Home Đời Sống Suy Tư Dòng Đời Nhị Thập Tứ Hiếu (Hoạt Hình) , Gương 24 Người Con Hiếu Thảo

Nhị Thập Tứ Hiếu (Hoạt Hình) , Gương 24 Người Con Hiếu Thảo PDF Print E-mail
Tác Giả: Quách Cư Kính / Lý Văn Phức (Thơ)   
Chúa Nhật, 22 Tháng 8 Năm 2010 09:42

Cây có cội, nước có nguồn, làm người ai cũng có Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ. Người Việt nam xem đây là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm nào, và không giờ phút nào lại không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục cù lao của Cha Mẹ :

"Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra".

Nhắc đến ơn Cha cao như núi, nghĩa Mẹ như nước chảy từ nguồn. Trong kinh xưa thường dạy : "Hiếu vi vạn hạnh chi tiên", trong muôn đức hạnh của con người, Hiếu là đức hạnh trọng yếu thứ nhất. Cha Mẹ, hy sinh tất cả đời sống của mình cho con, mong con khi khôn lớn sẽ trở thành người hữu dụng cho xã hội sau này :

"Công cha bao năm tình thương lai láng,
Nghĩa mẹ đậm đà, chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy gì đền đáp nghĩa khó khăn... ."

Sau đây là 24 Tấm gương hiếu thảo của người xưa do Lý Văn Phức (1785-1849) lược dịch theo thể thơ song thất lục bát. Chúng tôi sẽ gửi đến các gia đình, đặc biệt các bạn thiếu nhi loạt phim Nhị Thập Tứ Hiếu “hoạt hình”, mỗi ngày một, hai nhân vật.

Xin click để xem phần Giới thiệu  tổng quát :


01- Ngu Thuấn : Hiếu Cảm Động Trời

Phim hoạt hình - Thơ : Lý Văn Phức

Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.

Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không biện biệt được người hay kẻ dở, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẩu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn giữ trọn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán.

Khi cha bắt đi cày ở đất Lịch Sơn cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn Cổ Tẩu và người dì ghẻ sai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên.

Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca. 

 

Thơ : Lý Văn Phức

Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương.

Mẹ ghẻ tính càng khe khắt,
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba,
Trên chiều cha mẹ dưới hòa cùng em.

Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối kêu mai
Xui lòng ghen chét hóa vui dần dần,

Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lọ người.
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày.

Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.

Xin click để xem phim :


2- Văn Đế : Tự Mình Nếm Thuốc

Tên thật là Lưu Hằng, con người vợ thứ của Hán Cao Tổ Lưu Bang em cùng cha khác mẹ với vua Huệ Đế. Vi người vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen dữ tợn và sợ con của người vợ thứ sau này dành ngôi, nên không muốn cho Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều. Theo lời đề nghị của đình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng chức Đại Vương ở đất Đại.

Hằng tính tình hiếu thuận được triều thần nhà Hán cũng như thần dân đều mến phục. Sau khi anh là vua Huệ Đế mất, không con nối nghiệp, các quan liền ra đất Đại rước Hằng về lên ngôi, tức là Hán Văn Đế. Khi làm vua rồi, mẹ là Bạc Hậu lại đau yếu trong suốt ba năm liền, Văn Đế, ngoài những buổi chầu, vẫn mặc đại phục của vị Vương đế và đứng hầu mẹ, biếng ăn bỏ ngủ, đêm thức canh chừng bệnh mẹ. Thường ngự y dâng thuốc lên, Văn Đế đỡ lấy rồi nếm trước sợ có thuốc độc.
Các quan trong triều cũng như ngoài dân chúng biết Văn Đế là người hiếu tử đều bắt chước theo. Nhờ đó, người trong nước đều giữ lòng hiếu thảo hòa mục và thiên hạ thái bình thạnh trị không khác gì ở thời Tam Đại thuở trước. (Tam Đại gồm có các đời vua nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu).

 

Thơ : Lý Văn Phức

Kìa Văn Đế vua hiền Hán Đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi phiên Vương,
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lẽ thường chẳng sai,

Đến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săn sóc như xưa.
Mẹ khi ngại gió kinh mưa.
Ba năm hầu hạ thường như một ngày.

Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ.
Áo luôn mình dám sổ đai lưng.
Thuốc thang mắt xét tay nâng.
Có tường trong miệng mới dâng dưới màn.

Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,
Thói thuần lương hóa cả lê nguyên,
Hai mươi năm lẽ kiền khôn.
Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang.

Ấy hai vị đế Vương đời trước,
Chữ hiếu dành đá tạc vàng in,
Còn ra sĩ thứ, đấng hiền.
Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.

Xin click để xem phim :