Thịt Chuột PDF Print E-mail
Tác Giả: Vũ Bằng   
Thứ Bảy, 10 Tháng 1 Năm 2009 06:08

Thế là hết, bao nhiêu thành tâm, với công trình thức trắng đêm để muối được một liễn thịt chuột đem lên cho con gái ở đô thành tan vỡ hết trong giây phút chỉ vì một chữ không. Không ăn. Không thể nào ăn được. Ghê lắm. Mấy đứa cháu nhất định không dám ăn. Có nhiều người chồng vốn đã là người “kén” ăn không thể náo chịu nổi, nhưng vì chiều vợ chỉ cười mà không nói gì. Là vì cái liễn thịt chuột muối kia là của bà già vợ lễ mễ đem từ An-giang, len cho “vợ chồng con Tư” - mà chuột An-giang, khỏi phải nói, ai cũng biết là nổi tiếng ngon nhất miền Nam nước Việt. Tội nghiệp nó lấy chồng đã mười một năm nay mà chưa có cơ hội về thăm quê. Nhớ lại lúc nó còn con gái, chỉ thèm ốc gạo và thích chuột mà dăm thì mười họa mới được ăn một bữa. Không phải vì An-giang hiếm chuột-trái lại nhiều là khác- nhưng chỉ vì tại ở nhà không có con trai, nên không có người đi săn chuột về ăn. Bỏ tiền ra chợ mua,đối với con nhà nghèo, là chuyện không mấy ai nghĩ tới. Sống ở quê, thèm chuột quá mà phải nhịn; bây giờ có tiền ở đô thành muốn ăn thịt chuột chắc gì đã có, bà già nhà quê mang liễn thịt chuột muối biếu con, hí hửng là cả nhà người con gái cưng của mình sẽ tiếp nhận một cách niềm nở và thưởng thức say mê, không ngờ vừa mới mở nắp liễn ra thì, trừ người vợ, cả nhà đều há hốc miệng mà kêu lên một tiếng vô nghĩa, chưa thấy ghi trong từ điển.

Có phải tại ở đô thành người ta không biết ăn thịt chuột không? Hay tại anh chồng Bắc-kỳ không thấy ai ăn thịt chuột bao giờ nên nghe thấy nói thịt chuột thì bở vía? Không phải. Ở Bắc-kỳ, tại các miền quê, có khối người ăn thịt chuột, nhưng anh chỉ nghe thôi mà thực mắt thì chưa thấy ai ăn bao giờ. Anh ta quan niệmrằng những người ăn uống như thế là ăn uống lem nhem, bần cùng bất đắc dĩ mới phải ăn thịt chuột; phải chi có tiền để ăn thịt lợn, thịt gà, thịt bò, thịt vịt thì chắn chắn không ai nghĩ tới chuyện ăn thịt chuột bao giờ. Vào đến đây, anh ta đi dạo chợ Bán-cờ, xóm Chiếu, đôi ba lần đã thấy có người xách hai ba cái lồng làm bằng dây kẽm bán chuột, mỗi lồng độ hai chục con, lớn bằng chừng cái cườm tay, còn sống nguyên, con nào con nấy vểnh râu ra, phình phình lỗ mũi, giương mắt ra nhìn thiên hạ một cách nhâng nháo như những thằng ăn cướp. Ay thế mà người ta cũng kéo đến mua đáo để. Hai trăm, hai trămrưởi một chục con. Người mua chuột chỉ vào từng con, người bán, y như thể một tay hát xiệc, bắt đúng tẩy liền, lôi ra khỏi lồng, quật đánh đét một cái xuống đất, con chuột chết hộc máu mồm giẫy mấy cái rồi “đi đứt”. Mà tuyệt nhiên người bán lúc bắt chuột không hề bị con nào đụng đến cái móng tay!

-Thấy vậy, tôivẫn ưa nghĩ rằng chắc gì chuột đồng như người ta vẫn nói! Hơn thế, tôi yên trí các tay bán chuột đó là mấy anh chàng ngụy tạo dân vườn ruộng và chuột của họ là chuột cống ăn bẩn ăn thỉu, ăn dơ ăn dáy mà hằng đêm họ vẫn bắt được ở cống rãnh, sình lầy, tha ma mộ địa, ăn vào chưa biết ngon lành, bổ béo đâu ma hãy thấy là rất có thể bị thổ tả, hay dịch hạch.

Vì yên chí như thế, ở Bắc rồi vào Nam, tôi nhìn những người ăn thịt chuột với những ý nghĩ đặc biệt: vừa sợ, vừa ghê. Đến khi vào đây sống với những người bạn đầu gấu tay ấp miền Nam, đi đây đi đó và đêm khuya ngồi nghe vợ nói chuyện về các món ngon vật lạ, tôi phải nói là tôi ngạc nhiên không chịu được vì thịt chuột không phải là thức ăn bời nhưng là một thực phẩm gia dụng, món ăn nào được nhiều người ưa chuộng và ca tụng hơn cả thịt gà, thịt vịt, thịt rừng, thịt chó.

Ăn thôi nôi đứa nhỏ xong rồi,hai vợ chồng sau khi tiễn khách ra về, ngồi uống nước với nhau ở giàn hoa thiên lý. Không hiểu vì liên tưởng ra sao, vợ bảo chồng:

- Anh có thành kiền với rất kỳ. Lúc nào anh cũng quan niệm gà rô-ti là nhất, phải chi hôm nào em làm một món thịt chuột ram mặn cho anh xơi, anh sẽ thấy gà rô-ti, ngỗng rô-ti, vịt rô-ti, không đi đến đâu hết. Anh tưởng cái mỡ hai con gà sống hôm nay em làm là “nhất” rồi ư? Không, anh ơi, mỡ ấy chẳng thấm vào đâu với mỡ chuột, nó vàng, thơm mà lại ăn không ngán, ăn lại muốn ăn hai, ăn ba, ăn bốn, ăn mãi không thôi.

Vợ chồng sống với nhau mãi rồi thành ra cũng phải chịu đựng nhau. Mới đầu thấy nói ăn thịt chuột thì ghê, không muốn nghe nói tới, dần dần, nó quen đi, vợ muốn nói gì mặc kệ; nhưng sau, mình tò mò, chú ý hơn một tí, thì thấy cũng “là lạ” và mặc dù không muốn ăn thử xem sao nhưng không thấy kinh tởm như trước nữa.

-Ấy là tại chiến tranh mà ra cả.

Không phải vì đói mà ăn bừa bãi. Nhưng mà chính tại vì mình có một hôm đọc được ký sự của hai tù binh Mỹ bị quân dịch bắt giam đưa đi hết đó thì đây. Theo lời của hai quân nhân đó, họ bị giam cầm khô sở quá, mất mỗi người đến hai hay ba chục ký và thường bị bỏ đói và chính những lúc đói quá như thế họ ăn bất kể cái gì rơi ở dưới tay: nhái, củ dây, chuột…Nhũng thứ đó cứ đem nướng đại lên ăn, và ăn như thế,tưởng là tỏm, nhưng chẳng sau hết, mà lại ngon là khác.

Người vợ nói đùa chồng:

- Anh mà lâm vào trường hợp như thế liệu có còn kém ăn không. Nói mà chơi vậy thôi, chớ bao giờ em lại mong như thế?! Dẫu sao, em cũng chẳng nghĩ rằng hai tù nhân Mỹ ấy ăn ngon là phải vì chắc chắn chuột ấy là chuột đồng, chớ nếu là chuột xạ, chuột lắc tí teo, chuột cống chui rúcở các mương, cống trong châu thành thì chính em cũng xin lạy cả nón, không dám ăn một miếng.

Chuột ở quê em cũng như chuột ở các vùng quê khác để ăn, phải la thứ chuột đồng chíng cống, chuột thịt ăn toàn lúa ngát, cỏ non, bắp dẻo, khoai mỡ, uống nuóc kinh, nước hồ, nước dừa, nước suối và hít thở toàn không khí ngào ngạt hương cỏmay và mùi thơm tình tứ cả hoa cau, hoa bưởi…

Không. Muốn đề cao thịt chuột thế nào đi nữa thì anh chồng Bắc-kỳ cũng cứ lắc đầu. Nhưng một hôm kia đi về thăm quê cô Năm, bạn vợ, anh chồng tự nhiên thấy lòng mình lâng lâng vì cập với cô Năm đi chợ, anh thấy chính cô cũng ca ngợi thịt chuột và mua mấy chục về ăn chơi. Người cô đẹp, giọng cô hữu tình, mắt cô lại lẳng: thế là chết anh đàn ông, tự nhiên nhìn thấy cái gì của cô cũng đẹp, lời nói nào cô cũng hữu lý có duyên và anh ta muốn ăn thửxem thịt chuột ra thế nào mà người ta ca ngợi hết lời như vậy. Cái máu mê của anh đàn ông đa tình đánh cho chết cũng không bao giờ thay đổi. Nhưng vốn đã biết tính đa nghi của vợ, anh vẫn làm bộ giẫy lên đây đẩy để cho chính vợ phải khuyên nhủ đừng làm buồn cô năm, anh ta mới không chê ỏng chê eo. Ừ thì ăn, đã làm sao chưa? Anh ta nghé bên này, ngó bên kia, làm ra cái bộ ngạc nhiên hết sức, nhưng rút lại cứ bám cô Năm đi hết dẫy hàng ở chợ để xem cô lựa chuột.

Lúc đó bắt đầu mùa mưa. Từ lúc mưa bắt đầu thưa thớt cho đến khi mưa xối xả suốt ngày suốt đêm, chẳng cứ chợ An-giang, bất cứ ở chợ nào cũng bàybáb chuột như ở thành thị người ta của Mỹ đánh cắp ở P.X bày bán la liệt ở hai dẫy hè đường. Trên thì trời, dưới thì chuột: tự nhiên anh cảm thấy mình không ăn thịt chuột thì thành ra ọi người mọi rợ cũng như một ông mặc quần áo sang trọng lạc vào một thế giới khỏa thân hóa thành một “quái thai” một “dị nhân” – nếu không muốn nói là quái vật.

Kể từ lúc ấy, anh cảm thấy đỡ ghê tởm một phần nào. Thực tình, nghĩ thì kinh, có nhìn thấy chuột bày bán ở chợ thì cũng chẳng cảm thấy sợ hãi hơn khi ta nhìn thấy bán thịt heo, thịt rừng, hay thịt gà, thịt vịt. Chuột săn đem về đươc đập chết rồi đem thui, lột da, mổ bụng, lấy bớt mỡ chỉ chừa lại lá gan rồi đem ngâm nước phèn, thịt chuột đỏ dần lên sau lần lần xuống mầu, Trắng phau phau và láng bóng giống như da người trinh nữ; có đôi chỗ lại ửng hồng lên. Không, không cách gì anh cũng phải nhận với tôi rằng cái da thịt mịn màng ấy hứa hẹn không biết bao nhiêu, hấp dẫn không biết chừng nào và trừ phi anh là Liễu Hạ Huê không nói gì, chớ nếu anh cũng là người như tôi muốn gì anh cũng phải liên tưởng một cách tục tĩu và tội lỗi đến thân thể ngọc ngà “dầy dầy sẳn đúc” của cô Năm Trứng Gà – chẳng gì nổi tiếng lá “người đẹp Long-xuyên” một thuở.

Cô nói với vợ tôi, nhưng lại lúng liếng con mắt về phía tôi:

- Chị Tư đã biết quá rồi, lựa tì phải nói, nhưng anh Tư đây có lẽ chưa biết rõ nên cứ nói nghe chơi. Cái giống chuột này thui lên rồi lột da ăn mới thiệt ngon, chứ đem đi nhúng nước sôi thì trông như chuột chết sình, không những đã không đẹp mắt mà ăn vào lại không thơm. Bởi thế, chuột bán ở chợ hầu hết đều đem thui vàng rồi lột da không có ai bán chuột sống trừ phi phải chuyên chở từ tỉnh này sang tỉnh khác. từ nhà quê ra kẻ chợ.

Tôi đã được thấy người ta mua chuột sống ở xóm chợ Chiếu, chợ Bàn-cờ, nhưng muốn thực biết người ở đây thú thịt chuột đến chừng nào thì buổi sáng đẹp trời nào phải đi dạo ở các chợ An-giang xem người ta mua thịt chuột tưng bừng như thế nào. Không phải chỉ có d6n quê mới ăn thịt chuột như ở Bắc ta vẫn thấy, nhưng thị dân cũng thấy say mê thịt chuột luôn: này, ông nghị viên mua ba chục đấy, hai trăm hai một chục có bán không? Còn bà Bảy bán chạp phô, chú cTiều mập ở xế chợ che chuột không béo và kém tươi muốn bỏ đi, nhưng không biết tiếc rẻ làm sao lại trả hai trăm mười lăm đồng một chục, thôi báo cả đi để về cho sớm sủa có hơn không, bà Sển.

Thì ra không phải chỉ có cợ tôi và cô Năm Trứng Gà mê thịt chuột mà “bàn dân thiên hạ” đều mê. Tôi bất thần nhớ có lần đã thấy có cô vào tiệm cầm đồ ở tỉnh cầm cà rá và dây chuyền lấy ít tiền, ra gần đó mua luôn ba ký sầu riêng ăn cho đã đời: đến mùa thứ trái cây này mà không đựoc thưởng thức, một số người đã cản thấy mình thiếu thốn, đau khổ coi như mình bị trời bạc đãi. Vào cữ tháng bảy tháng tám, những người đã có lần thưởng thức được thịt chuột rồi mà không được ăn thịt chuột có lẽ cũng ở vào trạng thái tâm lý của những người cầm dây chuyền và cá rá để ăn sầu riêng cho kỳ được.

Thực đến bây giờ tôi không biết cái sắc đẹp hữu tình của cô Năm Trứng Gà ảnh hưởng đến bữa thịt chuột đầu tiên bao nhiêu phần trăm, nhưng tôi thành thật tin rằng không có món thịt nào mà được chế biến nhiều món như thịt chuột. Thịt bò nhiều lắm chỉ có bảy món, thịt dê độ bốn năm món, thịt gà thịt vịt cũng năm sáu món là cùng, chớ thịt chuột thì có thể chế biến ra được mươi mười hai món, mà đến món nào cũng hấp dẫn, món nào cũng lạ, và món nào cũng có hương vị khác nhau.

Tôi phục cô Năm và vợ tôi đã cho tôi thưởng thức bốn món ăn chơi “lẫm liệt”: Chuột lá lốt, chuột cuốn, chuột xé phay và chuột lúc lắc. Nhưng làm cho ta sướng cả khứu giác, thị giác và thính giác cùng một lúc có lẽ là cái món chuột nướng vàng trên than hồng, mỡ rớt xuống than cháy sèo sèo, bốc lên một mùi thơm điếc mũi còn hơn cả bún chả băm và chả miếng của người Hà-nội. Ngồi ờ đầu xóm cuốu xóm chỉ nghe mùi thơm cũng bắt thèm và phải chửi đổng một câu cho … đã tức! Rượu đế nước nhất ngâm sâm và bìm bịp, hạ thổ một trăm ngày lấy lên uống rồi gấp một miếng vàng ngậy như mùi da đồng, nóng hôi hổi, chấm nước mắm xả ớt, điểm mấy sợi xòai thái rồi nhai rất từ từ và lấy hai ngón tay nhón một tí rau thơm, một tí húng cây hay một tí ngò tây, anh sẽ thấy... quái! Sao cái thịt này nó mềm thế nhỉ, mà lại ngọt, mà lại thơm một cách rùng rợn, mê ly đến thế nhỉ!

Ăn đến ba miếng, rượu bắt đầu làm cho “cái chất xam xám” ở trong đấu người đàn ông xáo động và anh ta nhớ lại có một ngày mươi mười lăm năm về trước, anh đã trịnh trọng dự một bữa gỏi cá của một người bạn già mời, mà không báo trước cho anh biết là sẽ ăn món gì. Ngồi vào bàn, biết là chủ nhân mời ăn gỏi, anh ta chóang người lên, liếc con mắt hỏi ý kiến người bạn ngồi bên cạnh thì người bạn này cũng không biết thưởng thức cái món này luôn; nhưng vì xã giao, hai ngừoi bấm nhau bảo cứ ăn vừa một vài niếng xem sao thì rút cuộc chính hai cha lại ăn kỹ nhất, và ca ngợi món ăn này nhiều nhất.

Bữa ăn thịt chuột đầu tiên của tôi tại An-giang cũng như là bữa ăn gỏi ở miền Bắc Việt-Nam: Nhưng không lẽ đâu lần đầu gặp người đẹp mà lại cứ ăn tì tì một cách “phàm phu tục tử” coi sao cho tiện, tôi đành phải làm ra vẻ “khảnh ăn” xin một chén cơm, “viện cớ không uống được rượu nhiều”.

Ăn thịt gà, thịt bò, thịt vịt, thịt heo, xong món này thì đổi món khác, điều ấy ai cũng thấy rồi và có như thế thì người ăn mới lạ miệng và không thấy ngán. Ôi chao, đến cái thịt chuột thì huyền diệu lắm: nhậu thịt chuột rồi, đến lúc ăn cơm lại dùng những món chuột luôn, vậy mà chẳng thấy ngán một li ông cụ, trái lài vẫn cứ ngon ơ, ăn muốn…chết cơm mà miệng vẫn cứ muốn còn ăn nữa. Mê không để đâu cho hết là món chuột bằm nhỏ xào rau mò om cập với bánh tráng nướng và món chuột xào bầu vừa mát vừa thơm, từa tựa như cơm trộn với trứng cáy mà lại ăn thêm với mấy cọng rau sắng chùa Hương vậy.

Quả tình là rượu lúc ấy đã ngà ngà nhưng trước mặt vợ, mình phải tính tóan đo lường từng câu nói không dám ca ngợi cô Năm Trứng Gà quá mức, sợ vợ buồn. Thì quả đêm ấy về đến nhà, vợ chồng ngồi nói chuyện với nhau, vợ gợi lại bữa ăn ban ngày và nói:

- Không, cứ kể chị Năm làm ăn đã khéo lắm, nhưng anh cho cái món “chuột bằm nhỏ xào rau mò om” hôm nay là nhất là em không chịu. Để hôm náo có ai về Hậu-giang, em gửi mua vài chục làm mấy món “lạ hơn nữa” anh ăn thì chắc chắn muốn chết luôn.

Biết là lúc này là giờ quyết định để mà nịnh vợ không có thế mặt sẽ “sưng lên một đống”, tôi phải lấy một cái giọng rất vui vẻ trẻ trung:

- Thôi, em đừng nói nghe ma thèm. Thèm luôn cả em nữa đấy!

Như được gảy vào lòng tự ái, vợ tươi hẳn mặt lên:

- Anh có thể tượng em làm cho anh những món gì không? Sơ sơ làm bốn món thôi, nhưng bốn món anh mê chết mất. Là món chuột ướp ngũ vị hương chừng một tiếng đồng hồ đem khìa với nước dừa, đậy vung lại ướp hành, tỏi sả bỏ lò, món chuột kho mềm sau khi ram chuột và khô chuột. Mùa nước, chuột nhiều, ăn không hết đem thui đi, lột da, chặt đầu chặt đuôi làm mắm để dành ăn quanh năm; còn mùa nắng thì làm chuột, ướp với lá lốt, ăn còn sướng hơn cả khô nai, khô bò, khô cá sặt…

Trăng chiếu vào nửa tâm giường, lung linh bóng lá cây thiên lý. Xa xa có tiếng chim đêm. Người vợ lim dim con mắt, thả hồn về xứ mộng có giống chim kêu lên năm tiếng một lần và nói như mơ.

- Anh ơi, nhớ không biết bao nhiêu, yêu không biết chừng nào những cái rừng cát mà em sinh sồng khi còn bé nhỏ. Phải rồi cứ vào cái cử mưa này đây, em hay đi xem người ta săn chuột, vui như hội. Anh không thể tưởng tượng những tay săn đó giàu kinh nghiệm và thông thạo nghe nghiệp của họ đến chừng nào. Trông một cái bãi có những cây lát ngã nghiêng họ biết là có chuột đi qua, đi phía nào, làm ổ ở đâu và như thế rôu họ đem những cái “đăng” ra giăng mắt khu vực đó theo hình chữ V, nói một cách khác là họ bủa giăng tứ phía để vây chuột lại không cho chạy ra ngoài. Ơ cuối đăng, họ đặt một cái “lọp” lớn bằng dây kẽm chế theo kiểu cái nơm đơm cá, miệng lớn lòng nhỏ và có dây kẽm đâm ra tua tủa để cho chuột mắc vào chỗ đó thì chỉ thấy cửa tử mà không còn cửa sinh. Bố trí xong xuôi, họ lấy những cây mía đập giập đầu hay thùng sắt tây khua ầm ĩ để làm cho chuột hoảng sợ chạy từ phía miệng đăng vào lọp.

Bắt như thế có khi bọn ba bốn người vớ được dăm bảy chục con. Nếu không muốn ầmĩ quá, có người dùng đèn măn-xông. Ba bốn chục người cầm ba bốn cái đèn măng-xông đến nơi có chuột đã đượ khám phá từ buổi trưa hay lúc trời chạng vạng: họ chiếu đèn măng-xông vào khu vực có chuột làm cho cả một vùng sáng loé như thể bị Mỹ thả hỏa châu để tìm quân địch. Nhưng chuột hơi khác người một chút: thấy sáng chói chúng sợ hãi nhảy cả ra và bị chóa mắ t đâm ra lòi ruột kêu choe choé.

Nghĩ cũng là tình: trong tất cả những giống vật có lẽ không có loài nào khôn ngoan lanh lẹn đa mưu đa kế như giống chuột. Chúng bén chạy về đủ mọi bộ phận: đi lại thong thả trong đêm tối mà không vấp té. đó là nhờ hệ thống râu ria ở hai bên mỏ và phần lông ở hai đầu dài hơn lông ở mình một chút; chúng đánh hơi người rất nhạy cũng như các vật mà người ta dùng đánh bả; ngoài ra lại có một khả năng truyền giao cách cảm rất mạnh, nhờ hệ thế mà chúng báo hiệu cho nhau nhanh y như thể ra-đa mỗi khi trong xã hội của chúng có con bị bẫy, bị đánh hay ăn phải bả. Hội đủ ngần ấy ưu điểm chuột có thể xâm lăng loài người dễ như bỡn, ấy thế mà rốt cuộc chúng vẫn bị loài người chế ngự và đặt dưới cái ngàm nô lệ. Ấy là vì người ta đã tìm biết được một khuyết điểm của loài chuột về thị giác.

- Nói giỡn sao, em? Thấy thế nào mà lại dám bảo chuột yếu về thị giác?

- Ai chẳng tưởng mắt chuột lồi ra và đen lay láy như thể là tinh, chả thế mà các cụ vẵn nói “mắt cứ tho ló như mắt chuột”. Ấy vậy mà tho ló là một chuyện mà yếu lại là chuyện khác. Người nhà quê không hiểu sống vì kinh nghiệm hay đọc sách cổ xưa nào không biết, quả quyết rằng cái tầm của loài chuột tương đối ngắn và hẹp và điểm đặc biệt nhất, ly kỳ nhất ,là mắt của chúng chỉ nhìn được theo một chiều ,không thể lúng la lúng liếng, liếc dọc liếc ngang như những cô gái và chàng trai đi bợm.

Biết đúng khuyết điểm ấy ,những người săn chuột chĩa không bao giờ tiến đến phía chúng từ đằng trước mặt .Nhưng dùng chĩa đăm chuột, không ham mấy.Bắt sốngchuột là điều đáng kể hơn.Muốn bắt sống,cũng không mấy khó:họ dùng chó để bắt hơi hang naò có chuột nhiều.Biết được “tổ chấy” rồi ,họ đào hang,chú naò hoảng nhảy ra thì chộp liền cho vaò lồng bằng dây kẽm.Tuy nhiên,thường thường người ta không đào hang làm gì cho mất công: tìm được một hang chuột rồi, chi một người và chỉ một người thôi cũng có thể bắt được hàng dăm chục chuột. Họ lấy miệng hang làm căn cứ, rồi từ đó đi tìm các ngách bịt kín lại và chỉ để lại một ngách thôi. Đoạn, họ lấy rơ, ẩm chất ở miệng hang đốt, un khói và quạt cho khói lùa vào trong hang đánh một trận hỏa mù quyết liệt. Ngồi chờ ở miệng ngách qủa nhien chỉ một lúc thì thấy chuột bố, chuột con, chuột bô lão, chuột nhi đồng, lóc nhóc bò ra vì không thể nào chịu nổi khói nó làm cho chảy nước mắt nước mũi hắt hơi tức thở như công lực thả lựu đạn cay vào những người biểu tình chống độc tài áp bức.

Anh ơi, anh ơi, muốn nói cách mấy đi nữa anh cũng không thể nào quan niệm được cái tài săn chuột của người nhà quê với tất cả sự thâm hiểu về đặc tính vạt lý, về đời sống, về tập quán và bản năng phản ứng của họ về loài chuột.

Chuột có thể sống lâu nhất chừng ba hay bốn năm, nhưng thường thường là không thọ nổi quá một năm nếu sống ở ngoài đồng ruộng bởi vì chúng phải đối đầu với những bất trắc về điều kiện không thuận lợi về thời tiết và khí hậu. Em nhớ có một lần có một công kỹ nghệ gia tên Hồng Đức Tồn đã về vùng em để nghien cứu về nghề nuôi chuột lấy thịt ăn theo khoa học, như ta nuôi gà Mỹ hay nuôi chim cút. Theo ông ta thì thường một con sống với một con đực chớ không chơi bậy bạ, như đa số người ta. Khi con cái từ một tháng rưỡi đến năm tháng thì nó chịu đực và có thể sanh sản và truyền nhược tôn. Thời gian từ khi thụ thai với con đực cho tới khi sinh đẻ, khoảng chừng hai mươi mốt ngày và trung bình mỗi lứa con cái sanh được tám con. Mỗi năm một con cái có thể sanh bốn bận.

Tám con chuột con thường gồm bốn đực và bốn cái. Ma thuật ái tình lại quay lại cái vòng truyền thống: từ một tháng rưỡi đến bốn năm tháng, tám cập này lại hạ sanh mỗi cập tám con, tám tám sáu mươi tư, tựu trung một con chuột cái tính sơ sơ một năm cũng cho ra đời khoảng ba bốn trăm con chuột cháu, chuột chút và chuột chụt. Tuy nhiên, không phải chuột bất cứ ở vùng nào cũng sinh sản theo mức độ trên. Có những vùng khí hậu thích hợp, thức ăn dễ dàng, chuột sanh sản nhiều hơn nữa, nhưng trái lại có những vùng khó kiếm thức ăn thì tương đối ít hơn: chỉ đẻ khỏe vào mùa mưa còn mùa nắng thì cai đẻ (không biết bằng thuốc ngừa thai hay bằng phương pháp Ogino-Knauss?).

Em còn nhớ có một lần đi xem hun chuột, em đã thấy có người bắt được cả một ổ gồm hai vợ chồng và nười ba con đỏ hon hỏn, chưa mở mắt. À này, ngoài Bắc có biết được điều này không nhỉ?

Người vợ nằm sát lại người chồng hơn và nói nhỏ như tiết lộ một bí mật gì ghe gớm lắm:

- Chuột con, chưa mở mắt, ngâm rượu, hạ thổ bách nhật trị hết bịnh suyễn đấy. Anh có biết thế không?
- Không. Nhưng hình như đã lâu lắm lắm rồi, anh có đọc bài báo Pháp của một nguyên Đại-sứ Tây-ban-nha viết về những con chuột bào tử, những con chuột mới ra đời chưa mở mắt.
- Họ có nói rằng những con chuột đó trị khỏi chứng hen suyễn như em vùa nói phải không?

Không. Dùng chuột để chữa bệnh, chắc là người Âu Mỹ chưa biết và có lẽ lúc này họ còn nghiên cứu. Chuyện chuột bào tử đây thuộc phạm vi ăn uống.

- Trời ơi! người Âu Mỹ cũng ăn thịt chuột hay sao?

- Để yên cho anh nói, em thương ạ. Nguyên Đại-sứ Tây-ban-nha mà anh vừa nói đó, lúc ấy Đại-sứ ở Trung-hoa, dưới triều Mãn-Thanh. Hoàng đế Trung-hoa, Tây Thái-hậu. Dự buổi tiệc ấy về, ông ta viết hồi ký dầy bằng một cuốn sách, thuật lại từ cách tổ chức, trưng bày, lề lối thù tiếp, ăn uống cho đến các chi tiết các món ăn mà người đầu bếp của người nhà vua đã nghiên cứu và nấu nướng để cho quan khách thưởng thức trong hồi hộp,kinh hoàng, và tán thưởng liên tiếp suốt cả tuần-là vì bữa tiệc ấy kéo dài trong suốt cả tuần, chớ sao! Ăn uống say sưa rồi, ai muốn ngủ có phòng riêng và có người đẹp như tiên hầu hạ; ai có công việc phải đi, cứ tự nhiên rôi lại về ăn; còn ai muốn đánh bài, ăn thuốc, thì sang một khu riêng có đủ các thứ “tệ đoan xã hội” cứ dùng thả rồi lại quay về ăn uống, ăn uống thế nào kỳ cho thích khẩu thì thôi. Vì đọc thiên hồi ký đó trên dưới hai mươi năm nay rồi, anh không thể nhớ hết chi tiết các món ăn là nhất, quí nhất và ngon nhất thế giới để kể lại cho em thương; chỉ nhớ trong các món ấy có mọt món kêu là sâm thử. Sâm là cây sâm, thử là chuột, sâm thử là chuột sâm.

- Kỳ, sao lại có thứ chuột gì là chuột sâm?

Nguyên Đại-sứ Tây-ban-nha thuật lại rằng đến món ăn đặc biệt ấy thì có một ông quan đứng lên giới thiệu trước rồi quân hầu dưng lên bàn tiệc cho mỗi quan khách mỗi cái đĩa con bằng ngọc trong có một con chuột bào tử chưa mở mắt, đỏ hon hỏn hãy còn cựa quậy - nghĩa là một con chuột bào tử sống. Bao nhiêu quan khách thấy thế chết lặng đi bởi vì nếu phải theo giao tế mà ăn caí món này thì… nhất định phải… trả lại hết những món gì đã ăn trước đó. Mọi người nhìn nhau. Tây Thái-hậu cầm nĩa xúc con chuột bào tử ăn để cho mọi bắt chước ăn theo. Con chuột kêu chi chí, người tinh mắt thấy một tia máu vọt ra…

Hoàng đế Trung-hoa thong thả vừa nhai vừa suy nghĩ như thể muốn kéo dài cái thú ăn tuyệt diệu ra để cho cái thú ấy thấm nhuần trí óc và cơ thể. Và Ngài nói: “Mời chư vị”. Nhưng không một vị nào đụng đũa, cứ ngồi đơ ra mà nhìn. Tây Thái-hậu bèn cười mà nói đùa: “Tôi tiếc không thấm nhuần được cái văn minh Âu Mỹ của các ngài, nhưng riêng về cái ăn thì tôi thấy quả các ngài chậm tiến, không biết cái gì là ngon là bổ. Về món đó, các ngài có lẽ không phải học nhiều của người Á Đông”.

Không một ông nào trả lời vì có lẽ các ông đại diện ấy đến lúc ấy đều bán tín bán nghi không biết ăn chuột bào tử như thế là văn minh hay man dã. Tuy nhiên người ta có thể chắc chắn là chưa có một nước nào trên thế giới lại có một món ăn tinh vi, quí báu, cầu kỳ đến thế bao giờ.

Chuột mới đẻ đem nuôi trong lòng kính cho ăn toàn sâm thượng hảo hạng và uống nước suối, đến khi đẻ ra con thì lấy những con đó nuôi riêng cũng theo cách thức đó để cho sinh ra một lớp chuột mới, nhưng lớp chuột mới này vẫn chưa dùng được. Cứ nuôi như thế đến đời thứ ba, chuột mới thật là “thập toàn đại bổ”, người ta mới lấy những con chuột bào tử của thế hệ mới này ra ăn và ăn như thế tức là ăn tất cả cái tinh hoa, bén nhạy, khôn ngoan của giống chuột cộng với tất cả tính chất cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh trán dương bổ thận của cây sâm vốn được y lý Đông-phương đặt lên hàng đầu thần dược từ cổ chí kim trong trời đất.

- Nói nghe và bắt rủng mình. Thế cái ông ngoại giao đó có nói trong đại diện mười tám nước Âu Mỹ có ông nào dám ăn cái món sâm thử đó không?

- Chính cái ông Đại-sứ Tây-ban-nha nhắm mắt lại thử ăn nhưng thú thực rằng vừa cho vào miệng cắn một cái thấy chuột con kêu chi chí, ông ta vội vàng chạy ra ngoài, lè ra, và một tháng sau còn sợ. Sau này, đem câu chuyện đó nói với mấy vị đông y sĩ, ông ta biết rằng người Âu Mỹ không biết ăn món ấy quả là “chậm tiến” và mấy ông già còn cho biết thêm rằng chuột thường nuôi bằng sâm đã bổ hết sức rồi, nhưng nếu tìm được giống chuột chù mà nuôi bằng sâm theo cách thức nói trên thì còn bổ gấp trăm lần nữa

- Bộ anh giỡn em sao? Ăn chuột chù? Thế anh có biết cái giống chuột chù ra sao không đã?

- Biết quá rồi hôi nhất trong giống chuột là giống chuột chù chứ còn gì? Nó xấu: mõm dài, mắt mù dở, đi đứng chậm chạp lông xam xám tiết ra từ đàng xa một mùi hôi rình rình chỉ ngửi thấy cũng đủ thấy buồn nôn lộn mửa rồi, còn nói gì ăn thịt. Ấy thế mà sách Tàu lại nói rằng thịt chuột chù ngon hơn cả các giống chuột khác. Riêng anh lúc còn ở Bắc đã có lần nói chuyện ăn thịt chuột với một nhà sư trẻ tuổi cùng học với anh ở trường sơ đẳng. Nhà sư ấy quả quyết đã nhiều lần ăn thịt chuột chù và cam đoan rằng giống chuột chù sở dĩ hôi chỉ vì lông, nếu thui thật cẩn thận, lột da, cạo kỹ thì thịt nó ngọt và thơm kinh khủng, có lẽ không có một thứ sơn hào hải vị nào sánh kịp. Mà lại có tiếng bổ dương ích khí còn hơn cả hải cẩu và cao hổ cốt!

Nửa đêm về sáng, sương rơi tí tách trên lá hoa thiên lý. Trăng lu đi. Mây bay nặng nề báo hiệu một con mưa. Chồng bảo vợ.

- Thôi, vào đi. Nằm sương lắm mình không tốt.

Vừa lúc đó, có tiếng chuột reo ở đàng sau cánh cửa. Nằm trên nệm trắng, xoã hàng tóc đen ra, vợ mới hỏi chồng:

- Hôm qua, chuột lắc reo, hôm nay chuột lại reo nữa. Chắc là nhà có khách hay là sắp phát tài như người ta vẫn tưởng đâu.

- Thế thì báo điềm gì?

- Báo một điềm tốt lành hơn thế nhiều. Báo điềm em sắp có con.

Người chồng nằm sát lại gần vợ hơn, nắm lấy bàn tay vợ và hít vào bộ ngực thơm thơm mùi hoa thiên lý. Mưa bắt đầu rơi. Gió lạnh tê tê. Vợ nửa say, nửa tỉnh, nói khẽ vào tay chồng:

- Này anh, không biết người bạn anh nói thịt chuột chù bổ dương ích khí có thực không? Nếu quả thực, em sẽ kiếm giống đó anh ăn thường thường và anh nhớ cho thằng Cu một đứa em nữa nhé, để nó ngủ một mình buồn, tội nghiệp!