Thật".Với não trạng vật chất của con người tân tiến ngày nay, "Tám-Mối-Phúc-Thật" qúa lý tưởng và xa vời đới với cuộc sống hiện thực. Chúng ta không phủ nhận rằng Tám-Mối-Phúc-Thật thật tuyệt vời, được coi như một thứ lý tưởng được Chúa phác họa nên để thách đố chúng ta sống trọn vẹn đời sống kitô hữu một cách cao đẹp. Khi Chúa giảng Tám-Mối-Phúc-Thật, Ngài không có ý đề xướng một thứ đạo đức luân lý mới thay thế Mười Đều Răn trong "Đạo Cũ"cũng không đề nghị những nhân đức mới cho con người tùy cơ chọn lựa! Chắc không phải như thế! Khi ban bố "Tám-Mối-Phúc-Thật", Chúa Kitô mặc khải một con đường sống mới, và con đường sống mới nầy đuợc xây dựng trên nền tảng của sự liên hệ, cậy dựa vào Thiên Chúa, đồng thời bày tỏ gía trị siêu việt của người theo Chúa một cách trung thực, chân chính..

Sứ Điệp Phúc Âm Trên Giòng Sinh Mệnh Kitô Giáo

Suốt dọc giòng lịch sử kitô giáo, Tám-Mối-Phúc-Thật đã trở nên kim chỉ nam cho những tâm hồn khao khát sự thánh thiện, là phương châm hành độnh cho những môn đệ trung trinh, là nền tảng cho tòa nhà đạ đức của giáo hội. Hai nghìn năm sau, Tám-Mối-Phúc-Thật vẫn nguyên vẹn là căn bản nội tại uốn nắn hướng dẫn người môn đệ của Chúa trong cuộc giao tranh, giằng co với tinh thần lụy bại hư đốn của tinh thần thế tục đễ diễn tả lý tưởng cao đẹp của thánh thiện siêu thoát ngay trong cuộc sống trần gian của mình! Đã có biết bao những trí óc miệt mài suy tư về lý tuởng cao vời của Tám-Mối Phúc-Thật", đã có vô số những sách vở, bài giảng, suy niệm về đề tài nầy, đã có biết bao những quảng diễn, những học hỏi, những trao đổi về Tám-Mối Phúc-Thật", thì có thêm cuốn cuốn sách nhỏ nầy, thiết tưởng chỉ là việc đem muối đỏ xuống biển mà thôi!

Tuy vậy, tôi vẫn can đảm, dám mão muội viết  lên những lời suy tư khiêm tốn nầy với mục đích là minh chứnng rằng:"Tám-Mối-Phúc-Thật", không những hợp cho thời xa xưa mà thôi, mà còn giúp trả lời cho con người ngày nay một thời đại được mệnh là văn minh tiến bộ kỷ thuật cao độ, nhưng lại chất chứa đầy những thương đau thống khổ của con người!. Hãy nhìn kỹ cuộc sống của con người thời đại, hãy phân tách của cuộc sống xã hội hôm nay, chúng ta sẽ thấy vô vàn những ưu tư, những oắi oăm, những sầu muộn, những bí ẩn, những thắc mắc, những thách đố, những oan khiên, những tăm tối chìm khuất, những ngang trái thác loạn của thời đại hôm nay! Với niềm xác tín rằng sứ điệp "Tám-Mối-Phúc-Thật" của Chúa Cứu Thế có gía trị và ý nghĩa siêu vượt trên không gian và thời gian, chúng ta cần đặt thêm một điều kiện nữa là con người mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa cần liên tục giải thích dưới ánh sáng của kiến thức mới. Chẳng hạn, những khám phà mới về khoa khảo cổ học cho con người hôm nay những kiến thức sâu rộng hơn về các loại cổ ngữ, như hế đưa đến những cái nhìn mới mẽ về khoa Kinh-Thánh.

Ví dụ khác về những tiến bộ trong nhiều nghành của khoa tâm lý cho ta hiểu biết sâu rộng hơn về bản chất con người. Với nững kiến thức ngày càng sâu xa hơn, xác thực hơn về các khoa học tân tiến liên quan đến nhân bản, mỗi thế hệ, con người tự hỏi mình:" Tám Mối Phúc Thật của Chúa dạy cho thế hệ ta những gì về cuộc sống kitô hữu?Nhờ thế, Sứ-Điệp của chúa sẽ luôn mới mẽ cho mỗi thế hệ, khi con người đi truy tầm ý nghĩa và động lực thúc đẩy cho cuộc sống của chính mình.

Dẫu vậy, sự diễn giãi Tám-Mối Phúc-Thật cho con người của thời đại thuộc thời đại tân tiến hôm nay cũng cần phải được bắt đầu bằng sự hiểu biết về bối cảnh trong đó Chúa đã thuyết giảng.

Đọc kỹ Phúc Âm thánh Mathêô, ta thấy, "Tám-Mối-Phúc-Thật" được diễn tả trong mấy câu đầu của chương thứ năm, mang nhiều tính cách biểu-trưng(symbolic), câu đầu tiên cho thấy có sự hiện diện của đám đông dân chúng, chứ không phải chỉ có các môn đệ mà thôi! Cũng vì đáp ứng lòng khao khát "Nước-Trời của đám đông, đã bỏ lại đàng sau tất cả mọi sự để theo Chúa lên núi nghe Chúa, nên Ngài đã phán dạy họ Lời Hằng Sống!

Mặt khác, theo não trạng của dân Do-Thái, và các nhóm tôn giáo thời đó, người ta thường có thói quen coi "Núi" là nơi ngự trị của thần linh. Họ thường thách đố nhau về nơi chốn ngự trị của thần luinh của mình bằng những cách diễn tả đại khái như: "Chúa chúng tôi ngự trên núi cao" đều đó có nghĩa: Chúa của họ là vị Chúa Tể Cao-Cả Nhất, Đấng Quyền Năng Vô Đối. Và do đó lêo lên nói có nghĩa là ước muốn được gần với Thiên Chúa hơn. Hành độnh lên lên núi của Chúa Kitô ám chỉ một lời mời gọi dân chúng tiến bước lên gần hơn trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Khi Chúa bắt đầu ngồi xuống, dân chúng hiểu ngay là Ngài sắp giảng dạy họ theo như cách thế các thầy Rabai thường giảng dạy các môn sinh của họ. Dân chúng gồm đủ các thành phần, thuộc mọi cơ tầng trong xã hội, thuộc mọi hạng tuổi tác:gìa, trẻ, nam, nữ, và cả các em thiếu nhi nữa! Tất cả đoàn lũ ngồi xuống vây quanh chân Chúa khao khát nghe lời Ngài giảng dạy!

Sám Hối, Điều Kiện Đón Nhận Nước Trời

Phân tách "Bài Giảng Trên Núi", ta thấy có hai ngôn từ cần chú ý đặc biệt, vì những ngôn từ nầy đã là đề tài của nhiều bàn thảo, nhiều bất đồng quan điểm. Đó là từ ngữ"Được chúc phúc" và chữ "vương quốc". trong tiếng Do-Thái, thì chữ "được chúc phúc" (blessed) là một tán-thán-từ (exclamation), nghĩa là bày tỏ một sự ngạc nhiên, một lời kêu lên một cách lạ lùng. Chữ "được chúc phúc nơi đây có thể dịch sang tiếng Việt là:"Phúc Thay" hoặc "Hạnh Phúc Biết bao", hoặc "Có Phúc Thay". Xét theo văn mạch, mở đầu "Bài Giảng Trên Núi, Chúa Cứu-Thế đã không chỉ đề cập đến các phúc đức mà càc môn đệ của ngài sẽ được, nhưng Ngài đã tuyên dương tình trạng họ được chúc phúc:" Phúc Thay Cho Các Con Là Những Kẻ......Biết Cây Dựa vào Thiên Chúa...Biết Thương Xót, Có Lòng Từ Tâm..Biết Khao Khát Điều Công Minh Chính Trực...

Có Trái Tim Trong Sạch...Biết Kiến Tạo Hoà Bình....Có Lòng Can Đảm Chịu Bách hại Vì Chân Lý.....Nghĩa là Chúa tuyên dương trạng thái tâm hồn của họ được Thiên Chúa chúc phúc...Họ là những kẻ được gọi là có phước, bởi chưng  họ đang ở trong trạng thái đáng được chúc phúc.....

Nói tóm lại, Chúa gọi các môm đệ và những ai đang lắng nghe Ngài vì họ đã theo Ngài, đã muốn tham dự vào phần của Nước Trời mà Chúa Cứu Thế đang thiết lập. Tình trạng được chúc phúc nầy không phải do công lao riêng tư của họ, nhưng là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa đã khấng ban xuống cho  họ.

Một đều khác cần lưu ý là thánh Mathêu dùng chữ "Nước-Trời(Kingdoom of Heaven) mà không xử ddụng chữ"Nước Thiên Chúa", lý do là thánh Mathêu viết Phúc Âm cho cộng đoàn người Do-Thái. Người Do-Thái, như chúng ta đã thấy, dùng nhiều ngôn từ ám chỉ Đấng Thánh, chẳng hạn như chữ Lord có nghĩa là chủ tể, hoặc Chúa. Riêng danh từ " Yahvêh " mà ta dịch là Thiên Chúa,  thì người Do-Thái lại dùng để ám chỉ Tên Riêng của Thiên Chúa. Nghĩa là Thiên Chúa của người Do-Thái có tên gọi riêng là "Yahvêh"!

Theo truyền thống văn hóa của người Do-Thái, tên gọi một người hoặc một vật gì nói lên cá tính của người hoặc vật đó, tên đồng hóa với chính đều được gọi tên, nói khác đi tên của một người đồng thời cũng là thẻ căn cước của người đó, tên là đặc tính của người đó. Nói đến tên tức  là nhắc đích danh người đó, giữa người và tên có một sự  hổ tương, một mối liên heệ đich thực. Tên tức là người vậy! Người Do-Thái nhận thức được rằng: thật là khó để biết được một cách đầy đủ trọn vẹn huyền nhiện của Thiên Chúa họ tôn thờ, nên đã nhiều thế kỷ trôi qua trước thời Cúa Kitô, họ đã không còn dám kêu tên cực thánh của Thiên Chúa. Trung thành với truyền thống đuợc áp dụng trong các cộng đồng người Do-Thái, thánh Mathêu đã có dụng ý khi xử dụng chữ "Nước Trời" thay vì chữ  "Nước Thiên Chúa"!

Riêng về từ ngữ "Vương Quốc", một từ ngữ nghe ra như lỗi thời, và có thể gây nên nhiều ác cảm, nhiều ngộ nhận cho con người sống trong xã hội dân chủ ngày ngày nay. Với người mang nặng nhiều não trạnh dân chủ, hai tiếng "vương-quốc", không những chỉ  gây lên những ấn tượng tiêu cực đối với tinh thần dân chủ mà thôi, mà còn làm cho nữ giới hồi tưởng đến một thời kỳ đen tối của lịch sữ trong thời kỳ đó, người có quyền trong vương quốc thường lạm dụng quyền hành của mình để đàn áp kẻ kẻ khác, biết bao người chịu thống khổ vì sự lạm dụng quyền bính trong các vương qquốc, đặc biệt là nữ giới,những người bị coirẽ như những thứ đồ chơi giải trí của những kẻ thống trị!

Vậy để thấu triệt ý nghĩa của"Tám Mối Phúc Thật"chúng ta cần am hiểu ý nghĩa từ ngữ đối với Chúa Cứu-Thế cũng như đối với quần chúng đang có mạt khi họ lắng nghe Chúa giảng. Thật sự, khi Chúa Kitô nói về "Nước-Trời" các thính gỉa của Chúa hiểu được Chúa muốn nói với họ những gì: Chúa muốn bày tỏ một chân lý nền tảng căn cơ nầy là: Thiên Chúa đã sáng tạo nên thế giới, và Ngài có đủ quyền hành để cai trị thế giới một cách vô hạn định. Chúa biết Ngài phả bày tỏ cho các thính giả nghe Ngài giải thích tường tận rõ ràng về bản tính của vương quốc của Thiên Chúa. Dân chúng hiểu ngay sứ điệp của Chúa về vương quốc, vì chính lòng trí họ đang khát khao chờ mong một vị đến giải phóng họ khỏi vòng thống trị tàn ác của đế quốc La-Mã. Chính lòng trí dân chúng đang kỳ vọng vào Chúa Kitô là người đến để thực thi niềm mơ ước giải phóng của họ! Chúa biết lòng dân chúng mong ước như thế, cho nên trên cuộc hành trình rao giảng về "Nước-Trời" nhiều lần Chúa đã bỏ trốn lên núi ẩn thân vì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua!

Ý niệm của Chúa Kitô về "Nước-Trời" hoàn toàn khác biệt vói ý niệm và não trạng của quần chúng. Chính Chúa cũng thấy khó để hoán cải lòng dân chúng, vì lòng họ chỉ đợi trông vào một vương quốc trần thế, một vương quốc độc lập, tự do, thoát khỏi vòng thống trị của quân La-Mã. Cũng vì lòng dân mê muội khó chấp nhận ý niệm về "Nước Chúa" đúng theo thực chất của ngôn từ, Chúa Kitô đã vận dụng nhiều kiểu cách, bằng nhiều hình ảnh của dụ ngôn khác nhau để giải thích về bản chất của"NướcTrời"với hy vọng sửu sai ý niệm sai lầm của quần chúng đương thời về "Nước Thiên Chúa" và sứ mệnh của Đấng Thiên Sai".

Đọc kỷ các dụ ngôn về "Nước Trời" và các lời giải thích của Chúa Kitô, chúng ta ý thức được "Nước Trời" ở đây được ám chỉ các hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới. Vậy nói đến "Nước-Trời" tức là nói đến bàn tay hành động của Thiên Chúa trong lòng trần thế. Một khi Thiên Chúa ban cho con người có ý chí và tự do, Ngài không bó buộc ai, cũng không nài ép ân phúc trên bất cứ ai. Như thế, "Nước trời được ví như " Kho-Tàng"  hay "Viên ngọc Quý" được chôn dấu trong ruộng, người ta phải khổ công tìm kiếm lắm mới mong thấy được. "Nước Trời , vì thế, cũng giống như chất "Men" được ẩn tàng trong bột, một khi "Men" dậy lên rồi, sẽ làm thay đổi tất cả bản chất của thúng bột! Hành động của Thiên Chúa cũng được cảm nghiệm như "tiềm năng", như "sự lôi cuốn, "sức hấp thụ" thu hút, cảm hóa và lôi cuốn con người đi tìm kiếm chân thiên mỹ, đang tiềm tảng, đang phảng phất e-ấp trong thế giới hiện thực nầy. Sự hiện diện của Thiên Chúa, vì thế cũng đang trở thành hiện thực cho những ai có niềm tin biết nhìn chân lý đàng sau những gỉa tướng của thến giới vô thường nầy." Nước Trời" vì thế sẽ mọc lên tiệm tiến, nhưng vững mạnh, như hạt cải nhỏ bé khẳng khiu trồ thành cây cải tươi tốt thu hút chim trời đậu xuống làm tổ trên cành!

Nghịch lý của "Nước Trời" là ở chỗ nầy: tức là, một đàng"Nước Trời tuy đã hiện thực trong thế giới qua tác động của Thiên Chúa trong trần gian, nhưng lại dường như chưa hoàn toàn thành tựu viên mãn. Có một cái gì đó chưa hoàn toàn, chưa thành tựu, chưa viên mãn, chưa chín muồi, chưa trọn vẹn, chưa cánh chung!  Phần ưu tiên lớn lao của nhân loại là họ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi vào để hợp tác với Ngài hành động nhằm đưa "Vương quốc " của Ngài đến chỗ hoàn bị trăm phần.

Nhưng đáng buồn thay! Có một số hành động của nhân loại, có một số những ý hướng của con người đã không đi theo đường lối của 'Trời Cao, đã làm đình trễ , nếu không muốn nói là đã làm trật đường rầy, hoặc làm trì hoãn, phá hoại, xuyên tạc  những hành động của Thiên Chúa. Lịch sử của nhân loại được coi như một màn thãm kịch siêu hình trong đó Thiên Chúa không hoàn toàn thành tựu ý định tốt đẹp của ngài vì những hành vi sai quấy của con người tự do. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa không chịu thua tội lỗi và sư hư đốn của con người. Thiên Chúa tiếp tục mời gọi những con người thành tâm thiện chí qua giòng lịch sử và qua các nền văn hóa. Những tâm hồn tông đồ, những trái tim của những kẻ biết tin trung kiên luôn được nhận được lời khích lệ và thách đố nhằm lướt thắng những trở ngại, biết phấn đấu những gian nguy để mở rộng lối đường cho hành động của Thiên Chúa được nở hoa và thành quả phong phú mỹ mãn!

Để cộng tác với hành động của Thiên Chúa trong cõi thế trần, tâm hồn tông đồ và trí lòng của những ai tin kính sùng mộ hãy biết mở rộng cho một nhận thức sâu xa, sắc bén quyền lực huyền diệu của "Tám-Mố-Phúc-Thật", cần có thêm một sự quyết chí dấn thân tươi trẻ đưa lý tưởng của Phúc Âm sống thực giữa lòng  đời. Nói cách khác, Lời-Chúa không chỉ là lý tưởng để nhìn ngắm mà thôi, mà cần phải đem vào cuộc hiện sinh của con người.

Sống trên trần thế, con người bị vây hãm bởi biết bao tiếng mời gọi! Tiếng gọi của tình yêu, tình ái, tình dục: nhưng sẽ có một giờ phút, tất cả những tiếng gọi mời nầy sẻ im lặng, khi sự chết lên tiếng gọi. Bây giờ còn tại thế, con người bị mê hoặc bởi nhiều thứ lý tưởng: nào lý tưởng Tình, Tiền, Danh Vọng, nào lý tưởng vợ đẹp con ngoan, lý tưởng nhà cao cữa rộng, lý tưởng các tiên nghi, lý tưởng ăn chơi giải trí, v.v... Nhưng có một ngày, và chắc chắn có một giờ phút không ai ngờ, tất cả lý tưởng đều tan tành như mây khói, khi thần chết xuất hiện thúc dục con người lên đường trở về với nguyên thủy định mệnh! Chỉ còn Lời Thiên-Chúa ở lại với con người! Lời của Chân-Thiện-Mỹ. Lời của Chúa đã có một lần đi vào cuộc đời, Lời đã biến hành huyết nhục và cư ngụ giữa con cái loài người( John 1, 14).

Trên giòng lịch sử nhân  loại, đã có nhiều học thuyết xuất hiện, đã có nhiều giáo phái ra đời nhằm cung hiến cho nhân loại con đường giải thoát. Tất cả đều tốt đẹp, bổ ích! Nhưng tất cả đều có giá trị tương đối, tất cả rồi cũng mai một tàn phai với gìng thới gian! Bởi vì tất cả là chỉ là kết qủa của những tư duy của con người, là sản phẩm của loài người, sẽ lụi tàn với số kiếp hay chết của con người. Lời Của Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại, không như một lý thuyết thuần túy như trăm nghìn lý thuyết khác, nhưng đây là Lời của Tình-Yêu-Nhập-Thể, Lời của Thiên- Chúa- Làm- Người để cứu chuộc con người. Chính Lời Thiên Chúa sẽ lặng lẽ thì thầm với hồn ta trong mỗi giây phút của cuộc sống. Lời của Ngài sẽ là Ánh-Sáng soi đường dẫn lối cho người lữ hành cô đơn trên đường về Đất-Hứa! Lời của Ngài như thần lương nhật dụng ban cho ta sự Sống. Lời của Ngài sẽ là người bạn đường giúp ta tìm kiếm được ý nghĩa nhân sinh. Lời Ngài là bản Tình-Ca hạnh Phúc tuyệt vời hôm nay và mãi mãi ngày mai nơi Quê-hương Thiên-Quốc. Lời Ngài, là Lối dẫn ta đi vào hạnh phúc chân thực, viên mãn!

Rev. Nguyễn Quốc Hải, Ph.D.