Home Đời Sống Dinh Dưỡng Nghiên cứu: Uống cà-phê giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư trong miệng

Nghiên cứu: Uống cà-phê giúp giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư trong miệng PDF Print E-mail
Tác Giả: Người Việt   
Thứ Sáu, 30 Tháng 1 Năm 2009 06:31

Tuesday, January 20, 2009   
 NEW YORK (Reuters) - Một cuộc nghiên cứu mới ở Nhật Bản cho thấy rằng uống cà-phê giúp giảm nguy cơ phát sinh bệnh ung thư trong miệng hoặc cuống họng.

Ðể khảo sát hiệu ứng bảo vệ của cà-phê, Bác Sĩ Toru Naganuma, thuộc trường đại học Tohoku University, và các đồng nghiệp đã phân tích những số liệu từ cuộc nghiên cứu tên là Miyagi Cohort Study trong dân chúng Nhật.

Cuộc nghiên cứu Miyagi Cohort Study bao gồm những thông tin về thói quen dinh dưỡng, kể cả sự tiêu thụ cà-phê. Cuộc nghiên cứu này bao gồm hơn 38,000 người, ở tuổi từ 40 tới 64, không có tiểu sử mắc bệnh ung thư vào lúc bắt đầu. Trong suốt 13 năm họ được theo dõi, đã có 157 trường hợp mắc bệnh ung thư trong miệng, hoặc ung thư trong cuống họng và thực quản.

Khi so sánh với những người không uống cà-phê, những người uống một ly cà-phê, hoặc nhiều hơn, mỗi ngày thì giảm một nửa nguy cơ phát sinh những bệnh ung thư nói trên, theo phúc trình của toán nghiên cứu, do Bác Sĩ Naganuma cầm đầu, đã đăng trên đặc san y khoa Mỹ American Journal of Epidemiology, số Tháng Mười Hai năm 2008.

Họ ghi nhận rằng sự giảm nguy cơ nói trên bao gồm cả những người có nguy cơ cao có thể phát sinh những bệnh ung thư đó, nghĩa là gồm những người thường uống nhiều rượu và/hoặc có thói quen hút thuốc lá vào lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu.

Bác Sĩ Naganuma nói với thông tấn Reuters: “Trước đây chúng tôi đã không dự kiến rằng chúng tôi có thể nhận thấy có sự liên hệ đảo nghịch đáng kể như vậy giữa sự tiêu thụ cà-phê và nguy cơ mắc những bệnh ung thư nói trên, ngay cả đối với những người thuộc nhóm có nguy cơ cao.”

Các nhà nghiên cứu kết luận trong phúc trình: “Tuy sự chấm dứt tiêu thụ rượu và hút thuốc lá hiện nay được coi là cách tốt nhất để giúp giảm nguy cơ phát sinh những bệnh ung thư này, cà-phê có thể là một yếu tố ngăn ngừa đáng kể cho cả những người có nguy cơ thấp lẫn những người có nguy cơ cao.” (n.m.