Nam Định |
Tác Giả: GS Tôn Thất Trình | ||||
Thứ Ba, 17 Tháng 5 Năm 2011 21:20 | ||||
Nam Định là một trong những cái nôi của nền văn hóaViệt Nam, là vùng đất nổi tiếng văn vật từ ngàn xưa Phần I : Đại Cương Vị trí và lảnh thổ Nam Định là một tỉnh đồng bằng ven biển, phía nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, tọa độ từ 190 55’ đến 200 16’vĩ độ Bắc và từ 106o 00’ đến 106o 33’ kinh độ Đông . Bắc giáp Hà Nam; Đông Bắc Thái Bình; Tây giáp Ninh Bình; Đông và Đông Nam nhìn ra vịnh Bắc Bộ. Nam Định là vị trí trung chuyễn giữa các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Bắc Trung Bộ. Thành phố - thị xã Nam Định cách thủ đô Hà Nội 90 km về phía Đông Nam ( theo quốc lộ 1A qua Phủ Lý, tỉnh lỵ Hà Nam) và cách Hải Phòng 80 km. Diện tích tự nhiên năm 2006 là 1 649,86 km2, khoảng 0.5 % diện tích tự nhiên toàn quốc, đứng thứ 50 về diện tích trong 61 tỉnh thành của cả nước. Tỉnh Nam Định thành lập năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ). Truyện thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh cho ta tưởng đến cuộc tranh bá trên đất Giao Chỉ, giữa dân bản xứ miền Núi ( Inđônêxia - Mường ) với dân miền biển “ Hải Hậu” họ Lạc thuộc nhóm Bách Việt trong dân Mân Việt - Phúc Kiến, di thực đến duyên hải phương Nam, dựng nên nước Việt đầu tiên là Âu Lạc hay Lạc Hùng, đóng đô ở dưới chân núi Tản Viên, Tổ Sơn của Việt Nam ( Nguyễn Đăng Thục, tập san Sử Địa năm 1970 ). Dư Địa Chí của Nguyễn Trải , quyễn sách đầu tiền viết về lịch sử và địa lý Việt Nam cho biết Hùng Vương chia nước Văn Lang ra làm 15 bộ. Bộ Giao Chỉ gồm Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình. Đầu đời Trần Nam Định là lộ Thiên Trường. Đời nhà Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 7 ( 1466 ) là thừa tuyên Thiên Trường. Năm Quang Thuận thứ 10 ( 1469 ) đổi là thừa tuyên Sơn Nam. Năm Hồng Đức thứ 21 ( 1490 ) gọi là xứ Sơn Nam. Năm Cảnh Hưng thứ 2 ( 1746) chia ra làm trấn Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Năm Minh Mạng thứ 3 ( 1822 ), trấn Sơn Nam Hạ đổi thành trấn Nam Định. Năm 1831, trấn Nam Định đổi thành tỉnh Nam Định . Năm 1965 Nam Định và Hà Nam sáp nhập thành tỉnh Nam Hà . Tháng 12 năm 1975 Nam Hà và Ninh Bình sáp nhập thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tách Ninh Bình và trở lại là tỉnh Nam Hà. Năm 1996, tỉnh Nam Định được tái lập. Hiện nay tỉnh Nam Định bao gồm thành phố Nam Định ( 15 phường) và 9 huyện và (thị trấn huyện lỵ : Mỹ Lộc , Vụ Bản ( thị trấn huyện lỵ là Gôi), Ý Yên ( Lâm ), Nam Trực ( Điền Xá), Trực Ninh ( Cỗ Lễ ), Xuân Trường ( Xuân Thượng ), Giao Thủy ( Ngô Đồng), Hải Hậu ( Yên Định ), Nghĩa Hưng ( Thịnh Long ); và 202 xã. Tính đến ngày 1-4- 1999 dân số của Nam Định là 1, 888,400 người, đứng thứ 3 trong các tỉnh đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 8 trong toàn quốc. Năm 2002 là 1931700 người và năm 2006 là 1975181. Theo sác xuất dân số gia tăng này, năm 2010, Nam Định đã trên 2 triệu người. Những đơn vị hành chánh có đông dân số ( năm 1999 ) là huyện Hải Hậu ( 281 000 ), huyện Ý Yên ( 242 000) thành phố Nam Định ( 241000 ). Nơi ít dân nhất là huyện Mỹ Lộc ( 65 000 ). Sác xuất tăng dân số trung bình thời kỳ 1989-1999 của Nam Định là 1.2 % Vào loại thấp so với các tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng. Huyện Ý Yên có sác xuất gia tăng rất thấp, nhờ thực hiện chánh sách qui hoạch gia đình đạt kết quỉa cao nhất tỉnh. Điểm đáng chú ý là từ năm thập niên 1990, tốc độ gia tăng của thành phố Nam Định càng giảm( ? ), tốc độ gia tăng cơ học có khi là âm. Có lẽ đặc biệt vào năm 1994 , khi GDP Nam Định tăng trưởng âm ( -1.9 % ), vì ngành công nghệ dệt Nam Định khủng hoảng trầm trọng, sản xuất đình trệ, nhiều nhà máy đóng cửa. Nam Định là tỉnh đồng bằng ven biển nhìn chung bằng phẳng, ít phức tạp, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Đồi núi thấp, độ cao 70- 122 m , chỉ chiếm diện tích nhỏ hẹp thuộc một số xã các huyện Vụ Bản, Ý Yên, tiếp giáp tỉnh Ninh Bình. Cao nhất là “núi” Gôi 122m , trên quốc lộ số 10 và giữa đường xe lữa nối thành phố Nam Định với thị xã Ninh Bình. Có thể chia địa hình tỉnh Nam Định ra là 2 vùng chính: vùng đồng bằng thấp trũng nội đồng và vùng đồng bằng ven biển. - Vùng đồng bằng thấp trũng, nội đồng bên trong đê gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường và thành phố Nam Định. Điểm thấp nhất nội đồng bên trong đê là huyện Ý Yên dưới mực nước biển 3m . Tổng diện tích vùng nội đồng khoảng 921 km2 . Nội đồng có bề mặt tích tụ dày phù sa màu mỡ, nhiều khả năng nông nghiệp thâm canh, cao năng . - Vùng đồng bằng ven biển gồm các huyện Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy , tổng diện tích 748km2 , chiếm gần 45 % diện tích toàn tỉnh. Vùng này được các trầm tích sông biển bồi tụ và hiện nay vẫn còn được phù sa bồi tụ. Nhưng nếu đắp đê thì vùng trong đê không còn được bồi nữa. Các huyện Hải Hưng vẫn đang có xu hướng lấn dần ra biển. Vùng ven biển hai huyện Giao Thủy và Nghĩa Hưng ở cửa Ba Lạt đang được bồi tụ nhanh, tốc độ tiến ra biển khoảng 100- 120m/ năm và cứ sau 5 năm lại mở rộng thêm diện tích khoảng 1500 - 2000 ha. Bờ biển Nam Định dài 72 Km, bị chia cắt mạnh bởi các cửa của sông Hồng là cửa Ba Lạt, cửa sông Đáy là cửa Đáy, và cửa sông Ninh Cơ là Lạch Giang . Thủy văn Nam Định có hệ thống sông ngòi khá dày đặc. Các sông đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam rồi đổ ra biển. Các sông chảy qua địa phận Nam Định phần lớn phụ thuộc hạ lưu, nên lòng sông rộng và không sâu lắm, có quá trình bồi đắp phù sa ở cửa sông . Dòng chảy quanh co, uốn khúc, tạo hình móng ngựa rõ nét ; tốc độ sông chảy chậm, độ dốc lòng sông nhỏ . Hằng năm các sông đổ ra biển một lượng nước và phù sa rất lớn. Đặc điểm địa hình và khí hậu chia chế độ nước sông ra làm hai mùa rõ rệt : mùa lũ và mùa cạn . Mùa lũ, lưu lượng nước các sông khá lớn; gặp lúc mưa to kéo dài, nếu không có hệ thống đê điều ngăn nước thì đồng bằng sẽ ngập lụt ( vào mùa lũ , mực nước sông Hồng cao hơn mặt đồng bằng Nam Định khoảng 10-12 m ) . Vào mùa cạn , lượng nước sông giảm nhiều, các sông chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều khiến cho các vùng cửa sông bị nhiễm mặn . Các sông lớn là sông Nam Định còn gọi là sông Đào , sông Ninh Cơ và sông Hồng . Sông Đào uốn lượn nối sông Hồng với sông Đáy, dài hơn 50km, rộng khoảng 500- 600m, có giá trị lớn trong nông nghiệp, cung cấp nước tưới và giao thông trong tỉnh. Sông Ninh Cơ là một nhánh của sông Hồng, bắt nguồn từ phía Bắc huyện Giao Thủy chảy qua Lạc Quần xuống phía Nam, rồi đổ ra Biển Đông tại cửa Lạch Giang. Sông dài 35-40km và rộng khoảng 400- 500m. Hạ lưu sông Hồng làm thành ranh giới hai tỉnh Nam Định và Thái Bình, rồi đổ ra biển tại cửa Ba Lạt. Chiều rộng trung bình của đoạn sông này khoảng 500 - 600m. Giữa cửa Ba Lạt và cửa Lạch Giang còn có cửa lớn là Hà Lạn . Cửa Đáy thuộc về Nam Định, tuy phần sông Đáy phân ranh Ninh Bình và Nam Định, thường được xem là thuộc Ninh Bình ( ? ). Nếu kể cả sông Đáy thì tổng số chiều dài của 4 sông lớn Nam Định là 251 km. Ngoài các sông lớn kể trên, Nam Định còn có mạng lưới các sông nhỏ dày đặc đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tưới tiêu, cung cấp nước cho dân địa phương. Có cả thảy ở Nam Định 21 hệ thống sông kênh nhỏ, phân bố theo hình xương cá, tổng cọng dài 279 km. Nam Định còn có nhiều ao, hồ đầm lớn, vừa là nơi nuôi cá nước ngọt, vừa cung cấp nước tưới cho cây trồng. Hồ Vị Xuyên nẳm ở trung tâm thành phố Nam Định có cảnh quan đẹp, có giá trị du lịch, vui chơi giải trí. Hai tầng chứa nước ngầm ở Nam Định là tầng chứa nước lỗ hổng Holoxen hệ tầng Thái Bình và tầng chứa nước Pleiistoxen hệ tầng Hà Nội. Hiện nay nước ngầm chỉ mới được khai thác sử dụng một phần rất nhỏ. Bờ biển tỉnh Nam Định chịu ảnh hưởng của thủy triều, chế độ nhật triều ( một ngày chỉ có một lần thủy triều lên, một lần thủy triều xuống ) rỏ rệt như mọi bờ biển Vịnh Bắc Bộ. Biên độ trung bình từ 1.6m đến 1.7 m, cao nhất là 3.3m và thấp nhất là 0.1m . Trên sông Hồng, dòng triều cao truyền xa đến 180km, nhưng không quá xa như ở sông Cửu Long , truyền mãi đến thị trấn KompongCham trên Cam Bốt. Nước triều cao lấn sâu vào nội địa và làm nhiễm mặn nước sông và hệ thống kinh mương và đất đai. Tuy nhiên đất nhiễm mặn ở Nam Định chiếm một diện tích không lớn. Dòng chảy hai sông Hồng và sông Đáy bị chế độ thủy triều ảnh hưởng làm trầm tích phù sa ở hai con sông này . Thành quả ở Nam Định là có nhiều gò đất phù sa khá rộng gọi là Cồn như Cồn Lu và Cồn Ngạn ở huyện Giao Thủy, Cồn Trôi ( ? ) và Cồn Mơ (? ) ở huyện Nghĩa Hưng . Cũng như các tỉnh khác vùng đồng bằng sông Hồng, Nam Định điển hình có khí hậu nhiệt đới gió mùa , một mùa đông lạnh và một mùa hạ ẩm ướt nhiều mưa. Mùa hạ bắt đầu tháng 5 và kết thúc tháng 10 ; thường có gió mùa Đông Nam gây mưa nhiều , thỉnh thoảng có bảo và áp thấp nhiệt đới . Mùa đông bắt đầu tháng 11 và kết thúc vào tháng tư năm sau ; thường có gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh, trời mưa phùn, làm tăng ẩm độ nên ít nơi bị hạn hán. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23- 24 0 C ( 73- 75 0 F ). Hai tháng lạnh nhất là tháng giêng và tháng hai, nhiệt độ trung bình là 16-17 0 C ( 61-630 F ) . Tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ thường cao hơn 290 C ( 84 0 F ). Lượng mưa trung bình hàng năm là 1750mm- 1800mm ( 69- 71 ngón- inches Anh ). Biên độ mưa là từ 1200mm đến 2000mm. Mưa tập trung các tháng mùa hạ ( 7, 8 , 9 ). Mưa mùa đông là mưa nhỏ, mưa phùn. Tháng ít mưa nhất là tháng giêng. Số giờ có ánh sáng mặt trời chiếu hàng năm trung bình 1650- 1700 giờ. Ẩm độ tương đối trung bình là 80 - 85% . Nói chung, các đặc điểm khí hậu Nam Định khá thích hợp cho việc phát triễn trồng trọt chăn nuôi và các hoạt động du lịch. Tuy nhiên Nam Định cũng có nhiều yếu tố thời tiết bất lợi, nhất là bảo và áp thấp nhiệt đới đổ bộ từ Biển Đông - Vịnh Bắc Bộ vào, từ tháng 7 đến tháng 10, mang theo gió mạnh và mưa lớn, gây thiệt hại cho vùng ven biển, trung bình 4- 6 cơn bảo tấn công một năm. Năm 2005, bảo và mưa lớn nhất trong 100 năm qua, làm lụt lội nhiều vùng rộng lớn Nam Định, nhất là sau khi nhiều nơi đê ngăn biển bị phá vỡ. Ngoài ra còn có gió Tây khô nóng, sương mù , sương muối. Ngày 12 tháng 6 năm 2000, còn bị bảo táp - vòi rồng ( tornado ? ) ở các xã Bình Hòa, Giao Hà ( huyện Giao Thủy ), làm 3 người chết, hàng chục người bị thương, làm thiệt hại khoảng 200 ngôi nhà. Đất đai Đất chủ yếu của Nam Định hình thành từ phù sa sông. Độ phì nhiêu khá, đặc biệt ở những nơi hàng năm còn được phù sa bồi đắp. Cấu tạo là đất thịt nhẹ đến trung bình, khả năng giữ nước và giữ chất dinh dưỡng khá tốt. Vùng phía Bắc tỉnh gồm các huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và thành phố Nam định. Vùng phía Nam tỉnh gồm các huyện Trúc Ninh, Nam Trúc, Xuân Trường, Hải Hậu, Nghĩa Hưng và Giao Thủy. Đất dai phần lớn là đất phù sa trẻ - young alluvial soils ( fluvisols), chiếm đến 82 % tổng diện tích. Đất kiềm chiếm 14 % diện tích tỉnh nhà. Các đất khác tương đối nhỏ: như đất cát, đất ferralitic. Tuy nhiên ở đồng bằng chiêm trũng, thuộc các huyện Vụ Bản, Ý Yên, các địa hình trũng có thời gian ngập úng trên 6 tháng bị gley hóa mạnh làm thành đất glây - gley( Dystric Gleysols) hay đất glây chua, có phản ứng rất chua ở phần đất mặt, khả năng hấp thu thấp kém, nghèo dưỡng liệu. Đất mặn phân bố ở vùng ven biển thuộc các huyện Hải Hậu, Giao Thủy. Từ cửa sông Ba Lạt đến cửa sông Ninh Cơ, đất bị nhiễm mặn của thủy triều; nhưng như đã nói, diện tích đất mặn nhỏ . Danh lam thắng cảnh Công viên Quốc gia Xuân Thủy Đây là một khu bảo tồn tư nhiên thảm thực vật ven biển với hệ thống sinh thái như bần Sonneratia ( gồm sáu loài, loài nhiều nhất ở Xuân Thủy là bần Chua S. hay Rhizophora caseolaris , ở cửa sông còn chút nước lợ, nhưng chịu mặn nhất lại là bần trắng S. alba nhiều ở rừng sác Vũng Tàu), đước ( nhiều nhất là loài đước chằng nơi đất cát R. stylosa ), vẹt ( vet dia - vẹt thang Kandelia hay Rhizophora candel)… . Công viên Xuân Thủy cũng là nơi cư trú các loài hải sản: phong phú về giống loài cá, nhưng lại nghèo về trử lượng và mật độ nhất là các loài cá có giá trị kinh tế cao, và đáng ngại là loài “Cá mòi Cò” Clupanodon thrissa đã ghi ở Sách Đỏ Việt Nam dễ bị hiểm nguy tuyệt tích; đã phát hiện 45 loài tôm trong số hơn 200 loài định danh ở Việt Nam trong đó có nhiều loài giá trị kinh tế đáng kể : tôm he tông Penaeus, tôm sắt tông Parapenaeopsis , tôm bộp- tôm rảo tông Metapenaeus … , bào ngư , sò huyết, sò hàu, sò điệp hai mảnh vỏ , nhiều nhất ở đây là điệp nhật nguyệt Amussium japonica … Có giá trị thêm nhất cho phát triễn du lịch sinh thái biển, nhưng chưa phát triễn gì mấy ở công viên Xuân Thủy, nơi sinh sản cư trú của nhiều loài chim. Xuân Thủy đã kiểm kê hơn 200 loài chim và là nơi bay qua và ngưng đậu mùa đông của khoảng 60 loài chim nước - thủy cầm di cư lớn nhất của Bờ biển Châu thổ Sông Hồng . Đông nhất là là Cò thìa Black faced Spoon Bill , và hiếm hoi là các loài Tu híp - Chim Choắt Mỏ thìa Spoon bill Sandpiper, Mòng biển Saunder’s Gull, Sếu Xanh điểm Chấm Spotted Green Shank . Cò Thìa cũng như 8 loài thủy cầm di cư khác cũng đã được Sách Đỏ ghi là đang bị hiểm nguy tuyệt tích. Xuân Thủy cũng là nơi nhiều loài chim không phải thủy cầm ngừng chân như các loài chim sẽ passerines , chim gáy cuckoos di cư mùa xuân và mùa thu. Mùa hạ có thể ngắm các đàn bồ nông mỏ chấm Spotbill Pelicans và Cò sơn Painted Stork . Nam Định có nhiều di tích lịch sử văn hóa cho ngành du lịch : quần thể di tích hành cung nhà Trần ở Tức Mặc, chùa Phổ Minh, đền Thiên Trường Phủ Giầy, chùa Cỗ Lễ , chùa Keo Hành Thiện… Nam Định còn có nhiều lễ hội hấp dẫn du khách: lễ hội Thiên Trường-Tức Mặc kỷ niệm chiến công của nhà Trần, lễ hội Phủ Giầy thờ bà chúa Liễu Hạnh, lễ hội Chùa Keo Hành Thiện…Nhưng đáng kể nhất là tháp chùa Phổ Minh Chùa Phổ Minh còn gọi là chùa Tức Mặc hay chùa Tháp, xây dựng năm 1262 trên đất thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc , cách thành phố Nam Định chừng 5km về phía Bắc. Chùa Phổ Minh là một kiến trúc cỗ đặc sắc Viêt Nam, niên đại khởi công chỉ sau Chùa Một Cột, dựng năm 1049, thời vua Lý Thái Tông. Tên chữ Chùa Một cột là Diên Hựu nghĩa là phúc lành dài lâu. Quy mô Chùa Một Cột không phải nhỏ như ngày nay mà to lớn lộng lẫy hơn nhiều. Tháp Phổ Minh xây xong năm 1305, chiếm vị trí trung tâm chùa Phổ Minh. Xin đừng lầm lẫn với chùa Bút Tháp, tên chữ là Ninh Phúc ở Hà Bắc - Bắc Giang , xây dựng năm 1646 - 47 đời Hậu Lê, có nhiều tháp trong đó đặc biệt là tháp Bảo Nghiêm xây bằng đá cao 13.05m, năm tầng với một tầng đỉnh xây bằng đá xanh. Công trình xây dựng chùa Phổ Minh theo một trục cân xứng từ Tam Quan , nhà Bia, tháp đến tòa Tam Bảo. Trong chùa có nhiều tượng đẹp dáng sinh động như pho Phật Nhập Niết Bàn, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Hơn 700 năm chống chọi với khí hậu khắc nghiệt, hầu hết kiến trúc gỗ đã bị hư hại. Ngày nay chỉ còn lại 4 cánh cửa gỗ lim chạm rồng là di sản từ thời Trần, qua đó có thể nhận thức là thuở ban đầu, chùa phổ Minh rộng rải như thế nào, chạm trỗ cũng tinh xảo, lộng lẫy hơn ngôi chùa thời sau dựng lại cho đến ngày nay. Kết cấu gạch đá lưu lại nhiều hơn, tiêu biểu là tháp Phổ Minh, một công trình gạch đá hổn hợp. Giải pháp kiến trúc - điêu khắc hòa quyện chặc chẻ, thể hiện sâu sắc tư tưởng Thiền học Trúc Lâm.Tòan bộ trang trí đều thể hiện nghệ thuật Thiền Trúc Lâm, lấy thiên nhiên làm chủ đạo. Tháp Phổ Minh gồm 14 tầng cao 19m, mặt bằng hình vuông, sân vuông mỗi chiều dài 8.6m, sâu chừng 0.5m, xung quanh có lan can, mở cửa bốn phía, thềm bậc trang trí rồng đá, sóc đá. Tầng đế tháp xây bằng đá xanh, mang hình bông sen nở xòe trên mặt nước, cao 2.2 m ,rộng 5.2m, bốn góc có trụ giả đỡ đầu rồng. Các tầng trên xây gạch trần, bốn góc nẹp đá, bốn mặt có cửa cuốn tò vò, thu nhỏ dần theo chiều cao, kết thúc bằng chỏm nhọn hình bầu rượu. ( chiếu theo kiến trúc sư Đặng Thái Hoàng, “10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc” năm 2000 ) Nam Định là một trong những cái nôi của nền văn hóaViệt Nam, là vùng đất nổi tiếng văn vật từ ngàn xưa, có nhiều người đỗ đạt cao trong lịch sử, sản sinh ra nhiều danh nhân làm rạng rỡ truyền thống văn hiến, quê hương đất nước. Sau đây là vài nhân vật Nam Định : Trước tiên là “Ả đào say” tên kịch của …. Bà Lương thị Minh Nguyệt người làng Chuế Cầu, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Hay tin Lê Lợi dựng cờ Đại nghĩa Bình Ngô , bà lặn lội từ quê nhà đến thượng du Thanh Hóa gặp Lê Lợi xin đầu quân. Lê Lợi chấp nhận, nhưng lại giao cho bà trở về Bắc theo dõi tình hình giặc ở thành Cổ Lộng, một căn cứ quan trọng của giặc Minh ở đồng bằng Bắc Bộ. Bà đã cùng chồng là Đinh Tuấn mở hàng ăn và rượu ở gần thành, vừa che mắt địch, vừa tiện theo dõi và thu thập tin tức địch tình. Cuối năm 1426 , đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu kéo quân ra vây đánh các thành vùng Bắc Bộ giặc Minh chiếm đóng. Đêm đến, bà cùng chồng mở tiệc khao quân giặc ở quán. Bà cùng các ca nữ hát múa, chuốc rượu cho quân lính giặc say mèm, rồi chui vào bao tải ngủ để tránh muổi. Lúc đó bà cùng chồng và các ca nữ lần lượt buộc túm các đầu bao tải và vứt từng tên suống sông. Xong, bà phát tín hiệu cho nghĩa quân. Tư Mã Cao Ngự và nghĩa quân nhận được tín hiệu đánh vào hạ thành Cổ Lộng dễ như trở bàn tay. Đất nước ca khúc khải hoàn, bà được vua Lê Thái Tổ phong làm Kiến quốc phu nhân. Vua Lê Thánh Tông phong bà làm Phúc thần làng Chuế Cầu. * Nhà Toán học thế kỷ thứ 15 Lương thế Vinh Lương thế Vinh, sinh năm 1441, quê ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông thường được gọi thân mật là Trạng Lường ( đo lường ). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng. Ngoài việc tinh thông sách vở của thánh hiền ông còn ham thích toán học. Năm 1463, mới 22 tuổi, ông đã thi đổ trạng nguyên. Ông được xem là “tổ sư của nghề toán” ở Việt Nam. Theo sử sách cũ thì ông là người làm ra bàn tính hiện nay và phổ biến cho dân gian dùng. Ngoài ra ông đã biên soạn cuốn sách giáo khoa toán Đại Thành Toán Pháp, trong đó để cho người học dễ nhớ công thức, ông đã dùng thơ nôm, tóm tắt ngắn gọn nội dung. *Nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ( 1835- 1909 ) Nguyễn Khuyến hồi nhỏ tên là Nguyễn Thắng . Sinh năm 1835 tại làng Hoàng Xá , huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ tư chất thông minh, mới 17 tuổi đã đi thi cùng với cha là ông đồ Nguyễn Khải. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình, Nguyễn Khuyến đều đổ đầu nên được mệnh danh là Tam Nguyên Yên Đổ. (Thời nhà Nguyễn Phước không cho ai giữ chức Tể Tướng-Thủ Tướng, chức Hoàng Hậu, chức Trạng Nguyên là người đổ đầu thi Đình; nên có thể nói là Nguyễn Khuyến đã đổ “Trạng Nguyên” , và vua Bảo Đại đã cải lệ tấn phong Nam Phương Hoàng Hậu) . Ông được bổ quan ở Huế , rồi làm Đốc học Thanh Hóa, rồi Án sát ( phó tỉnh trưởng thứ nhì) Nghệ An, Biện Lý bộ Hộ, rồi Bố chánh( phó tỉnh trưởng thứ nhất ) Quảng Ngãi. Đến năm 1878, ông bị điều về Huế sung chức Trực học sĩ và làm Toản tư ở Quốc tử Giám. Sau đó buồn vì vận nước, không muốn cộng tác với Pháp nên ông xin từ quan. Nguyễn Khuyến để lại 200 bài thơ chữ Hán và 100 bài thơ chữ Nôm tập hợp lại trong Quế Sơn thi tập. Tam Nguyên Yên Đổ nổi tiếng là một nhà thơ châm biếm . Nhà thơ đã hạ một câu rất mỉa mai cho tượng một Toàn Quyền Pháp dựng gần hồ Hoàn Kiếm: Đáng thương văn vật trăm năm ấy, Nguyễn Khuyến phê phán chế độ vua quan đương thời qua lời nhân vật hát chèo: Vua chèo còn chẳng ra gì Nhưng làm ta rung động hơn nữa là những bài thơ Nguyễn Khuyến viết về nông dân, nông thôn, quê hương, dân làng. Ba bài thơ nôm bất hủ viết về mùa thu ( Thu vịnh , Thu điếu,Thu ẩm) và những bài viết về cảnh lụt ngày giáp Tết, trưa hè hay nói lên sự lo toan vất vả của người nông dân, thể hiện rỏ Yên Đổ là nhà thơ của nông thôn Việt Nam ( Giang Hà Vỵ- 2000 ) Cuộc đời nhà thơ Tú Xuơng, sinh ở Vị Xuyên -Nam Định, quá ngắn chỉ sống 37 năm . Đổ đạt cũng không hơn cái chân tú tài quèn ( tú tài thi cử thời xưa là “đại học” không phải là tú tài tốt nghiệp cấp Trung học thời Pháp thuộc ). …Viết vào giấy dán ngay lên cột, Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ Nôm, đủ thể loại thơ cổ điễn. Đặng Thái Mai khen Tú Xương là một thầy tú cũng biết cười bênh cạnh một ông nghè ( nghĩa là đã đổ tiến sĩ thời xưa ) Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu xếp Tú Xương vào hàng thứ năm sau ba thi hào dân tộc là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương và Đoàn thị Điểm với bản dịch Chinh Phụ Ngâm, thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn. Các nhà thơ trào phúng sau này đua nhau đặt tên là Tú Mỡ, Tú Sụn, Tú Doanh … Tiếng cười trong thơ Tú Xương có đủ sắc điệu cá tính nghệ thuật độc đáo : dữ dội , quyết liệt có người gọi là độc địa như muốn tát vào mặt, xé xác người ta ra; khác với tiếng cười của Nguyễn Khuyến hóm hỉnh, nhẹ nhàng , thâm thúy, cười mát, ít nhiều tính chất răn bảo. Mảng thơ trữ tình cũng thật phong phú, nhưng chưa được chú ý bằng mảng thơ trử tình trào phúng của ông. . ( chiếu theo Nguyễn Đình Chú - 2000 ) Tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, gốc thị xã tỉnh Nam Định. Nhưng viết nhiều hơn về thành phố hải cảng Hải Phòng, vì gia đình tiểu tư sản sa sút rơi xuống cảnh bần cùng , mồ côi cha từ thuở nhỏ, mẹ con phải bỏ quê hương ra Hải Phòng kiếm sống. Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Linh hồn ( tiểu thuyết thứ bảy , 1936). Nổi danh hơn là cuốn tiếp Bỉ vỏ ( 1937), truyện một người đàn bà lương thiện bị đẫy vào cuộc sống lưu manh, gái điếm. Những nhân vật phụ nữ như thế là nổi ám ảnh đau đớn, bám riết cuộc đời cầm bút của Nguyên Hồng trong hơn nữa thế kỷ, từ Tám Bính ( Bỉ vỏ ), Bẫy Hựu, Mợ Du ( Bẩy Hựu ), bà mẹ Hồng ( Những ngày thơ ấu ), Muống ( Quán Nải ) v.v… đến những Mẹ La , Gái Đen… trong bộ tiểu thuyết Cửa Biển sau này. Người ta thường gọi Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ, những còn người “dưới đáy” . Toàn bộ tác phẩm của Nguyên Hồng đều nhắm thể hiện những tình cảm nhân đạo sôi nổi và thống thiết. Đặc điểm đáng quý nhất của chủ nghĩa nhân đạo Nguyên Hồng là niềm tin không gì lay chuyễn được ở phía tích cực, phía ánh sáng của tâm hồn con người. Ngoài những tập văn xuôi đầy chất thơ, Nguyên Hồng cũng là một nhà thơ thật sự, tứ thơ rất khỏe, không lấy cảm hứng từ mây, gió, trăng , hoa… mà cất luyện từ than bụi nhà máy, bến tàu, từ sỏi đá đồi khô cỏ cháy hòa với mồ hôi mặn chát và nóng bỏng của những người lao động. Nhưng Nguyên Hồng không phải bi quan mà lạc quan mãnh liệt, một thứ bản năng tự nhiên, rất khỏe luôn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Một bút pháp lãng mạn hùng tráng ở một thế giới hình tượng luôn luôn có sự đối lập quyết liệt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa nắng vàng trời xanh và bảo tố, giữa địa ngục và lò lữa, giữa tính cách thánh thiện và tâm địa ma quỷ. Như Cậu Khòa, một nhân vật tương tự Quasimodo trong truyện Nhà thờ Đức Bà Paris của Victor Hugo . Như cơn sám hối giằng xé nội tâm dữ dội, trường hợp Mẹ La can tội giết chồng hay Gái Đen trót có mang với một tay phản bội Cách Mạng … , những nhân vật đặc sắc của bộ tiểu thuyết Cửa Biển. Cuộc đời và tác phẩm Nguyên Hồng có nhiều điểm rất gần với nhà văn Nga Maxim Gorki . ( chiếu theo Nguyễn Đăng Mạnh -2000 ). * Nguyễn Bính , nhà thơ của ca dao , hương quê Việt Nam ( 1919- 1966 ) Có sách nói là Nguyễn Bính sinh năm 1918 ở Nam Định. Được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải khuyến khích thi ca năm 1937 với tác phẩm “ Tâm Hồn Tôi”. Thi nhân liên tiếp đăng thơ trên các báo Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu thuyết thứ Năm. Từ 1940 đến 1942, tác giả đã xuất bản nhiều tập thơ như “ Bước Sang Ngang”, “Tâm Hồn Tôi”, Mười Hai Bến Nước”, được cả toàn quốc thưởng lãm, tên tuổi được đưa vào “ Thi Nhân Việt Nam” như là một nhà thơ của Ca Dao, của Đồng Quê để làm cho tất cả hương quê Việt Nam được thăng hoa thành Thơ , từ tình đến cảnh. Sau 1940, Nguyễn Bính lên đường vào Nam, dừng chân tại Huế và sáng tác một số thi phẩm ghi vài nét “ rêu xanh” trong trang “hoài cổ” : Cầu cong như chiếc lược ngà Nguyễn Bính từng là nạn nhân của “ trăm hoa đua nở”, chánh sách lừa dối Bắc Việt mô phỏng Mao Trạch Đông, cho đến ngày tàn vào ngày 10 tháng giêng năm 1966 sau cơn thổ huyết, chỉ với 49 tuổi đời với bao nhiêu đọa dày, khi “ Tỉnh giấc chiêm bao” , thi nhân mới thấy rằng chánh sách thật độc ác. ( Dòng Việt - 2002 ). Nguyễn Văn Cao quê Nam Định, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923. Tuổi 18, đôi mươi, tài năng Văn Cao đã lộ diện và khẳng định với những ca khúc Thiên Thai, Trương Chi, Cung đàn xưa , Suối mơ ... là những vẻ đẹp hồi cổ, vang bóng một thời. Rồi Văn Cao đến với Cách Mạng tháng 8 năm 1945 bằng Tiến quân ca mà nét nhạc đầu tiên theo hồi ức của chính Văn Cao, ông đã tìm thấy trong ngọn lữa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt” của những người đói khổ. Tiến quân ca là sự thanh lọc của tâm hồn nghệ sĩ, để trở thành một cái gì thuộc về Hồn Nước. Song không phải chỉ có thế ! Giai điệu Văn Cao với những Bắc Sơn, Làng tôi, Trường Ca sông Lô, Tiến về Hà Nội v.v… đã đi theo tuổi trẻ Việt Nam suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trở thành một mảnh đời của họ, cùng họ qua mọi thăng trầm đất nước. Đáng tiếc là những nhạc phẩm trử tình, đầy thơ mộng êm dịu trước đó, lại bị Miền Bắc cấm trình bày, từ năm 1956 đến năm 1987, vì nghi Văn Cao tham gia chương trình “Nhân Văn Giai Phẩm” . Nhiều người nói: trong âm nhạc,Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Và họ cũng nói : Văn Cao là khách hành hương về mọi nẻo đường của văn chương nghệ thuật. Văn Cao là nghệ sĩ nhiều chiều : nhạc sĩ , họa sĩ , thi sĩ … Với Nàng Thơ , ông đã làm quen từ thuở đôi mươi. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc , nói lên chết chóc vì nạn đói khủng khiếp 1945- 46 đã đi vào sách giáo khoa. Tiếp theo là Cửa Biển những năm 1960 và Qui Nhơn những năm 1980. Triết lý Văn Cao là hào hoa, sang trọng. Văn Cao đúng là một bậc tài hoa đất Việt ( chiếu theo Trần Quốc Vượng- 2000 ) Phần II : Lạm Bàn về Phát triễn Nam Định Nam Định là một tỉnh trọng điểm lương thực toàn miền Bắc. Sản xuất cây lương thực lẽ dĩ nhiên, đặc biệt là trồng lúa chiếm ưu thế, diện tích lúa năm 1998 chiếm 88% tổng diện tích cây trồng ( năm đó là 105 437.7 ha, hay 63 % diện tích đất tự nhiên của tỉnh). Diện tích lúa từ lâu, hầu như không thay đổi khoảng 164 000 ha ( diện tích cả ba vụ , đông xuân , hè thu , vụ mùa) từ năm 1995 đến năm 2002, thậm chí còn giảm đôi chút so với năm 2000, năm diện tích lúa Nam Định trên 166 000 ha. Trái lại năng xuất tăng đều từ 4. 82 tấn lúa ( thóc )/ha năm 1995 lên đến 5.96 tấn/ha năm 2002 . Sản lượng lúa cả năm của Nam Định cũng tăng từ 787 000 tấn năm 1995 lên trên 978 000 tấn năm 2002. Giúp tỉnh an toàn về lương thực và bình quân đầu người trên 500kg qui thóc /người /năm, cao hơn cả nước 18.8% và cao hơn vùng đồng bằng sông Hồng 25.7 % . Sản lượng lúa cả năm ở Nam Định đã hơn hẳn ở Hà Tây ( 978 000 tấn so với 966000 tấn năm 2002 ) , đứng hàng thứ hai các tỉnh Đồng Bằng sông Hồng, chỉ sau tỉnh Thái Bình ( 1066 000 tấn năm 2002 ) . Sở dĩ như vậy là nhờ tỉnh Nam Định đã trồng nhiều lúa lai ưu thế lai - hybrid rice . Theo bộ Nông Nghiệp Việt Nam, diện tích trồng lai ưu thế lai ơ/ Việt Nam đã tăng từ 11 094 ha năm 1992 lên đến 584 000 ha năm 2006 ( 346 000 ha vụ đông xuân và 238 000 ha vụ hè thu . Có phần ít hơn đôi chút so diện tích lúa thế lai đạt năm 2003 là 600 000 ha( theo Grain - 2005 ). Diện tích lúa ưu thế lai Nam Định năm 2006 là 36 000 ha, chỉ thua Ninh Bình ( 84 000 ha năm 2006, giảm bớt 10 000 ha so với năm 2000) ở đồng bằng sông Hồng. Diện tích lúa ưu thế lai Việt Nam, từ năm 1997, đã trên hẳn Ấn Độ , đứng hàng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc ( 17 708 000 ha năm 1997 và năm 2003 là 15 210 000 ha ) . Nhắc lại là phương pháp tạo hột giống lúa ưu thế lai ( đời F1 ) và sản xuất đại trà thành công đầu tiên ở Trung Quốc vào giữa thập niên 1970 , ở Việt Nam và Ấn Độ giừa thập niên 1990 như đã kể trên và ở Phi Luật Tân vào những năm đầu của thế kỷ thứ 21. Trong khi đó bắp lai ưu thế lai đã bắt đầu trên thế giới từ thập niên 1930. Vì đặc tính lúa là tự thụ tinh, nên trước tiên chuyên gia phải áp dụng cách lai tạo giống riêng biệt dùng các dòng bất dục đực thuộc tế bào chất - cytoplasmic male sterile lines hay CMS và dòng phục hồi - restorer lines hay R của phương pháp bắp lai , nhưng họ thất bại. Mãi cho đến khi hai chuyên viên tuyễn chọn di truyền Trung Quốc là Li Bi Hue và Feng Keshau, năm 1970, tìm ra được cây lúa hoang dại với phấn hoa bị thoái hóa ở trại lúa Nan Hong , đảo Hải Nam. Nhờ đó phương pháp lai 3 dòng , gồm dòng bất dục đực, dòng bảo tồn - maintainer lines hay B và dòng phục hồi được áp dụng.Trong số những dòng bất dục đực đầu tiên Erjiu Ai Ya, Zhenshean 97 A, V20A, V41 A ở Trung Quốc , chỉ dòng V20A thông dụng hơn hết. Những dòng phục hồi đầu tiên tuyễn chọn là các giống Thần Nông IR như IR 24 , IR6, IR 661 và Thai Yin. Đến cuối năm 1974, các chuyên viên lúa Trung Quốc mới hoàn tất phương pháp sản xuất lúa lai ưu thế lai 3 dòng . Tưởng cũng nên kể lại giai thoại chánh chuyên viên Việt Nam của Lúa Gạo Quốc Tế FAO được phái sang Hoa kỳ cuối thập niên 1980 quan sát chương trình lúa lai ưu thế lai Mỹ đang khảo cứu cùng hai chuyên viên Trung Quốc là Viên hay Doãn( Yuan ) Long Bình và Li Bi Hue, tại các trung tâm khảo cứu lúa đại học Texas A&M và Louisiana; khi về đề xướng kỷ thuật mới sản xuất lúa lai ưu thế lai Trung Quốc , nối tiếp cách trồng lúa cao năng IR ( VN mệnh danh là lúa Thần Nông từ năm 1967 ) các thập niên 1960-70- 80 của IRRI , bị IRRI phản đối kịch liệt ( tuy IRRI sau đó giảng hòa và cũng chấp thuận cộng tác khảo cứu thêm kỷ thuật lúa ưu thế lai ). Nhưng may mắn được ông nguyên Tổng giám đốc FAO thông hiểu, đồng ý bảo trợ cho Việt Nam phát triễn, chẳng hạn qua FAO /TCP / VIE/ 2251( 1992- 93 ) và sau đó là FAO/TCP/Vie / 6614 ( 1996-98 ).Những tổ hợp lai đầu tiên của Trung Quốc như Wei you2 Wei you 3, Weiyou 6 , Shan you 3, Shan you 6 , Nam You 2, Nam you 3, Si you 2, Si you 3, và Siyou 6, càng ngày càng bị các tổ hợp lai đa dạng hơn thay thế, nhờ tạo ra những dòng( A ) CMS đa dạng hơn, cũng như các dòng bảo tồn B và dòng phục hồi R thích ứng hơn. Ngay tại Việt Nam , các tổ hợp lai HYT -56 (từ cha - mẹ IR8025A/ 242 R), phóng thích năm 1998 hay các tổ hợp (? ) phóng thích năm 2000 từ cha- mẹ AMS 24A/ Quế 99 hay từ AMS24A/IR9761 đều đã bị các tổ hợp lai VL20 , VL 24, TH3-3 , TH 3-4, HYT 83 , và HYT92 thay thế, cũng như các dòng cha- mẹ tân tạo đa dạng hơn như 103S, TIS-96, T4S , T70S, T100 , AMS 27S ( Trần ĐứcViên và Nguyễn thị Dương Nga, đại học Nông Lâm Hà Nội, năm 2008 ). Một kỷ thuật lúa lai ưu thế lai khác là lúa lai 2 dòng , căn cứ trên những giống lúa trở nên bất thụ đực vì nhiệt cảm - temperature sensitive genic male sterility( những nơi nào nhiệt độ hơi thấp từ 280 C trở xuống ) TGMS hay vì quang cảm - photoperiod sensitive ( những nơi nào trồng lúa ngày dài hơn 14 giờ) PGMS . Diện tích trồng lúa ưu thế lai 2 dòng ở Trung Quốc năm 2000 đã là 2 triệu ha ( Yuan - 2000 ). Lúa lai ưu thế lai - hybrid rice ( như các giống Nhị Ưu 838 n và TH 3-3 ) ở Việt Nam ( Luật 1994 ) ở các thí nghiệm cho năng xuất cao hơn các giống nội phối - inbred rice (như các giống Thần Nông IR ngày nay ở miền Nam hay các giống Bắc Thơm 7, Kháng dân, Q5 miền Bắc) khoảng 18-45 % . Yuan Long Ping cha đẻ của lúa lai ưu thế lai ở Trung Quốc cho biết là ở Trung Quốc lúa lai có năng xuất trung bình cao hơn 20% các giống lúa nội phối. Tuy nhiên theo Viên và Nga ( 2008 ), nông trang miền đồng bằng sông Hồng không đạt đến mức mong đợi, 15- 20% cao hơn các giống lúa nội phối. Sở dĩ như vậy là vì nhiều khó khăn trở ngại phát triễn lúa lai chưa giải quyết : *thiếu giống lúa lai cao phẩm, tuy rằng các tổ hợp lai phóng thích ở Việt Nam cũng như ở IRRI , ở Phi Luật Tân …tương đối chất lượng đã khá ( Virmani IRRI - 2003 ) . Các giống lúa lai cao năng- siêu năng tân tuyễn trong nước như TH3- 3, VL20 , HYT 83 , HYT 92…, ngon cơm hay cao năng hơn vài giống nội phối, vẫn chưa hoàn toàn thích hợp với mọi loại đất đai, khí hậu địa phương * thiếu hẳn sản xuất các hột giống lúa lai cao phẩm ( hiện còn phải nhập khẩu gần 80 % hột giống lúa lai Trung Quốc, từ số lượng đến phẩm giá, loại lúa lai và vì giá rẽ hơn. Cấm nhập khẩu hột giống lúa lai Trung Quốc vụ đông xuân 2005 và vụ hè 2008 đã tăng hơn gấp đôi giá cả hột giống lúa lai Trung Quốc, trong khi đó thi nông lại tìm mua không ra các hột giống lúa lai VN như TH3-3 và VL 20 . Phẩm giá hột giống lúa lai sản xuất ở nước nhà thường bị nông dân chê, không chịu mua vì hột phai - đổi màu , kích thước không thuần - không đồng nhất, nhiều hột đổi dạng- “ lạc dòng” -off types, tỉ lệ nẩy mầm kém cỏi ( Tùng - 2008 ) Năm 2002, nông dân không mua hột giống lúa lai hợp tác xã huyện Vụ Bản sản xuất bán ra chỉ 12 000 đồng VND, trong khi đó lại đi mua hột giống Trung Quốc với giá 20 000 VND. Trong nhiều trường hợp, nông dân không biết rỏ là chính họ đã mua hột giống sản xuất trong xứ nhưng lại dán nhãn hiệu Trung Quốc. Bộ Nông nghiệp đã cố gắng cải thiện chương trình sản xuất hột giống lúa lai trong nước, đặt chỉ tiêu là tự túc đến mức 70 % ( thay vì chỉ mới 20% hiện nay ) về loại hột giống lúa lai vào năm 2010 , nhưng không biết rỏ năm 2011 đã thực hiện được mấy chục phần ?. Vì Việt Nam vẫn chưa có được một doanh nghiệp tư nhân mạnh mẽ tư nhân sản xuất hột giống lúa lai,dù rằng đã cố gắng khuyến khích các công ty, doanh nghiệp có trên 100 ha sản xuất hột giống lúa lai, huấn luyện họ và nông dân phát triễn kỷ thuật sản xuất thiết yếu như cải thiện di truyền độ thuần nhất - purity và nở hoa đồng bộ - flowering synchronization, tài trợ họ trang bị cơ sở, tăng cường khảo cứu và khuyến nông R&D tân tạo mỗi ngày mỗi tốt hơn các giống lúa lai và các dòng cha- mẹ cao năng cao phẩm hơn, khỏi phải phụ thuộc vào các dòng cha mẹ Trung Quốc v.v…. Tuy năng xuất trung bình lúa lai ở Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2006, theo bộ Nông nghiệp phần lớn trên 6 tấn /vụ/ha . Trong khi trung bình năng xuất giống nội phối là từ 3.33 năm 1992 đến 4.77 tấn/ ha/vụ năm 2006 , năng xuất lúa lai hần như đứng yên tại chỗ ( Vụ Xuân 2006 năng xuất lúa lai là 6.391 tấn /ha và vụ hè là 5.389 tấn/ ha , theo Viên và Nga ở Nam Định ) , trong khi năng xuất lúa nội phối lại có khuynh hướng mỗi ngày mỗi tăng gia (vụ xuân là 6,194 và vụ hè là 5.166 ). Vì phải thay đổi hột giống mỗi năm ( còn phải mua nhiều hột giống lúa lai của Trung Quốc như đã nói trên) và trung bình một ha /một vụ phải dùng thêm khoảng 30 kg phân bón hóa học, đặc biệt là phân đạm - nitrogen, chương trình lúa lai Việt Nam sẽ không còn mấy hấp dẫn cho nông dân. Nếu không có ổn định giá cả sản xuất hột giống trong nước, không có phân hóa học tương đối rẽ tiền từ kỷ thuật mới và từ khí dầu thay vì từ than đá theo kỷ thuật lỗi thời xưa cũ. Đặc biệt là hy vọng các chuyên viên khảo cứu tuyễn chọn di truyền lúa gạo nước nhà mau thành tựu các dòng cha mẹ, các tổ hợp lai cao năng, cao phẩm, như đã có ở Trung Quốc lúa lai năng xuất trên 12 tấn /ha /vụ và lúa lai thơm cao phẩm. Khuynh hướng giảm bớt trồng lúa lai ưu thế lai dã bắt đầu ở đồng bằng sông Hồng đã ló dạng, từ năm 2000 đến 2006, bớt đi 1.07 %, diện tích trồng từ 221 650 ha trụt xuống 207 800 ha. May thay, tỉnh Nam Định trong thời gian này, diện tích lúa lai vẫn còn gia tăng; trong khi tỉnh Ninh Bình năm 2000 trồng nhiều lúa lai nhất đồng bằng sông Hồng 94 800 ha, năm 2006 chỉ còn trồng 84 000 ha. Phát triễn mạnh nuôi trồng thủy sản năm 2010 ở Nam Định là nhờ giá cả thủy sản tăng nhiều năm 2010, từ tôm sú, tôm chân trắng đến cá vược - perch, cá mú( cá song ) - grouper , cua bơi (hay ghẹ) - swimming crab tông Portunidae … Nhờ vậy, lợi tức nuôi thủy sản đã cao 1.5 lần hơn năm 2009. Nông dân 3 huyện nuôi trồng nhiều thủy sản là Giao Thủy, Nghĩa Hưng, Hải Hậu rất lấy làm hứng khởi. Lý do chánh cho sự thành công này là nhờ đột khởi sản xuất con giống- juveniles. Năm 2010, gần 3 tỉ rưỡi - 3 423 triệu con giống đủ loài đực sản xuất ngay trong tỉnh nhà , tăng 63 % so với năm ngoái ; trong sô này nhiều loài cao giá như nghêu sò - clam, cá vược , cá mú và cá đé vùng nuớc lợ và nước mặn. Sản xuất con giống cá vược leo - climbing perch , cá tra - cat fish Hemibagrus guttatus , cua bơi đang được sản xuất và thể thức phổ biến đại trà sẽ thực hiện nay mai. Riêng về nghêu ( ngao ) sò - clam trên 1.8 tỉ con giống đã được sản xuất ở tỉnh Nam Định, tương đương với 2.1 lần hơn tổng số con giống cho các vùng nước lợ và nước mặn. Tuy nhiên ngành nuôi sò hàu- oysters , một loài sò điệp 2 mảnh vỏ, Việt Nam kiểm kê được 26 loài, đặc biệt là hàu sông Ostrea rivularis và hàu sú Ostrea glomerata. Nam Định là nơi sản xuất nhiều sò hàu nhất nước, năm 2004 đạt đỉnh cao nhất 30 000 tấn. Nhưng sau đó sản lượng bớt đi và năm 2010, Nam Định chỉ sản xuất được 20 000 tấn. Sở dĩ như vậy là vì Nam Định vẫn còn phải nhập con giống sò hàu các tỉnh lân cận tỉ như từ trại sò hàu giống đảo Cát Bà, đang được chuyên viên Úc giúp đở cải thiện. Con giống sò hàu cho Nam Định hiện nay là 1 tỉ con, nhưng hơn 300 ha của 100 trang trại con giống chỉ mới cung cấp chừng10% yêu cầu. Nam Định cần ngay kỷ thuật sinh sản vô tính - axexual reproduction tăng thêm con giống sò hàu tân tiến nhất thế giới hiện nay của Tây Ban Nha và phát triễn thêm trại giống vô tính này ở các vùng đầm lầy thủy triều thích hợp tai 2 huyện Giao Thủy và Nghĩa Hưng. Đồng thời Nam Định cũng cần thiết lập một nhà máy chế biến sàu hào xuất tỉnh hay xuất khẩu. Giá cả con giống cũng đã hạ nhiều. Sản xuất nông trại nuôi cá tập trung , năm 2010 đã chiếm 2880 ha. Và 36 dự án khác về nuôi trồng thủy sản đã được xúc tiến trong tỉnh. Nông dân Nam Định đã sử dụng các sản phẩm vi sinh học thay cho hóa học để khử nước diệt trùng, hầu giảm chi phí và cải thiện nước nuôi thủy sản. Năm 2010, tuy còn thấy vài tôm cá nhiễm bịnh, nhưng không có dịch bịnh nào xảy ra cả. Diện tích 6 huyện vùng trũng Nam Định chiếm trên 92 000ha . Diện tích ba huyện đồng bằng ven biển chiếm 75 000 ha. Cho thấy khả năng nuôi trồng thủy sản Nam Định còn nhiều tiềm thế . Nếu nâng cao thêm năng xuất lúa gạo cả lúa lai lẫn lúa nội phối cao năng, cao phẩm, có thể bớt vụ trồng lúa mà vẫn duy trì an toàn lương thực, chuyễn qua trồng hoa màu cao năng chăn nuôi( đặc biệt là heo ) và làm thực phẩm nuôi thủy sản, hay rau hoa xứ lạnh - xứ nóng( Nam Định đã có làng Vị Khê huyện Nam Trực trồng hoa nổi tiếng) cung cấp cho hai đô thị là Hà Nội và Hải Phòng chăng ? II- B : Công nghệ hóa nhiều tri thức hơn Thật sự thì ngành tiểu công nghệ dệt may đã có mặt trước cả ngành công nghệ này. Tỉ như thêu - embroidery, dệt lụa - silk weaving. Nhiều triều đình Việt đã phải triều cống Trung Hoa nhiều loại vải vóc đáng giá trị. Hiện nay, ngành tiểu công nghệ truyền thống vẫn còn tồn tại và phát triễn như làng Vạn Phúc tỉnh Hà Tây, làng Triệu Khúc ở Hà Nội, làng Mẹo tỉnh Thái Bình,làng sản xuất tơ tằm ở Phương Dinh (, huyê Trực Ninh tỉnh Nam Định. Sau 1954, ở miền Bắc đã tái lập tại Nam Đinh nhà máy sợi, nhà máy tơ sợi, công ty quần áo- Nam Định Garment Company cũng như vài làng tiểu công nghệ dệt và may mặc. Ngành công nghệ khởi sự xuất khẩu qua khối kinh tế Comecon năm 1976 ; trước tiên qua Liên Bang Sô Viết dưới hình thức cộng tác hợp đồng phụ - subcontracting cooperation. Việt Nam nhận bông vải của Nga Sô và gửi lại Nga Sô thành phẩm cuối cùng. Năm 1979, thể thức cộng tác này nới rộng với Hung Gia Lợi,Tiệp Khắc và Đông Đức. Năm 1986, Việt Nam ký kết với Nga Sô một thỏa hiệp lớn gọi là thỏa hiệp 19 tháng 5, theo đó Nga Sô cung cấp đủ mọi vật liệu , họa kiểu thời trang và Việt Nam chế biến, gửi lại áo quần may sẳn và nhận các hàng hóa tiêu thụ. Trong thời gian 1987-90 ngành công nghệ dệt may phát triễn mạnh mẽ đem lại hàng trăm ngàn công ăn việc làm trong nước và ở tỉnh Nam Định, đóng góp nhiều vào ngân sách quốc gia. Như đã nói trên, sau khi Nga Sô và các nước Đông Âu sụp đổ, ngành công nghệ bị khủng hoảng lớn, không bán được thành phẩm cũng như không mua được vật liệu và thiết bị sản xuất. Có thể xem thời gian 1990- 92 là thời gian khó khăn nhất cho ngành công nghê, tơ sợi và dệt may ở nước nhà hay ở Nam Định. Vài năm sau, trên cơ bản ngành công nghệ đã thoát khỏi cơn nguy biến và đã đầu tư thêm nhiều thiết bị hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm . Năm 1997 , ngành tơ sợi và may mặc đã chiếm 9.9 - 10. 2% giá trị tổng sản xuất công nghệ Việt Nam . Năm 1997, ngành dệt may Nam Định là ngành công nghệ lớn nhất tỉnh : chiếm 48 % giá trị sản xuất công nghiêp toàn tỉnh với 2 944 900 lao động , nghĩa là 40% tổng số lao động công nghiệp toàn tỉnh . Năm 1996 , theo Vinatex , ngành chỉ sợi- thread sản xuất cả nước gần 60 000 tấn ( sợi bông vải , Pe/co . … ) ; ngành dệt vải 265 triệu mét vuông, ngành dệt kim - kinitting products 20 000 tấ , khăn tắm bông vải 15 000 tấn . Phần Nam Định năm đó là 13.3 triêu mét vải, quần áo dệt kim là trên 2 triệu cái, quần áo may sẳn là 5.1 triệu cái . Nam Định cũng sản xuất nhiều mùng- mosquito nets bông vải . Cơ cấu Công nghệ may mặc và tơ sợi ở Việt Nam cũng như ở Nam Định chia ra 3 lảnh vực : lảnh vực thượng nguồn - up stream là sản xuất sợi - fiber, trung nguồn là sản xuất vải vóc- fabric và nhuộm - dyeing, hạ nguồn là áo quần may mặc - garment manufacturing. Dù rằng lảnh vực vải vóc cần nhiều tư bản hơn là lảnh vực áo quần may mặc, lảnh vực này vẫn cần nhiều lao động - labor intensive. Sản xuất sợi cần nhiều tư bản - capital intensive . Công nghệ Việt Nam tỏ ra yếu kém bất lợi so sánh ở thượng nguồn và trung nguồn, vì Việt Nam thiếu tư bản đầu tư lớn vào hai lảnh vực này. Thật sự , Việt Nam chưa sản xuất được sợi và vải cao phẩm trong nước. Nếu có đi nữa , Việt Nam mới chỉ sản xuất được sợi phẩm giá thấp, dùng tiêu thụ trong nước mà thôi. Công nghệ sợi và may mặc áo quần ViệT Nam dùng những vật lieu như bông vải - cotton, sợi tổng hợp, len - woolen, chỉ sợi và tơ tằm. Ngành sản xuất bông vải và tơ tằm Việt Nam hiện chỉ mới thỏa mãn 10 % yêu cầu công nghệ. Sau giai đoạn an toàn thực phẩm và sản xuất thực phẩm chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, các ngành cây cây công nghệ nước nhà có ưu thế so sánh ( cao su , cà phê, hột điều , tiêu … ) , nước nhà cần lưu tâm cải thiện hơn nữa ngành trồng dâu, nuôi tằm ( năm 1996 không biết lý do gì diện tích ruộng dâu trụt xuống 21 586 ha so với 1 534 ha năm 1994 . Đáng lưu tâm hơn nữa là phẩm giá tơ tằm Việt Nam phần lớn không được xếp hạng hay liệt vào hạng C hay E , không nhiều ở hạng A là hạng xuất khẩu được, chỉ chiếm 22. 5 % năm đó ở vài vùng Lâm Đồng và Hưng Yên, thua kém tơ tằm Trung Quốc nhiều và thường bị chê là thiếu bền bỉ và rất khó nhuộm ) và trồng bông vải cao năng- cao phẩm ( 1.5- 2.0 tấn bông vải /ha theo kỷ thuật hột giống mới bông vải lai ? Hiện năng xuất bông vải ở tỉnh Đồng Nai là 0, 69 tấn/ ha , Sơn La là 0. 84 ). Ngành vải vóc hiện dùng phần lớn là bông vải và vải pha trộn bông vải và polyester . 90% vật liệu phải nhập khẩu qua thể thức khế ước phụ. Thi trường thương mãi gọi thể thức này là CMT ( cut , make and trim- cắt , may và tô điểm , trang trí) giá trị tăng thêm thấp kém - low value added . Theo UNIDO, giá trị tăng thêm cho mổi lao động, tính bằng đô la Mỹ năm 1998, Việt Nam tuy đã vượt Inđô nêxia ( 1770 đô la so với 1100 ), đuổi kịp ngang hàng Trung Quốc , nhưng còn thua xa Mã lai Á ( 7980 ), Singapore ( 15 560 ), và nhất là Hàn Quốc - South Korea ( 20510) và Đài Loan ( 21 100 ). Việt Nam cần phải tân tiến hóa mau lẹ hơn thập niên 1990 về kỷ thuật sản xuất , đặc biệt thiết bị và máy móc ở công nghệ tơ sợi và áo quần , mới mong tiếp tục tăng trưởng và cạnh tranh thắng lợi tương lai xuất khẩu . Không rỏ năm 2010, Việt Nam đã đạt mấy chục phần chỉ tiêu là sản xuất chỉ sợi dự trù 100 000 tấn, ngành dệt vải 601 triệu mét vuông, khăn tắm bông vải 40 000 tấn , quần áo dệt kim 45 000 tấn v.v… Mức gia tăng là 14 % một năm so với mức 13 % một năm trung bình cho các năm 2000 - 2005, thoã mãn yêu cầu ăn mặc của gần 90 triệu dân chúng , áp dụng kỷ thuật tiến, tiến ít nhất là đúng trình độ Thái Lan và Singapore, đạt mức xuất khẩu khoảng 4 tỉ đô la Mỹ ( so với 750 triệu năm 1995 và 3 tỉ năm 2005) . Trong đó xuất khẩu áo quần may mặc là 3 tỉ ( so với 500 triệu năm 1995 và 2.2 tỉ năm 2005) và tơ sợi là 1 tỉ( ? ) ( so với 250 triệu năm 1995 và 800 triệu năm 2005) . Ở Nam Định mọi tài chánh đầu tư phần lớn trông cậy vào Tổ hợp ngành dầu lữa và khí dầu Việt Nam - PetroViêtnam hay PVN , cùng Nhóm Tơ Sợi và Áo quần May mặc Việt Nam National Textile and Garment Group và Công ty Hửu Hạn Thiên Trường Co Ltd . Năm 2000 lợi tức mỗi đầu người tỉnh Nam Định chỉ mới đến 200 đô la Mỹ. Sở dĩ thấp kém vì phần lớn lao động làm việc trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp ( 83.6 % ), đất đai trồng tĩa thiếu thốn, nhỏ hẹp, nhắm tự túc lúa gạo, an toàn lương thực ( nghiên cứu từ năm 1993 đến 2003 về “ Hợp tác Xã ” Cốc Thành, Xã Bạch Cốc cho thấy Xã chú trọng phân phối đất đai theo kiểu xã hội chủ nghĩa không khác mấy lề lối phân phối đất công điền truyền thống thời xưa : để trồng” tập thể” cây lương thực lúa , ngô , khoai … làm kinh tế để ăn , và chỉ để một vườn nhỏ cho phép gia đình “ tư nhân” làm kinh tế lấy tiền, đào ao nuôi cá, nuôi heo và rau hoa , trái cây đem bán ). Mục tiêu kế hoạch phát triễn Nam Đinh, từ năm 2003 đến năm 2010 là cố gắng tăng GDP mỗi đầu người lên trên 1000 đô la Mỹ năm 2010 ( sác xuất tăng 9 % một năm theo giá GDP 1994 ) bằng cách chuyễn đổi cơ cấu kinh tế : giảm nông lâm ngư xuống mức 29.8% ( dù giữ mức gia tăng là 2-2.5 % một năm) , công nghệ và xây dựng lên 36 %( tăng mỗi năm 17 % hay hơn nữa ) và dịch vụ 34. 2 % vào năm 2010 ( tăng 9.5 % mồi năm hay hơn nữa. Chuyễn đổi cơ cấu từ thuần nông qua công nghệ và dịch vụ chậm chạp và khó khăn ngay cả vào thời kỳ “ đổi mới”. Nhưng đến năm 2005, đã mau lẹ hơn: nông lâm ngư nghiệp chỉ còn chiếm 41 % GDP, công nghệ và xây dựng 21.5 % và dịch vụ 38%. Bằng cách cũng cố các khu - công viên công nghệ như cung cấp đầy đủ điện ( có lẽ nên xúc tiến trước năm 2016 việc xây cất hai tua bin số 1 và số 2 nhà máy nhiệt điện than đá và khí dầu ( ? ) Nam Định trị giá 4.5 tỉ đô la Mỹ với công ty Hàn Quốc theo thể thức BOT, công xuất tổng cọng 4 tua bin là 2 400 MV) nước sạch ( từ các tầng nước ngầm ) , giải quyết kịp thời các công nghệ thải nhiều ô nhiễm ( tránh kéo dài dây dưa như vụ nhà máy Veđan chế tạo bột ngọt trong Nam ), giải quyết mau lẹ hơn khiếu nại bồi thường đích đáng đất trưng dụng làm công nghệ. Cuối cùng nâng cấp huấn nghệ giáo dục các thanh niên học xong lớp 10 , và các cấp đại học kỷ thuật , tuy rằng Nam Định từ nhiều năm qua đã là một trong những tỉnh đứng đầu về chất lượng dạy và học, nhưng chương trình dạy và cách huấn luyện chưa cập nhật thích nghi, chưa đủ tri thức cho các lảnh vực dịch vụ và công nghệ , tỉnh nhà muốn thành lập và ngoại quốc muốn đầu tư chế xuất, xuất khẩu. Các khu công nghệ Nam Định đáng kể là: - khu công nghệ Hỏa Xá ở ngay thành phố Nam Định, rộng 327 ha, đã có 86 dự án đầu tư ước lượng 18.8 tỉ đô la . - Công viên công nghệ Mỹ Trung ở huyện Mỹ Lộc và phường Lọc Hạ tỉnh lỵ Nam Định, gần quốc lộ số 10, đang xây dựng, diện tích 190 ha và hy vọng sẽ có đầu tư khoảng 19 triệu đô la. - Công viên Thành An ở vùng Nam Định thuộc địa Pháp xưa cũ và Tân Thành thuộc huyện Vụ Bản, cũng bọc quốc lộ 10, đường tỉnh nối Quốc lộ 10 và tỉnh lộ 21. Diện tích dự trù là 150 ha, nay đã thu hút trên 20 triệu đô la đầu tư . - Công viên Bảo Minh thuộc huyện Vụ Bản, phía Nam quốc lộ 10, cách thị xã Nam Định khoảng 10 km . Diện tích 200 ha và đã thu hút trên 21 triệu đô la đầu tư - Công viên Hồng Tiến, cách thị xã Nam Định chừng 25 km, ở huyện Ý Yên, bên cạnh quốc lộ số 10, cách Binh Bình ( gần cảng Ninh Phúc ). Diện tích 250ha. Đây là đầu tư thiết lập hạ tầng cơ sở đầu tiên của PetroVietnam ở tỉnh nhà . - Công viên Ninh Cơ ở sông Ninh Cơ. Diện tích gần 500 ha, gồm xưởng đóng tàu, kỷ thuật công nghệ , khu chế xuất xuất nhập khẩu , dịch vụ chuyên chở và du lịch dọc sông tại hai huyện Hải Hưng và Nghĩa Hưng . Do VINASHIN hoạt động, nay không rõ có tiếp tục tiến hành không ? Ngoài hoạt động của công ty dệt liên hệ chặc chẻ với công ty may mặc , ngành chế biến thực phẩm dùng nguyên liệu tại chỗ cũng khá phong phú ( cuối thế kỷ thứ 19 , thực dân Pháp đã xây dựng ở Nam Định các cơ sở chế biến thực phẩm đầu tiên ), tập trung ở thành phố Nam Định và một số huyện ven biển như Hải Hậu , Xuân Trường; chủ yếu là thịt đông lạnh , rau quả hộp, rượu bia, bánh kẹo, gạo, nếp, bắp ( ngô ) xay xát. Sản phẩm của ngành đã được xuất khẩu sang các nước Tây Âu, Nhật Bổn . Sản phẩm ngành cơ khí - điện và điện tử chủ yếu là các sản phẩm từ kim loại, lưới thép, lưới mạ (mạ điện ), nhà máy động cơ, nhà máy đóng tàu, ti vi, rađiô, thiết bị truyền thông. Ba huyện ven biển ( Giao Thủy , Hải Hậu , Nghĩa Hưng chủ yếu là công nghiệp đánh bắt, nay thêm nuôi trồng ,chế biến hải sản , ngoài các ngành sản xuất muối , vật liệu xây dựng ( gạch ngói) , dệt cói. Các huyện nội đồng chủ yếu sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong các làng nghề dệt - may, đan tre mây, chạm khảm đồ gỗ, chế biến thực phẩm … GS Tôn Thất Trình ( Irvine , Ca Li , Hoa Kỳ ngày 25 tháng tư , năm 2011 )
|