Nha Trang ngày xưa |
Tác Giả: Trần Đăng Hồng | ||||||||
Thứ Sáu, 02 Tháng 1 Năm 2009 22:32 | ||||||||
Sông kia rày đã nên đồng
Vào thế kỷ thứ 1 sau dương lịch, người bản xứ ở Nha Trang thuộc sắc tộc hải đảo Malayo-Polynesien, thuộc nước Phù Nam, theo văn hoá Ấn Độ, và đến khoảng thế kỷ thứ hai mới thuộc Chiêm Thành, tức Nam Chiêm (Panduranga) có lãnh thổ từ Khánh Hoà đến Bình Thuận. Kể từ thế kỷ thứ hai, dưới thời Lâm Ấp (Chiêm Thành), hải cảng Chutt và Kamran là nơi thuyền buôn từ Ấn Độ tấp nập đến buôn bán, và truyền bá văn minh, văn hoá, tổ chức xã hội, kỷ thuật hàng hải, thương mại, nông nghiệp của Ấn Độ. Đạo Bà La Môn và Phật Giáo (Tiểu Thừa) thịnh hành ở Nam Chiêm. Như vậy, Phật Giáo ã có ở Nha Trang từ thế kỷ thứ 2, và từ Nha Trang Khánh Hoà, văn hoá Ấn Độ được truyền sang Bắc Chiêm, vốn bị ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa (nhà Hán). Vào thế kỷ thứ bảy, nhiều thuyền buôn từ Trung Đông như Iraq, Oman, rồi Java và Mã Lai cặp bến Nha Trang và Cam Ranh để buôn bán và truyền đạo Hồi Giáo. Các nhà hàng hải Âu Châu như Hoà Lan, Bồ Đào Nha cặp bến Nha Trang buôn bán vào thế kỷ 15. Như vậy, dưới thời Chiêm Thành, Nha Trang vừa là trung tâm tôn giáo (Tháp Bà), vừa là hải cảng phồn thịnh tấp nập thuyền buôn ngoại quốc, và cũng là căn cứ quân sự của Chiêm Thành. Nha Trang có một vị trí chiến lược quan trọng. Năm 774, quân Nam Đảo (Indonesia) đổ bộ vào Nha Trang đốt Tháp Po Nagar và cướp đi nhiều báu vật. Từ hải cảng Nha Tran g và Cam Ranh, vào những năm 803 và 808, Chiêm Thành mang thuyền chiến tấn công vào Châu Hoan và Châu Ái của Đại Việt, rồi đem thủy quân trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java, và Patani ở Malaysia, rồi chiếm đất Đồng Nai Thượng của Khmer; năm 808 lại tấn công Châu Hoan, Châu Ái; năm 817, tấn công Kambujas (Kampuchia). Năm 1600, các hải cảng Nha Trang và Cam Ranh được Chiêm Thành trang bị đại pháo tối tân mua của Châu Âu để phòng thủ chống với Việt Nam. Nha Trang thuộc về Việt Nam từ năm 1653. Chúa Nguyễn đưa di dân từ Quảng Nam Bình Định đến Khánh Hoà, và di dân Việt sống xen kẻ với người Chăm từng cụm như da beo. Xung đột Việt Chăm thường xảy ra ở vùng đất này, phần đông do tranh chấp ruộng đất, phần thua thiệt về người Chăm. Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu phải thoả thuậ n 5 điều khoản để bảo vệ quyền lợi và đối xử công bằng với người Chăm. Vào thế kỷ 18, nhiều nhà truyền giáo Âu Châu tường trình còn thấy nhiều làng người Chăm ở gần Nha Trang. Ngày nay không còn thấy làng người Chăm nào nữa. Hiện nay, trong Vịnh Vân Phong, có một đảo nhỏ tên Hòn Điệp (hay Hòn Bịp), cách bờ trên 10 km, trên đó có một sắc dân sống cô lập trong vài chục căn nhà, không giao tiếp với thế giới bên ngoài, người Việt ở Vạn Ninh gọi họ là "Dân Đàng Hạ" hay "Người Hạ". Dân đảo có nước da ngâm đen, tai tái, có đôi mắt trắng xác, ít nói; không khiêng gánh như người Việt mà đội trên đấu. Vào đầu thập niên 30, quan huyện Vạn Ninh gọi tất cả dân đảo này vào ghi danh lập sổ Bộ Đinh, nhưng=2 0khi hỏi tên họ, thì chỉ có tên mà không có họ. Cuối cùng, quan huyện bảo: "Thôi thì đàn ông lấy họ Đinh, còn đàn bà lấy họ Trần vậy". Xét qua phong tục, tập quán và hinh dáng con người, có lẽ đây là những người Chăm còn tồn tại ở Khánh Hoà cho tới ngày nay. Vào thời Chúa Nguyễn và Tây Sơn, Nha Trang là một hậu cần cung cấp lương thảo với kho lương thực Phước Sơn và xưởng đóng tàu chiến tại chân núi Trại Thủy (còn gọi Khô Sơn) ở Phương Sài ngày nay. Bến sông Phương Sài ngày xưa gọi là "Trường Cá". Thành Diên Khánh, vào thời Nguyễn được gọi "Nha Trang Thành" (theo Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn Siêu đời Tự Đức), là nơi tranh chấp đẫm máu nhiều lần giữa chúa Nguyễn vA 0 Tây Sơn. Diên Khánh lọt vào Tây Sơn năm 1776. Tháng 5 năm Quý Sửu (1793), chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tánh đem thủy quân vào cửa bể Nha Trang, đánh phủ Diên Khánh. Một trận đánh khốc liệt giữa quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn tại Phương Sài tháng 5 năm 1793: "Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá. Hai bên kịch chiến. Người chết, thuyền chìm đầy cả khúc sông". Nguyễn Ánh chiến thắng, tiến lên chiếm Diên Khánh (tháng 5, 1793), sau đó tiến chiếm phủ Bình Khang (Ninh Hoà), Phú Yên, rồi tiến đánh Qui Nhơn. Vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, Tây Sơn), sai Ngô Văn Sở đem 17,000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cùng tiến vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Vương, li=E 1u thế chống không nổi, rút quân về hậu cứ Diên Khánh, rồi về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh. Tháng 11 năm 1793, chúa Nguyễn Ánh sai hoàng tử Cảnh, giám mục Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê đến Diên Khánh tăng cường phòng giữ. Tháng ba năm Giáp Dần (1794) vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh bèn đem đại binh đến đánh giải vây, Trần Quang Diệu rút quân về. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, nên về lại Gia Định, để Võ Tánh giữ thành Diên Khánh. Tháng giêng năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem thủy quân vào đánh Diên Khánh. Một trận chiến khốc liệt khác cũng xảy ra tại TrB 0ờng Cá (Phương Sài). Khi thủy binh của Trần Quang Diệu vào Sông Cái thì bị quân Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá, hai bên tổn thất nặng nề "xác chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông"(3). Do bị thiệt hại nặng về nhân mạng, Võ Tánh rút quân chạy vào thành Diên Khánh cố thủ. Trần Quang Diệu vây chặt thành. Hay tin, tháng Hai năm 1795 Nguyễn Phúc Ánh liền đem thủy binh ra cứu nhưng không lên nổi Diên Khánh nên đành phải đóng quân chận nơi cửa sông Nha Trang và các nơi núi non hiểm yếu. Quang Diệu đánh mãi không được cuối cùng phải lui về Phú Xuân, và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định. Kể từ nay cho đến ngày thống nhất đất nước (1802), Diên Khánh trở thành tiền đồn của chúa Nguyễn, lần lượt do Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần ThB 0ờng, Võ Tánh cai quản, và sau này là nơi xuất phát tấn công Tây Sơn ở phía bắc. Khu đất phía ngoài Cửa Nam Thành Diên Khánh có tên Mả Xá, là nơi hàng ngàn chiến sĩ của hai bên được chôn vùi tập thể, một thời có tiếng là ma oan hiện về khuấy phá.
Sông Cái Nha Trang phát xuất từ ba nguồn thuộc dãy Trường Sơn. Sông này tên Chăm là Ya-Tră (người Việt phát âm thành Nha Trang), hai bên bờ toàn lau sậy nên còn gọi "Sông Lau". Ở thế kỷ 17, sông này chảy ra biển theo ba nhánh, một nhánh có tên là Ngư Trường từ Cầu Dứa chảy ra Cửa Bé Cù Huân, như ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Hai nhánh kia chảy ra Cửa Lớn Cù Huân (sau này thành Xương Huân). Sông Ngư Trường sau này đã bị bồi đấp và biến mất, chỉ còn vài=2 0đoạn nhỏ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí: "Tấn Cửa Bé Cù Huân ở cách huyện Vĩnh Xương 29 dặm về phía đông nam, cửa lạch rộng 190 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Ngoài cửa có hòn Lam Nguyên, hòn Tằm, hòn Ba La, hòn Lớn, hòn Môn, các đảo nầy bao quanh, tàu thuyền tụ tập. Gió bắc thì tàu đổ phía nam núi, gió tây thì đổ phía bắc núi, đều được an ổn. Gần đó có thôn Trường Tây". Vì vậy, trứớc 1940, dân vùng Diên Khánh gọi Nha Trang là "Cửa", và "Cửa Bé" là địa danh Trường Đông, phía nam Cầu Đá. Sông Cái đến địa phận Nha Trang thì chia hai nhánh, nhánh cầu Hà Ra và nhánh cầu Xóm Bóng bên Tháp Bà. Ngày xưa nhánh sông bên Tháp Bà "nước giữa dòng bên trong bên đục" bên nước trong xanh uống ngọt, bên kia màu đ5c uống vô mặn chát nước muối.
Từ thời vua Minh Mạng (1820-1837), tỉnh Khánh Hoà có Ty Bố Chánh và Ty Án Sát, đặt dưới quyền của viên quan Tuần Vũ Thuận Khánh (kiêm nhiệm cai quản từ Khánh Hoà đến Bình Thuận). Tuỳ theo tình hình chính trị, chức vị đầu tỉnh khi mang tên Tổng Đốc, khi Tuần Vũ quan phòng, sau này thành Tỉnh Trưởng. Hậu bổ Khánh Hoà năm 1842 là ông Trần Thiện Chánh (mà ca nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Nhật Trường, là hậu duệ). Quân Pháp đặt chân đến Nha Trang lần đầu là năm 1862. Vị Án Sát Diên Khánh năm 1867-1870 ở Diên Khánh là Nguyễn Thông. Năm Ất Dậu 1885, chiếu theo hiệp ước Patenôtre, quân Pháp chính thức đến Nha Trang, với viên Công Sứ Pháp đầu tiên là Lenormand, bắt đầu áp đB 7t chánh sách cai trị Khánh Hoà. Viên Tuần Vũ Việt Nam của triều đình Huế ở Thành Diên Khánh vào khoảng năm 1886 là Ông Trương Gia Hội. Các ông Nguyễn Thông và Trương Gia Hội đều là những vị quan tài giỏi, liêm khiết, có tâm huyết, của triều đình Huế ở Thuận Khánh (Khánh Hoà Bình Thuận), có công phát triển nông nghiệp, lập dinh điền, và là người có công khám phá vùng Di Linh Lâm Đồng mười năm trước khi Bác sĩ Yersin khám phá vùng này và Đà Lạt. Dưới thời vua Đồng Khánh, các tỉnh Bình Định, Phú yên, Khánh Hoà và Bình Thuận được gọi là các tỉnh Tả Trực Kỳ, vào năm 1886 cai quản bốn tỉnh này bởi vị Khâm Sai là Phan Liêm, con thứ ba của Phan Thanh Giảng, và Phó Khâm Sai là Phạm Phú Lâm (con quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ trong phái bộ sang Pháp=2 0chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ). Theo hiệp ước Patenôtre (06/06/1884) thì triều đình Huế - chính phủ Nam Triều - trên danh nghĩa cai quản một lãnh thổ nhỏ hẹp từ Khánh Hoà đến Đèo Ngang, trong thực tế mọi chuyện ở địa phương đều do Pháp định đoạt. Vào năm 1890, Ông Phan Liêm được Pháp và triều đình Huế cho làm Tổng Đốc Thuận Khánh. Một trong những tổng đốc khét tiếng tàn ác ở vùng Bình Thuận Khánh Hoà cho tới Bình Định, khoảng năm 1887, là Trần Bá Lộc. Ông theo Pháp, giúp Pháp đắc lực trong việc dẹp tan và giết hại không biết bao nhiêu chiến sĩ Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định theo vua Hàm Nghi và chống Pháp. Chỉ trong một năm (từ tháng 6 năm1886 đến tháng 6 năm 1887) cùng với thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier, Trần Bá Lộc dẹp ta n được Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định. Theo "Sài Gòn Năm Xưa" của Vương Hồng Sển thì cả năm trời quân Pháp không dẹp được quân Văn Thân ở hai tỉnh này (Bình Thuận và Khánh Hoà), khi bắt được địch quân thì người Pháp chỉ nhốt vào khám. Ngược lại, khi làm Tổng Đốc Thuận Khánh, chỉ trong vòng ba tháng thì Trần Bá Lộc dẹp tan Văn Thân: khi bắt được địch quân thì chặt đầu tức khắc, "chém người như chém chuối, chém không chừa một con đỏ". Còn đối với địch binh không chịu qui hàng, thì ông "sai bắt cha mẹ vợ con người đó đóng gông cầm tù, ra hạn trong bao lâu đó nếu không qui hàng thì cha mẹ và vợ sẽ bêu đầu, trẻ con thì bỏ vào lòng cối giả gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết nem". Vì vậy, Cầu Sông Cạn=2 0ở Diên Khánh là nơi bao chiến sĩ anh hùng bị xử trảm. Trong cuộc thám hiểm Đà Lạt năm 1893, Bác sĩ Yersin bị phục kích bắn bị thương ở rừng núi Phan Rang. Nhóm phục kích là tù chánh trị vượt ngục ở Phan Thiết do một người tên Thục cầm đầu. Một tuần sau, quân Pháp bắt được 40 trong số 56 người vượt ngục, trong số đó có viên chỉ huy Thục, giải về Diên Khánh xử trảm. Trong bức thư gởi mẹ ở Pháp, Bác sĩ Yersin ca ngợi kẻ tử tù này là "rất can đảm và trầm tỉnh khác thường" trước nhát gươm kết liểu cuộc đời. Trần Bá Lộc xú danh muôn thuở. Trong bài thơ "Viếng mộ Trần Bá Lộc" tại Cái Bè (Mỷ Tho) của nhà giáo Trần Văn Hương (nguyên Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH) năm 1919 có hai câu: "Mặt bia rờ rỡ ai khen thế,
Anh biết cho ch ăng hởi Dã Hàng! Viên Công Sứ (tức Tỉnh Trưởng) năm 1930 và 1933, lần lượt là Ông Bréda và Ông Destenay. Viên Tuần Vũ Việt Nam cùng thời là Ung Trinh (hay Trinh Ung). Vị Tỉnh Trưởng người Việt đầu tiên ở Nha Trang là ông Hoàng Phúc Hải. Tỉnh lỵ Khánh Hoà đặt trong nội thành Diên Khánh – nên được gọi Thành – cho đến 1945. Năm 1901, Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hoà, và từ đó đến 1945 tỉnh Khánh Hoà gồm hai phủ và bốn huyện, phủ Diên Khánh có hai huyện là Vỉnh Xương (Nha Trang) và Phước Điền, và phủ Ninh Hoà có hai huyện là Quảng Phước và Tân Đ nh. Vào đầu thế kỷ 20, ngoài hai địa hạt hành chánh biệt lập là tỉnh Khánh Hoà và thị xã Nha Trang, còn có hai cơ quan hành chánh đặc biệt gọi là Đại Lý (Délégation), như Délégation de Ba Ngòi và Délégation de Suối Dầu do một viên chức người Việt điều khiển gọi là Bang Tá. Về mặt hành chánh, Nha Trang, trước năm 1945, gồm nhiều đơn vị gọi là Phường, đặt theo thứ tự là Phường Đệ Nhất, Phường Đệ Nhị (1er quatier, 2 er quatier). Vùng ngoại ô Nha Trang gồm có Phường Sài (thường gọi Phương Sài), Phường Củi, Trường Đông (Cửa Bé), Trường Tây (Cầu Đá). Nghị định ngày 30/6/1924 của viên Toàn Quyền Đông Dương thiết lập thị trấn Nha Trang với bốn làng là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh và Phương Sài. Nghị định ngày 15/3/1944, thị trấn Nha Trang =C 4ược nâng thành thị xã với năm phường là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài và Phước Hải. Phước Hải trước 1944 gồm có Xóm Giá (chuyên làm giá) và Xóm Dương, nhà cửa thưa thớt, toàn là đồng cát, gò mả và cây ma dương. Năm 1945, tỉnh lỵ được dời từ Diên Khánh tới Nha Trang. Thời Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh Khánh Hoà gồm các quận Vạn Ninh, Ninh Hoà, Vĩnh Xương, Diên Khánh và Cam Lâm, với tỉnh lỵ Nha Trang. Ngày 27 tháng 01 năm 1958, bãi bỏ qui chế thị xã, chia Nha Trang thành hai xã, là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây, đều thuộc quận Vĩnh Xương.
Theo Gabrielle Vassal (4), một phụ nữ Anh có chồng Pháp là bác sĩ thú y làm tại Viện Pasteur, đã sống ba năm ở Nha Trang từ năm 1904, thì Nha Trang là một=2 0làng đánh cá nghèo nàn với khoảng 3 ngàn dân, đa số sống nghề đánh cá, nhà tranh, một ít là nhà ngói, có một khách sạn nhỏ của người Tàu, con nít còn ở truồng chơi ngoài đường. Đa số dân chúng bị bịnh mắt bét, mắt hột. Theo Gabrielle Vassal, so với vùng phụ cận Sài Gòn thời đó, thì Nha Trang quá nghèo nàn. Cửa Bé là cảng tàu tây phương cập bến, ở đó người Pháp có xây một hải đăng hướng dẫn tàu bè. Cửa Bé cũng rất nghèo nàn, cứ mỗi 15 ngày có một chuyến tàu bằng hơi nước chạy đường Sài Gòn Hải Phòng ghé cập bến Cửa Bé. Đường từ Cửa Bé đến Nha Trang là đường mòn nhỏ hẹp đầy ổ gà, với bụi cát và bùn lầy, với chiếc xe cọc cạch với con ngựa nhỏ thó. Đoạn quốc lộ qua Nha Trang cũng tương tự như20vậy. Cũng khoảng thời điểm này, Nha Trang có khoảng từ 20 đến 30 người Âu Châu, đa số là Pháp, gồm nhân viên hành chánh (đa số là thuế vụ) và quân sự Pháp, kỹ sư Lục Lộ (Công Chánh), Hoả Xa (bắt đầu xây dựng) và các nhà truyền giáo. Đứng đầu là vị Công Sứ (Résident Maire) Pháp. Về mặt kiến thiêt, Nha Trang lúc đó (1904) đã có Avenue de la Plage (Đại lộ Duy Tân) chạy dọc biển, dọc đó đã có Viện Pasteur (xây năm 1895), dinh Công Sứ (khu Tỉnh Trưởng), dinh Quan Năm (tức Bác sĩ Yersin, xây 1895) ở Xóm Cồn, vài nhà người Pháp, một khách sạn (có lẽ khách sạn La Frégate) dành cho người Âu Châu và Bưu Điện. Nhà của người Pháp xây bằng gạch tường quét vôi trắng, mái ngói nâu, nhà có 3 gian, mặt trước là hàng hiên, phía trước là một vườn hoa rộng. Mặt sa u là một nhà cách biệt gồm nhà bếp, phòng dành cho gia nhân người Việt khoảng 4-5 người. Chợ Nha trang vừa được xây (chưa phải Chợ Đầm), nền xi măng, mái ngói, còn nhỏ hẹp, chợ nhóm ngày hai buổi, sáng và chiều, trái cây, rau cải, cá mắm bán la liệt chung quanh chợ. Vào mùa khô thì chợ đầy bụi bậm, vào mùa mưa thì ngập nước phải lội có khi tới đầu gối.
được xây cất lại đầu thập niên 1930s, nền cao trên 1 m để tránh ngập lụt, dài và rộng thoáng hơn trước, dọc theo đường phố và bờ hổ có xây nhiều kiosks. Chợ này bị cháy hoàn toàn năm 1966, và được xây cất lại trên khu đất kế cạnh, vốn là một cái đầm được lấp. Đó là Chợ Đầm ngày nay. Con đường tB Lầu Quan Năm (Yersin) sát bờ sông, chạy dọc bờ tường Khu Công Sứ, có tên "Rue de l'Observatoire" , sau 1950 đổi thành đường "Thiên Văn" rồi "Nguyễn Bỉnh Khiêm". Cũng theo bút ký của Gabrielle Vassal, thì năm 1904, Nha Trang có 3 đầm nước, đứng ở Tháp Bà nhìn thấy rõ 3 đầm này. Hai đầm ở hai bên quốc lộ 1, nhỏ và cạn, sau này dần dần bị lấp, canh tác rau muống (địa danh Rọc Rau Muống), còn ít dấu vết đầm lầy khoảng 1950, và hoàn toàn không còn dấu vết vì xây dựng nhà cửa như hiện nay. Đầm lớn nhất là vị trí Chợ Đầm Nha Trang ngày nay, có một đoạn có bờ lát đá. Chung quanh Đầm là "Quai du Marché" – đường Bến Chợ. Trứơc 1950, Đầm rất sầm uất với ghe buôn bán tấp nập. Ở phía bắc Đầm có bến bán tre, lò o, nên có Xóm Lò O (ở góc đường Ng uyễn Bỉnh Khiêm, Bến Chợ). Sau 1966, Đầm này bị lấp để xây cất chợ Nha Trang ngày nay.
Công trình phát triển Nha Trang phải nói là nhờ Bác sĩ Yersin. Bác sĩ Yersin đến Việt Nam ngày 18 tháng 10 năm 1890, đặt chân đến Nha Trang ngày 29 tháng 7 năm 1891, và qua đời ngày 01 thảng 3 năm 1943, chôn trên một ngọn đồi nhỏ trong vườn cao su Suối Dầu. Viện Pasteur đựợc xây năm 1895 do Bác sĩ Alexandre Yersin chủ xướng. Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương Chevassieux trợ cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ bể Nha Trang, và cất tại Suối Dầu một trại nuôi trâu bò, lừa ngựa, cùng thỏ chu ột, dùng cho việc thí nghiệm. Năm 1896, ông được chánh phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc thú vật. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến thị sát Nha Trang và thăm viếng Viện Pasteur. Cũng năm này, Yersin chọn cái lô-cốt hai tầng bỏ hoang gần xóm Cồn tại cửa Sông Cái để xây nhà ông –Dinh Ông Năm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, nơi đây vốn là một đồn biên phòng rất lâu đời. Dinh Ông Năm mỗi bề khoảng 7m50, có 3 tầng. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc, có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn. Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen.=2 0Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu. Năm 1897, Bác sĩ Yersin cho nhập nội giống cao su vào trồng thí nghiêm ở Suối Dầu, và sau đó với sự cộng tác của kỹ sư canh nông Vernet, hơn 100 ha cao su được trồng vào năm 1909. Năm 1915, Bác sĩ Yersin cho trồng thí nghiệm cây kí ninh ở Hòn Bà để cung cấp thuốc trị sốt rét trong thời đệ nhất thế chiến. Bác sĩ Yersin cũng mở hai trại nuôi bò, một ở đảo Hòn Tre và một ở Suối Dầu. Về sau, bỏ đảo Hòn Tre, và bò ở Hòn Tre trở thành bò rừng.
Năm 1902, khi Ông Beau lên làm Toàn Quyền Đông Dương thay thế Toàn Quyền Paul Doumer, Ông bãi bỏ Nho Học thay vào bằng chữ Pháp, lập Y T=E 1 Cục, lập nhà thương, bưu điện, sở công chánh. Vì vậy, Nha Trang có một trường tiểu học kiểu mẫu dạy chữ quốc ngữ khánh thành năm 1906, đó là Trường Nam Tiểu Học Nha Trang. Toàn tỉnh Khánh Hoà vào năm 1906 có 24 truờng tổng. Ông Nguyễn Văn Hai đến nhậm chưc Án Sát tháng 11 năm 1905, là người có công xây dựng các trường học ở Khánh Hoà. Về tình trạng văn học và giáo dục ở Khánh Hoà đầu thế kỷ 20, Án Sát Nguyễn Văn Hai viết nhận xét năm 1911 « Dân cư hai tỉnh Thuận Khánh phần đông làm nghề nông, không chuộng văn học, sở xưng cư trú trong tỉnh phần nhiều là Nghệ Tỉnh ngụ cư. Ngưới làm việc phần nhiều học trò người Quảng Nam, Quảng Ngãi. Còn người bản tỉnh, ngoài những người làm ruộng và chăn nuôi, toàn là những ng ười ăn chơi. Lúc ấy, khuyến thị lập trường được 24 trường, mỗi trường tốn 2-3 ngàn đồng, trong trường, bàn ghế, vật dụng, màn trướng, khí mảnh đều đầy đủ. Ai nấy phấn khởi. Tại Bình Thuận, có Tú Tài Nguyễn Hiệp Chi hội họp các bạn lập liên thành thơ quán, uỷ người đến ta xin ta câu đối : Dư ngã tẩy trừ ô nảo cựu Vị quân diễn thuyết vũ đài tân Tại Khánh Hoà lập trường như vậy nhưng học trò vào học thí là một thời đại khác. Đáng cười. Nguyên nghĩ trẻ con được 8 tuổi đến số 30 trẻ thì thiết lập một trường Tổng. Lúc đó đi hiểu thị chỉ đến các nhà phú hào để kê số trẻ có thể đi học, mà con nhà nghèo không kê vào số ấy. Đến ngày mở trường thì phần nhiều con nhà nghèo đến học, con nhà khá thì ít. Trẻ con trước kia phần đông kê khai không vào học. Các giáo sư kê tên bẩm lên. Khi nghiêm sức lại thì một số con nhà giàu thuê con nhà nghèo mạo tên đến học thế. Giá thuê mỗi tháng 3 đồng hoặc 5 đồng. Ấy là cũng một=2 0câu chuyện buồn cười lúc đầu mới lập trường. Nhưng sau lại, nhà giàu thấy con nhà nghèo đi học chưa được năm ba tháng đã biết đọc sách, đọc bài, viết thơ, v.v., mới thấy học quốc ngữ có ích, khi đó mới cho con em đi học » (Tư liệu của Trần Văn Tư, Đăc San Võ Tánh/Nử Trung Học Nha Trang 31 Năm Nha Trang Viễn Xứ Nam Cali 2006, trang 270-271). Năm 1928, thầy Cung Giũ Nguyên đến dạy học ở đây với chức trợ giáo (instituteur stagiaire). Muốn được làm thầy giáo, phải có bằng Thành Chung và phải đậu thêm Bằng Khả Năng Sư Phạm (Brevet d'Aptitude peùdagogique) . Bằng này cần thiết để vào ngạch, nếu trong hai năm không đỗ thì bị sa thải. Thầy giáo trong thời này mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, chân mang dày hạ bóng nho1ng. Ngay cả các thanh tra người Pháp cũng khăn đóng, áo dài Việt nam. College de Nha Trang, tiền thân của Trung Học Nha Trang, sau này là Võ Tánh, thiết lập năm 1947 với một lớp duy nhất 1ère année (tức Đệ Thất) khoảng 30 học sinh, mượn lớp học của Truờng Nam, dạy theo chuơng trình Pháp Việt. Thầy Trương Văn Như làm hiệu trưởng đầu tiên (từ 1947 đến 1951). Về sau, Thầy Như mở trường tư thục tức trường Kim Yến. Thầy Võ Thành Điểm làm giáo sư hội hoạ từ 1947. Từ 1949, chọn được khu đất rộng, với sự giúp đỡ đặc biệt của Ông Tỉnh Trưởng đương thời Trần Thúc Linh trích từ ngân sách tỉnh, trường được xây cất và niên khoá 1952-1953, trường dời về vị trí ngày nay và mang tên Võ Tánh, gồm 8 phòng học (4 ở tầng trệt, 4 trên lầu) và dạy ch ơng trình Việt. Nha Trang có một nguyệt san đầu tiên, năm 1930, "Les Cahiers de la Jeunesse " viết bằng tiếng Pháp do thầy Cung Giũ Nguyên và Ông Raoul Sereone (nhân viên Hải Học Viện Nha Trang) chủ trương. Sân tennis trước Trường Nam cũng đã có vào năm 1903, dành cho người Pháp. Hải Học Viện Nha Trang được thành lập tại Cầu Đá năm 1921. Giám đốc đầu tiên là Armand Krempf. Công tác xây cất với đầy đủ trang bị khoa học và khánh thành ngày 01/01/1930. Hải Học Viện Nha Trang đã nổi tiếng quốc tế vì những nghiên cứu hải dương học kể từ năm này. Tháng Hai năm 1933, vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu đến thăm viếng. Ngày 01/01/1952, Hải Học Viện được trao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, vị giám đốc người Việt đầu tiên là Ông Ngô Bá Thành. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ và Giáo sư Nguyễn Hải có một thời làm việc ở đây. Thầy Nguyễn Hải cũng dạy Võ Tánh khoảng 1956.
Nha Trang vào năm 1905 khoảng 3,000 dân, tăng lên 40,000 dân năm 1943, 172,000 năm 1979, 213,500 năm 1989, và 340,000 năm 1998. Dân số Nha Trang tăng nhanh sau 1945 do mất an ninh vùng thôn quê, 1954 do dân di cư từ Miền Bắc chạy trốn Cộng Sản sống tập trung nhiều ở Xóm Mới Phước Hải, sau 1975 do di dân từ miền Bắc. Diện tích thành phố chính của Nha Trang năm 1 998 là 7,255 ha, nếu kể phụ cận là 238,000 ha.
Theo bia đá Võ Cạnh thì đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa từ Ấn Độ du nhập vào Nha Trang từ thế kỷ thứ hai, và từ nơi đây truyền bá đến Bắc Chiêm. Di tích Phật giáo nay không còn, nhưng di tích Bà La Môn Ấn Độ Giáo là di sản văn hoá Chăm tồn tại và được dân Việt bảo tồn. Theo lịch sử Chăm ghi năm 653 dân Chăm lập đền thờ vinh danh nữ hoàng Jagadharma đã đưa đất nước Chăm thanh bình thịnh trị. Đền thờ bẳng gỗ được xây trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông có tên Ya-Tră. Đó chính là tiền thân của Tháp Bà ngày nay. Vào thế kỷ thứ 7, Hồi giáo được các thuyền buôn Á Rập du nhập vào Nam Chiêm qua các cảng Nha Trang và Cam Ranh, nhưng không thịnh hành, mãi tới thế kỷ thứ 10 mới thành công nhờ các nhà truyền đạo Hồi giáo ở Java. Tuy nhiên, đạo này chỉ thịnh hành với người Chăm ở vùng Phan Rang trở vào mà thôi. Phật giáo Đại Thừa và lễ cúng Ông Bà được di dân Việt du nhập vào Khánh hoà kể từ năm 1653. Người Việt đến đâu đều thành lập làng xã, ở đó dân Việt xây cất Đình, Chùa, Miếu và Am. Đình là nơi thờ phượng các vị tiền hiền khai phá thành làng xã, hay các vị có công, các anh hùng, hay công thần do Triều đình chỉ định thờ cúng. Đình làng cũng là nơi chính quyền làng xã làm việc, nơi hội họp của dân chúng, nơi đình đám, lễ lạc, hội hè, hát bội, bài chèo v.v. được tổ chức. Đình xây với mái ngói âm dương, tường gA 1ch, nền cao, ở vị trí trung tâm của làng xã, trên mảnh đất cao ráo nhất trong làng. Nha Trang có Đình Xương Huân, Phương Câu, Phương Sài, Đình Ông (thờ cá Ông). Chùa là nơi thờ Phật, có vị sư trụ trì, có cổng tam quan, thường xây cất ở nơi tôn nghiêm, trên đồi cao, có nhiều cây cổ thụ. Miếu để thờ các oan hồn, tử sĩ, mỗi năm chỉ làm lễ bái một lần. Am là nơi tu thiền của một vài cá nhân, thường là nơi vắng vẻ. Ở Ngọc Hội, có chùa Kim Sơn là cổ kính nhất, có lẽ xây dựng từ 1708. Năm Canh Thân (1740), Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sắc cho đổi tên là Chùa Qui Tôn, lại ban cho biển ngạch. Ngoài ra, chùa An Dưỡng ở Thái Thông do Ngài Thiệt Phú xây dựng có lẽ cũng từ năm 1708. Một miếu nổi tiếng và cổ xưa nhất Nha Trang c2n tới ngày nay là một miếu thờ thần linh xây dựng năm 1795 trên một ngọn đồi ở Sinh Trung. Ngay sau khi lên ngôi năm 1802 vua Gia Long truyền lệnh xây dựng lại quy mô miếu này - Miếu Tinh Trung - để thờ các anh hùng, công thần, tử sĩ có công với Nhà Nguyễn. Địa danh Sinh Trung bắt nguồn từ Tinh Trung. Năm 1852, vua Tự Đức cho trùng tu lại và đặt tên Trung Nghĩa Miếu. Đức Từ Cung Thái Hậu (Mẹ vua Bảo Đại) thường đến cúng lễ hàng năm. Năm 1950, ngài hiến dâng miếu này cho Phật Giáo, và kể từ nay trở thành Chùa Kỳ Viên. Dân Nha Trang còn gọi là Chùa Núi. Vị hoà thượng đầu tiên toạ trì là Hoà Thượng Thích Thiện Minh. Chùa Hải Đức được Thiền Sư Sư Viễn Giác xây năm 1883, trong thành phố Nha Trang. Đầu tiên chỉ là một ngôi chùa nhỏ, có tên Duyên Sanh Tự. 9 0ến 1891, xây chùa lớn trang nghiêm hơn mang tên Hải Đức Tự. Năm 1943, Đại sư Bích Không dời chùa lên đồi Trại thủy, chùa hoàn tất năm 1945. Cũng trên đồi Trại thủy, còn hai chùa nữa là Chùa Long Sơn và Chùa Bửu Phong (hay Linh Sơn). Nổi tiếng là tượng Phật cao 9 m xây dựng năm 1963, cao 14 m kể cả bệ hoa sen. Leo 152 tam cấp. Các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo người Pháp đến Nha Trang từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Năm 1653 cha Dòng Tên là Phêrô Marques và năm 1655 một cha Giám Tỉnh Dòng Tên khác là Phanxicô Rivas đến giảng đạo tại trấn Khánh Hoà. Năm 1664, Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Société des missions étrangères) gởi Cha Chevreul đến truyền đạo ở các tỉnh Miền Trung, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc truyền đạo. Năm 1672, Cha Lambert de la Motte trên đường đi họp Công đồng Ðàng Trong cùng với hai cha Miền Nam tiên khởi là cha Giuse Trang và Luca Bền đến Chợ Mới giảng đạo.Thiên chúa giáo phát triển mạnh ở Khánh Hoà kể từ năm 1793, khi giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) được chúa Nguyễn Ánh sai đến tăng cường phòng thủ thành Diên Khánh cùng với hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê. Bá Đa Lộc bấy giờ là đại công thần của chúa Nguyễn Ánh. Nhờ vậy, các làng đạo Thiên chúa giáo thành hình đầu tiên ở Khánh Hoà là xóm đạo Hà Dừa (kế thành Diên Khánh), Bình Cang (giữa Thành và Nha Trang) và Ngọc Hội (Chợ Mới). Từ các địa phận này, Thiên Chúa Giáo được phát triển đến Nha Trang và các địa phương khác ở Khánh Hoà. Vào những năm 1858-1862, phong trào "Sát Tả" chống phá Thiên Chúa Giáo dưới thời Tự Đức, các làng này bị tổn thất khá nhiều nhân mạng, một số dân theo đạo bị đem xử trảm tại Cầu Sông Cạn. Tổng số con chiên của toàn tỉnh Khánh Hoà năm 1887 là 1210 người. Nhà thờ Núi , năm 1929, Nha Trang chưa có nhà thờ, có khoảng 300 con chiên, đa số làm nghề đánh cá, nông dân, một số ít là công chức. Tuy nằm trong thị xã, nhưng Nha Trang lại là họ nhánh thuộc giáo xứ Chợ Mới. Ngày Chúa Nhật, cha sở Chợ Mới lên Nha Trang làm lễ tại một ngôi nhà trên Avenue De La Plage, hiện nay là trụ sở Tòa Giám Mục. Nha Trang lúc bấy giờ trên phương diện kiến thiết cũng chưa có gì đáng kể ngoài khu chợ với vài dãy phố buôn bán và một số biệt thự của Pháp cất dọc theo bãi biển. Nha Trang vào năm này chưa có Chợ Ðầm và Nhà Thờ Núi. Ngay sau khi được cA D làm họ đạo Nha Trang, linh mục Vallet (Louis-Agrève- Célestin, 1869-1945, tạ thế tại bịnh viện Nha trang) chọn một ngọn đồi ở tây nam Nha Trang tức Núi Một để xây cất nhà thờ. Bắt đầu khởi công vào tháng 2 năm 1929, mất gần 3 năm để làm đường lên núi và chuẩn bị xây cất, năm 1932 mới thật sự xây cất, mãi tới Phục Sinh 1933 mới hoàn tất, nhà thờ Núi được Ðức Giám Mục Grangeon (Ðức Cha Mẫu) làm phép. Hơn một năm sau, nhà thờ Núi có thêm hai chuông lớn và đồng hồ còn lại cho đến ngày nay. Về sau Núi Một bị xẻ làm đôi thành con đường Nguyễn Trãi.
Đối diện với Tháp Bà bên kia Quốc Lộ 1, trên một ngọn đồi tuyệt đẹp là nhà Tập Dòng Sư Huynh La San, Tu viện Phanxicô, Ti u Chủng Viện Hoa Mai (thành lập năm 1954), nhà Nữ Tu Kín (khánh thành tháng 9 năm 1961). Cha Maurice Bertin thuộc dòng Phanxicô đến Nha Trang bắt đầu công việc xây dựng Tu Viên PhanXicô cùng với các cha Hugolin Lemestre, André Durand và Léonard Ramon, vào khoảng tháng 6 năm 1938 và gần hai năm sau, tháng 7 năm 1940, tu viện Phanxicô hoàn tất. Quốc lộ xuyên Việt bắc nam đi qua Nha Trang đã có từ thời Chiêm Thành, nhưng
Trên đường biển, từ những năm đầu 1900's, cứ mỗi hai tuần là có một chuyến tàu chạy Sài Gòn – Hải Phòng cặp bến Cửa Bé. Cửa Bé bấy giờ vừa có một hải đăng để hướng dẫn tàu. Tàu phải đậu ngoài khơi, hành khách là các công chức Pháp, lính Pháp, các kỹ sư lục lộ, v.v. phải chuyển qua ghe nhỏ để vào cửa sông Cửa Bé, ở nơi này có sẳn người "bản địa" để cỏng từ ghe vào bờ, và khiêng hành lý lên những xe nhỏ. Con đường chạy từ Cửa Bé đến Nha Trang vào năm 1904 được mô tả là đầy ổ gà và bụi bậm vào mùa khô, sình lầy vào mùa mưa. Đường xe lửa xuyên Việt bắt đầu thiết kế xây dựng ở V iệt Nam năm 1904, đoạn Phan Rang - Nha Trang hoàn tất năm 1912 với các ga Suối Dầu, Cây Cầy, Phú Vinh, Nha Trang, Ngọc Hội, v.v. Nhà nghỉ mát của vua Bảo Đại xây cất năm 1923 trên một ngọn đồi ở Cầu Đá. Có hai rạp hát cinê đầu tiên của Nha Trang vào cuối thập niên 1930s. Trên đường Độc Lập có rạp Abraham, năm 1953 ông Tôn Thất Đệ mua lại đổi tên thành rạp Tân Tân. Kế gần đó là rạp Tân Tiến, chủ là một người Ấn Độ. Rạp hát bội Thạnh Xương do ông Cò Xương thành lập khoảng 1940s để đáp ứng nhu cầu xem hát bội của dân Nha Trang ngày trước. Nha Trang nổi tiếng với phong cảnh đẹp tuyệt vời. Con dân gốc Nha Trang, trong nước cũng như ngoài nước, đều hãnh diện về quê hương của mình. Nha Trang còn nổi tiếng quốc tế. Tháng 6 năm 2003, Nha Trang được Câu Lạc Bộ các vịnh đẹp trên thế giới công nhận là một trong số 29 vịnh đẹp nhất thế giới. Tin vui này đến trể. Hơn một trăm năm trước (112 năm), vào một buổi sáng đẹp trời ngày 6 tháng 5 năm 1891, một thanh niên Pháp gốc Thuỵ sĩ, 28 tuổi, làm y sĩ trên một tàu hàng hải đã sững sờ trước phong cảnh hùng vĩ và thơ mộng của Vịnh Nha Trang.
Cám ơn các anh Trần-Đăng Nhơn và Trần-Đăng Lộc bổ túc và cho ý kiến.
2. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. 3. Quách Tấn (1969). Xứ Trầm Hương. Sài Gòn: NHB Lá Bối. 4. Gabrielle M. Vassal (1912). Mes trois ans d'Annam. Paris: Hachette. 5. Nguyên Hương. Lịch sử Giáo Phận Nha Trang. http://www.gpnt. net/giaophan/ lichsugpthem. htm 6. Trần Gia Phụng (2000). Quảng Nam Trong Lịch Sử, Toronto: Non Nước.
|