Home Đời Sống Suy Tư Dòng Đời Tháng Bảy Mùa Vu Lan Thương Nhớ Mẹ

Tháng Bảy Mùa Vu Lan Thương Nhớ Mẹ PDF Print E-mail
Tác Giả: Mường Giang   
Thứ Hai, 15 Tháng 8 Năm 2011 08:24

‘Cơm người khổ lắm mẹ ơi ... không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn‘. Riêng tặng Phương Hồng Quế, Giang Tử, Carol Kim, Lilian, Bùi Sơn, Trần Đình Cảnh, Trịnh Sữu Nhị, Thanh Hùng... 

            Tháng bảy hằng năm là ngày giổ của mẹ và năm nào cũng vậy, cứ đến ngày này ở Phan Thiết, cả gia đình xa gần đều tụ họp về căn nhà cũ, để cùng ôn lại quảng đời cơ cực của mẹ mà khóc. Riêng tôi, đời tên lính già biệt xứ, không nhà, mất nước, từ lâu chỉ còn biết rửa mặt bằng lệ mắt, để thay cho lòng hối hận của một đứa con, cứ coi như là bất hiếu vì suốt bao chục năm qua, đã vì đời mà bỏ mẹ ở chốn quê nghèo.
 
            Cha mất sớm trong cơn binh lửa từ năm 1955, mẹ ở vậy thủ tiết nuôi con khi tuổi vẫn còn xuân thắm. Bầy con mấy đứa, lớn lên trong cảnh đói nghèo lết lê khắp phố phường , cồn bãi của chốn biển bạc rừng tiền. Mẹ tự mình gồng gánh hết trách nhiệm một đời, thay chồng nuôi con,đưá nào cũng được ăn học tới chốn, qua đồi tay trìu mến đùm bọc của mẹ hiền.
 
            ‘ Trong tim , ai cũng có một dòng sông .. ’ ’ tiếng ca và lời nhạc của ai đó nghe thật thảm buồn, đã đưa tôi sống lại những ngày thơ ấu, cực khổ nhưng êm đềm với vô vàn kỷ niệm, theo con nước lớn ròng, giữa đôi bờ Mường Giang lao xao sóng vổ. Tôi được sinh và lớn lên ở bên bờ con sông quê hương đó, với tôi nó chẳng những là dòng sông tươi mát của tuổi thơ, mà còn là dòng sữa mẹ ngào ngọt nuôi con một đời :
 
“ Dòng sữa Mẹ cho con khôn lớn
có bao nhiêu Mẹ vẫn cứ thương
Giờ xa Mẹ, Mẹ ơi có biết
Thu lại thu, thương nhớ quê hương ..”
( Thơ Thanh Trí Cao ).
 
            Giờ đây Mẹ đã ngủ yên trên quê hương yêu dấu, mặc cho dòng đời và dòng sông ròng lớn đổi thay. Nhưng với tôi con sông cũng như lòng mẹ, một đời đã hy sinh tần tảo vì con, làm sao quên được.
 
            Quê người, tháng bảy mùa thu còn chớm và bắt đầu những trận mưa ngâu, dù trời chỉ thoáng một chút heo mây nhè nhẹ. Ven đường những cánh phượng vỹ cuối cùng , đã mất đi màu hoa rực rỡ., tơi tả rơi rụng trên đôi bờ vai khô héo của đời.
 
“ Tiết tháng bảy, mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may, lạnh buốt xương khô
não người thay, buổi chiều thu
hoa lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng ..”
 
            Những lời thơ thật buồn trong bài ‘ Chiêu Hồn ‘ mà người đất Bắc ai cũng nhớ trong mùa Vu Lan, khiến cho kẻ ly hương tự nhiên thấy bứt rứt, như chính mình đang cùng em ,dầm mình trong mưa Ngâu ướt sũng, ‘ thu thủy cộng trường thiên nhất sắc ‘ màu trời và nước mưa, mênh mông như dãi Ngân Hà, chứa đầy những giọt nước mắt, từ các cuộc tình trên cõi tiên , mà truyền thuyết cho là của Ngưu Lang và Chức Nữ.
 
            Cho đến bây giờ đã mấy triệu năm qua, đố ai biết cô gái ấy mặc áo màu gì ? còn chàng chăn trâu họ Ngưu, tuy mang tiếng bất hạnh , sinh ly tử biệt nhưng lại tràn đầy hạnh phúc vì có một người yêu ngàn đời chung thủy., khiến cho cả trần gian đều chung lòng ái mộ.
 
Mùa thu cũng là mùa trái cây chín rộ, ổi, sấu, xoài, chuối và cốm vồng .. bầy bán đầy trong những quán nước dọc đường,bên trong bà cụ nghiêng cánh liếp che mưa, đã thấy hồn run theo mùa ngâu, thứ mưa thập loại chúng sinh, thấp thoáng đầy bóng âm hồn, nhởn nhơ đợi chờ trần gian vong nhân xá tội.
 
            Mưa ấy nước mắt ấy, ngoài những giọt mưa tình ái, còn là biển lệ trời thương của các trang hiếu tử, mà câu chuyện của Bồ Tát Mục Kiền Liên , xuống tận âm ty để tìm mẹ là Thanh Ðề đang chịu cực hình vì tội buôn Thần bán Phật, khi còn sanh tiền. Nhờ tình mẫu tử thiên thu bất diệt, đã cảm
 
‘ Mục Liên dù đã hóa thân
Vì thương từ mẫu, muôn phần họa tai.. ’ ’
 
. Thật vậy, ngoại trừ đất đá và kẻ vô tri, còn vạn vật từ con người , muông thú cho tới cỏ cây, đều do MẸ cưu mang và sanh thành. Cho nên nơi tâm tư của tất cả mọi người, trong tiềm thức siêu thế, mơ hồ hay hiện thực , hình ảnh Mẹ luôn vẫn trang đài, diễm tuyệt, đáng để ta tôn thờ và trìu mến, dù rằng ‘ công cha như núi Thái Sơn ‘ còn mẹ hiền, chỉ như ‘ chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau ‘.
 
Nên người đời ai cũng cần có mẹ, dù là trẻ thơ hay người trưởng thành. Những đứa trẻ mồ côi, cho dù có được người thân còn lại nưng chiều , nuôi dưỡng tử tế cho mấy, lớn lên cũng cảm thấy tâm hồn mòn héo, khô cằn. Bởi vậy, người đời đã viết :’ mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi me lót lá mà nằm ‘.Riêng người lớn tuổi, khi mất mẹ, cảm thấy chơi vơi như mất điểm tựa, nên cũng cô đơn lạc lõng như trẻ mồ côi. Tóm lại mẹ là nguồn gốc của mọi tình cảm yêu thương trên đời, cho ta biết thế nào là ngọt bùi ấm lạnh và nguồn thương yêu cao cả của kiếp nhân sinh. Tình mẹ bao la đã biến nữ hầu tước De Sévigné, một phụ nữ tầm thường, trở thành một nhà văn nữ nổi tiếng của Pháp, cách đây 300 năm, qua những bức thư bất hủ viết cho mẹ. Tình mẫu tử bao la trùng hằng miên viễn, đã theo thời gian trở thành nguồn cảm hứng vô tận, như con thuyền bát nhã, đưa con người trần tục , đến gần các đấng từ mẫu, trong mọi tôn giáo lớn của hoàn cầu.
 
Trong dòng lịch sử Hồng Lạc, chúng ta có Mẹ Âu Cơ , quốc mẫu của dân tộc Việt và được nối tiếp bởi một trái tim từ mẫu thời cận sử : Thái Hậu Từ Dũ, một trái tim nhân từ của các bà mẹ Việt Nam :
 
‘ Gió Ðộng Ðình mẹ ru con ngủ
trăng Tiền Ðường ấp ủ năm canh
.. bống bồng bông, bống bồng bông
võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên ..( ca dao )

Riêng trong tín ngưỡng bình dân , ta có Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền Bắc và Mẫu Thiên Y A Na, dù phát nguồn từ Chiêm quốc, nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau, đã được người Việt phụng thờ , mà Hội Ðiện Hòn Chén hay lễ Viá Mẹ hằng năm vào rằm tháng bảy tại Thừa Thiên, là một minh chứng . Ngoài ra, còn có Ðức Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật Giáo và Ðức Me Ðồng Trinh Maria trong Ky Tô Giáo..
 
Hằng năm, tại các nước Âu Mỹ đều cử hành long trọng ngày ‘ Nhớ Ơn Mẹ (The Mother’s Day)’ . Tại các nước Ðông Nam Á theo Phật Giáo, vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, đều cử hành long trọng Hội Vu Lan Bồn. Cả hai lễ hội trên, tuy hình thức có khác biệt nhưng vẫn chung nội dung với ý nghĩa ‘ VINH DANH CÔNG ƠN SINH THÀNH DƯỠNG DỤC CỦA TỪ MẪU ‘.Ðây là một ngày lễ lớn và cũng là dịp để con cái tu nhơn tích đức, làm việc từ thiện trả ơn , báo hiếu cho cha mẹ mình, dù còn sống hay đã qua đời.
            Hằng nằm vào Rằm Tháng Bảy Âm Lịch, tín đồ Phật Giáo khắp nước lại nô nức tổ chức đại lễ Vu Lan. Tuy nhiên trong ngày này, về nội dung và ý nghĩa đại lễ gần như được thống nhất từ xưa tới nay nhưng về hình thức vẫn còn ít nhiều khác biệt, do nét đặc trưng và phong tục của bản địa, ảnh hưởng tới cuộc lễ.
 
            Miền Bắc, mặc dù thời tiết tháng bảy chưa lạnh lắm nhưng mưa phùn sương núi, khiến cho cỏ cây trời đất đâu đâu cũng ướt sũng buồn buồn không chịu được, nhất là lúc đang mưa bay tí tách, lúc cuồng lúc tạnh và cứ thế dai dẳng, làm cho ai cũng rầu rĩ muộn phiền. Cảnh buồn như vậy, nên chẳng còn ai muốn bước chân ra đường để chịu cảnh lầy lội. Riêng với những người con gái đẹp, càng thấy buồn hơn trong cảnh biệt ly của Ngưu Lang-Chức Nữ, để thương tủi cho phận mình, không biết mười hai bến nước mai sẽ về đâu.
 
            Nhưng dù có mưa gió thế nào chăng nửa, vào ngày Rằm Tháng Bảy Ðại Lễ Vu Lan, mọi người từ quê tới tỉnh, đều kéo về các đình chùa, để mà dự lễ cúng đông như trẩy hổi, được tổ chức trong khuôn viên nhà chùa.
 
            Ai đã từng thức trong đêm đó, mới biết thương thay cho những thập loại chúng sinh, đang hồn đơn phách chiếc xiêu lạc nơi quê người. Ðó là những cô hồn vô định không siêu thoát được, nên phải vất vưỡng đầu chợ cuối sông hay lập lòe nơi cầu sương bải vắng. Tất cả đều tụ về trong đêm Vu Lan , để chờ thập phương bố thí bát cháo nấm xơi và ít manh áo giấy vàng .
 
            Tại thành phố Huế, miền đất từ xa xưa đã được mệnh danh là Nước Phật, vào đêm 14 tháng bảy, không khí đại lễ tưng bừng khắp chốn, từ các đường phố vào tới sân chùa, đặc biệt là Từ Ðàm và Thiên Mụ, đèn nến chan hòa trong màu cờ, lễ phục, giữa mùi hương hoa thơm ngất, khiến cho ai cũng cảm thấy như mình đã thoát tục.
 
            Chùa Từ Ðàm ngày trước có tên Ấn Tôn, nằm trên ngọn đồi thấp ở bờ Nam sông Hương ( Huế), thuộc Ấp Bình An, huyện Hương Trà. Theo sử liệu, Ðại Sư Tử Dung Minh Hoằng, vì không thần phục Mãn Thanh, nên sang Ðàng Trong tị nạn, vào đời Vua Lê Anh tông (1687-1691) , đã xây dựng ngôi chùa trên. Năm 1703, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu , đã sắc tứ ‘ Ấn Tôn Tự ‘.Năm 1841, Vua Thiệu Trị đồi thành Từ Ðàm và giữ cho tới ngày nay. Chùa được tu sửa nhiều lần , từ kiến trúc tới nghệ thuật, mang phong cách Á Ðông của thế kỷ XIX. Chùa hoàn toàn thờ Phật và là trụ sở của Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên ố Huế. Do đó, hằng năm được chọn làm địa điểm tổ chức Ðại Lễ Vu Lan.
 
            Trong lúc trên sân khấu được dựng bên sân trái Chùa Từ Ðàm, các nam nữ Phật Tử và Tín Ðồ đang say sưa biểu diễn văn nghệ giúp vui trong đêm lễ. Cùng lúc giữa dòng Hương Giang, cũng thức giấc với đoàn Thuyền Rồng giăng đèn kết hoa, tỏa ánh sáng muôn màu lấp lánh như sao sa trên sông nước, giữa tiếng vổ tay hạnh phúc của rừng người mừng hội suốt đôi bờ. Tóm lại Ðại Lễ Vu Lan hằng năm được khai mỡ tại các Chùa , mang chung ý nghĩa ‘ Mở Cửa Ngục ‘ , nhằm cứu độ các vong hồn đang bị trầm luân nơi các tầng dịa ngục, vì nghiệp chướng và tội lỗi buổi sinh thời. Ngoài ra Ðại Lễ còn mang thêm ý nghĩa thiêng liêng khác, rất phù hợp với nền văn hiến của Dân tộc Việt bao đời, theo phạm trù đạo đức truyền thống , đó là sự Báo Hiếu, tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Tất cả hoàn toàn theo đúng lời Phật dạy “ Cùng cực điều thiện, không gì hơn CHỮ HIẾU . Cùng cực điều ác , không gì hơn BẤT HIẾU ‘ .
 
            Tháng bảy năm nào ở Hạ Uy Di, các Chùa Phật Giáo của người Việt tị nạn cũng đều tổ chức Ðại Lễ Vu Lan. Trong cảnh trang nghiêm của ngày lễ, gợi cho kẻ ly xứ nhớ biết bao cái không khí chùa đình ở quê tôi Phan Thiết . Ðược theo mẹ lễ chùa trong dịp Tết Trung Nguyên, để nghe chiêng trống vang rền khắp chốn, chiêm ngưởng hình ảnh các vị Ni-Sư, áo mão rực rỡ, cầm gậy phép chạy đàn, xuống âm ty phá ngục để cứu chúng sinh đang trầm luân trong địa ngục khổ ải. Ôi đẹp biết bao là hình ảnh của mẹ tôi lúc đó, dường như người chẳng biết mệt mõi, khi cứ thắp hết bó nhang này tuần hương khác, trước các bàn thờ khắp chùa. Mẹ bảo, làm lễ như vậy, để cho vong hồn của ba con sớm được siêu thoát .
 
            Ở Nam Phần, ngày lễ Trung Nguyên được tổ chức lớn hơn các nơi khác nhưng không được trang nghiêm như ngoài Bắc, vì chẳng mấy nhà còn nấu cháo, chè lam, hương hoa vàng mã, đem ra đường cúng thí các oan hồn ma trơi , trong đêm xá tội, từ địa ngục về lại cõi trần.
 
            Trong kho tàng văn chương của dân tộc Việt, ta thấy còn lưu lại rất nhiều bài hát ru, đọc lên thấy âm điệu rất là khoan thai, nhịp nhàng và nghệ thuật. Về nội dung, hầu hết các bài hát ru trên, được xem như là lời của Mẹ hiền đang vỗ về tâm hồn con thơ, nên rất gần gũi với mọi bà mẹ ở ngoài đời :
 
‘ Gió mùa xuân, mẹ bâng khuâng hỏi
hoa trên đồi, hoa trên đồi
sớm tối còn hương
Có phải chàng Trương, gốc miền Nma Xương..
xa vắng xóm làng vì đang ở chiến trường
hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ cho ngoan.. ’ ’
 
            Nói chung lời mẹ ru con, được đánh giá như một thứ âm nhạc nghệ thuật khởi đầu và cuối cùng của đời người. Mẹ chính là người ca sĩ đầu tiên đối với con mình, bằng cả một tấm lòng, qua tiếng ru và nhịp võng, tạo ra cả nguồn hạnh phúc trời biển đối với tâm hồn trẻ thơ, với tình thương yêu dịu hiền, chứa đầy những khái niệm đạo đức nhân nghĩa, như môt khúc dạo đầu, đưa con thơ vào nẽo đời hạnh phúc.
 
            Nay lớn lên sống lang thang khắp mọi miền đất nước, tình cờ có những đêm khuya, đi qua những phố phường xa lạ, ngập đầy xe cộ và đèn trăng, bổng dưng thấy thèm nghe lại tiếng khóc của trẻ thơ và lời ru của mẹ.
 
            Ngày nay từ Âu sang Á và gần như ở đâu, cũng có những tượng đài , thơ văn, bài hát, tuồng kịch .. để ca tụng công đức biển trời của người mẹ, mênh mông tám hướng như biển Thái Bình. Bởi Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời này . Mẹ cũng là một hình ảnh tuyệt diệu , diễm hằng, muôn trùng ngời sáng, không bao giờ có thể thay thế được. Ôi sung sướng thay cho những ai còn Mẹ và cũng tủi xót cho những người mất mẹ nửa đời, mỗi khi tưởng nhớ, chỉ còn lặng lẽ ước ao ngóng về xóm nhỏ, nơi nhũng bờ bụi khóm tre, ngàn năm lau lách sạt xào. Con đã bước qua hết hai phần đời, để được thắm thía rằng , chỉ có một nguồn suối tình thương mang tên Mẹ, là vĩnh cửu không bao giờ khô chảy.
 
             Ôi cảm động biết bao, khi nhớ lại ‘ Tôi đi học ‘ của Thanh Tịnh ‘ Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.. ’ ’ hay nổi nhớ mẹ của Lưu trọng Lư ‘ Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời, lúc người còn sống tôi lên mười, mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.. ’ ’ hay giai thoại của Hồng Hà Nữ Sĩ Ðoàn Thị Ðiểm, trước sự hỗn láo của tên sứ Tàu, đã lấy Me Việt Nam , làm đề tài , khi bà ứng khẩu một câu đối trả đũa giặc :
 
            ‘ Nam canh nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
            ( một tấc đất ở nước Nam, không biết bao nhiêu người cầy )
            ‘ Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất
            ( những người anh hùng bên Tàu, cũng từ chỗ đó mà ra)
 
            Câu đối vừa thanh lại vừa tục, hàm ý rằng dù là ai chăng nửa, thì cũng do Mẹ sinh thành, không có người, thì chẳng bao giờ có con. Chẵng vậy mà nhà văn Pháp Edmon de Amacid, đã viết trong ‘Tâm Hồn Cao Thượng’, Hà mai Anh dịch rằng :’ Người Mẹ sẵn lòng , đem một năm hạnh phúc của mình, để đổi một giờ đau đớn cho con. Người Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh , để cứu sống con mình. Con ơi, suốt đời con , sẽ có những ngày buồn rầu đau thương, và cũng là chuỗi ngày sầu thảm nhất : Ðó là ngày con mất mẹ ‘.
 
            Giờ mới hiểu tại sao, có những đứa con, do hoàn cảnh mà phải tha phương , biệt xứ, lưu lạc quê người, lại là những kẻ khao khát tình mẫu tử, nhung nhớ kỷ niệm, dù rằng đó chỉ là những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nơi chốn quê nghèo :
 
            ‘ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
            trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
            Mẹ ơi đừng đánh con đau
            Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
            Ghe bầu trở lại về đông
            Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi ?
 
            Ðó là những câu ca dao hay nhất từ trước đến nay, đọc từ đầu đến cuối không tìm thấy một chữ nào thần bí hay cầu kỳ nhưng trong ý nghĩa và mùi vị, thì đượm thắm nồng nàn , khiến cho người ta phải đau khi nhớ và không cầm nổi nước mắt thương nhớ khi thực sự đối mặt với chiều buồn. Cũng cùng trong cái hình ảnh trên, người buồn hồn lại thêm buồn, khi nhà ai bên ngõ, bỗng dưng vô tình có tiếng gọi con, trong khi lưng trời, chiều tàn, đàn chim về tổ, ríu rít gọi nhau, làm cho nổi nhớ quay quắt không ngừng, khiến cho đứa con lạc bầy, bừng bừng nhớ mẹ, rưng rưng nhớ lúc nói láo tránh đòn, khi về nhà trễ vì ham chơi với bạn sau khi tan trường.
 
            Rồi thì lưu lạc mười phương, cơ hàn đói lạnh, gian truân tù ngục, hận hờn thương tủi, chỉ một mình con gánh chịu, chính là lúc nước mắt lưng tròng , bang quơ tưởng tiếc, cái thời ngồi chờ mẹ về , để có những món quà của buổi chợ quê, mà mẹ luôn dành sẵn :
 
            ‘ cơm người khổ lắm mẹ ơi
            không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn ‘.
 
            Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời, nên rất phù hợp với chân lý của mọi tín ngưỡng, đều lấy nhân hiếu làm căn bản xử thế và hành đạo. Bởi thế con người, trong lúc gặp hoạn nạn đau khổ, thì thường than thầm hay gào to :’ Mẹ ơi con khổ quá’ , đồng thời với lời cầu khẩn các đấng thần linh giúp đỡ. Do trên , từ trước tới nay, tự đông sang tay, đã có mẹ hiền thì cũng không thiếu gì những gương hiếu tử, đáng làm gương cho hậu thế soi chung muôn đời. Những câu chuyện kể sau dây, chỉ là những chiếc lá lẻ loi trong rừng thơ, nhạc, truyện, ký.. mà nhân thế kim cổ đã sáng tạo, để vinh danh những trang hiếu tử ngời sáng muôn đời .
 
            Trong kho tàng văn chương binh dân của VN, cũng có nhiều thơ văn đề cao lòng hiếu thảo của con đối với mẹ như Pham Công-Cúc Hoa, Lục Văn Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối.. nhưng cảm động nhất là đời thực của Vua Tự Ðức, đối với mẹ ruột của mình là Ðức Từ Dũ, Hoàng Thái Hậu.
 
            Gần 40 năm về trước , nhà sinh vật học được giải Nobel năm 1973 là Konred Lorenz , chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của loài vật, đã cùng với nữ bác sĩ thú y là Marie Claun Bonsel, chuyên theo dõi đời sống của muôn thú. Qua nhiều năm thu nhặt, kết quả hai người đã tuyên bố :’ Dù con người có nghĩ thế nào chăng nửa, hoặc sự việc xảy ra do bản năng, thì chắc chắn muôn vật sẽ không còn tồn tại, nếu chúng không có tình mẫu tử .’ Do trên ta đã thấy, trong bất cứ loài thú nào, ở vào giai đoạn cực kỳ nguy hiểm , thì thú mẹ luôn lấy thân mình bảo vệ cho con cái, dù biết là mình sẽ chết. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa con người và muông thú, đó là con vật mẹ sẽ không thấy có lỗi , khi bỏ rơi con cái hay giành lấy thức ăn để sinh tồn , mặc kệ con cái có bị chết đói cũng không màng tới. Cũng do đặc tính này mà các nhà nghiên cứu đã kết luận, thú vật chỉ có bản năng tình mẫu tử, chứ không hề có tình yêu tình mẫu tử như con người. Nhưng dù thế nào chăng nũa , ta cũng phải khâm phục chúng, trong khi đối xử với con cái , hết sức dịu dàng, trìu mến , giữa một thế giới vạn vật luôn thù nghịch, đầy hiểm họa, phải giết tróc lẫn nhau để sinh tồn.
 
            Ðối với các loài thú hoang dã, khi thú con dứt sửa, thú con bị đuổi đi để tự sinh tồn. Ðây cũng là tập quán , lẽ sinh tồn của rừng xanh. Với loài khỉ đột, khỉ cái do mỗi lần sinh đẻ chỉ độc nhất một con, cho nên chăm sóc con mình rất chu đáo, can thận. Riêng khỉ đực thì dửng dưng vô trách nhiệm, vì loài khỉ theo chế độ đa thê. Loài báo bờm khi sinh con, báo con không có lông và mở mắt được trong 15 ngày, nên báo mẹ phải chăm sóc và bảo vệ con nhỏ , đồng thời bỏ đàn tìm một nơi vắng vẻ đê nuôi con, vì báo cha sẽ ăn thịt báo con khi đói. Nhưng vĩ đại nhất vẫn là tình yêu con cái, nơi loài chim cánh cụt , chúa tể của miền băng tuyết Nam Cực, một địa danh lạnh nhất hoàn cầu. Ðể chim con ra đời và sinh tồn, chim cha và chim mẹ phải thay phiên đứng giữa băng giá lạnh lẽo , suốt thời gian bốn tháng rưởi, dùng bản thân mình để ấp trứng . Riêng loài Vượt Châu Á, một loài thú được con người ca tụng nhất, vì tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt, yêu thương con cái hết mực, nên lúc nào cũng sẵn sàng lấy thân mình , để che chở con cái khi hiểm nguy. Cũng do tình mẫu tử thiêng liên, nên các ác thú như cọp, sư tử, rắn hổ mang mẹ, sẽ trở nên hung dữ dị thường, để bảo vệ con khi chúng sinh nở. Ðặc biệt nhất nơi loài gấu, vì sợ gấu cha ăn thịt, nên gấu mẹ lúc bnào cũng cõng nhỏ trên lưng khi chúng mới ra đời. Do tình thiêng đó, nên tục ngữ mới có câu : ‘ Hùm dữ còn không nở ăn thịt con ‘.
 
            Tháng bảy tiết trời Hạ Uy Di như đã chuyển sang thu, sắc nắng gió biển và những cơn mưa phùn bất chợt se mát, đã gợi nhớ những kỷ niệm quê hương của một thời xưa xa nồng thắm. Ở đây, mỗi lần nhớ mẹ, đứa con xa nhà lãng du khổ hận, chỉ còn ước ao lặng lẽ, khóc cưới mê tỉnh và bước vội lên con thuyền viễn xứ mộng mơ, để nhắm mắt mừng vui tủi tủi như thấy con đang quỳ bên gối mẹ năm nào.
 
             Mưa ngâu muôn đời, năm nào cũng đầm đìa lặng lẽ. Chắc vì Chức Nữ-Ngưu Lang đã quá vui mừng , cho nên chỉ cắn răng âm thầm nuốt lệ ? hay vì tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân, ngày ma gặp người, nên ai cũng tủi buồn mà quên cười rộ ? chỉ riêng có con với mẹ, thì ngàn đời xa biệt, dù trong đêm mưa ngâu tháng bảy, đứa con viễn xứ đã chạy theo mưa, mà gào to :’ mẹ ơi, con của me đã về ‘
 
‘ Mẹ dỗ con, con ơi đừng khóc
mẹ ru con, con ơi ngủ đi
mẽ cõng con trên tấm lưng gầy
bươm bướm bay, bay vờn theo mãi
bươm bướm bay, bay vào giấc ngủ
đậu trên mũi, mùi chuối chín cây
con bươm bướm lại cất cánh bay
đậu trên mũi, mùi thơm mía ngọt.. ’ ’
 
            Một đời từng lê gót khắp sông hồ, nếm đủ vị đời hờn hận, nay mới biết, thì ra trong kiếp nhân sinh, không có bài hát nào hay hơn bài hát của mẹ bên nôi con thơ, dù rằng chẳng mấy ai còn nhớ tiếng ru của mẹ.Lớn lên bỏ xứ mà đi và đi mãi, chỉ riêng mẹ ở lại với dòng sông con nước rồi ngả gục, mà con vẫn chưa về
  
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 8-2011