Chuyện Riêng về Sầu Riêng |
Tác Giả: Hoa Tự Do | ||||
Chúa Nhật, 21 Tháng 3 Năm 2010 12:18 | ||||
Hạt sầu riêng hầm với các bộ phận của dê như thịt, bầu dục, bộ phận sinh dục… để ăn Sầu riêng không chỉ là loại quả có nhiều chất bổ mà còn là vị thuốc chữa ho và bệnh ngoài da hiệu quả. Về giá trị dinh dưỡng, trong 100g cơm quả sầu riêng có 37,14% nước, 6,38% protit, 2,7% lipit, 16,2% gluxit, nhiều loại chất khoáng và vitamin. Mùi đặc biệt của múi sầu riêng là do hỗn hợp của các este và thioethe tạo thành. Cũng vì vậy, về mặt dinh dưỡng sầu riêng được các nhà nghiên cứu đánh giá cao, riêng chỉ có mùi quá mạnh của nó khiến người không quen khó chấp nhận. Ăn sầu riêng ngon và bổ, tuy nhiên ta không nên ăn quá nhiều (trên 150g cơm quả một ngày) vì sẽ bị “nóng”, gây bứt rứt trong người, dễ sinh mụn nhọt. Ngoài giá trị ăn uống, quả và nhiều bộ phận của cây sầu riêng còn được dùng làm thuốc. - Theo kinh nghiệm dân gian, rễ và lá sầu riêng được dùng làm thuốc chữa sốt và viêm gan vàng da: Lấy rễ và lá sầu riêng 10-20g thái nhỏ, phơi khô, sắc với 200ml nước còn 50ml uống hằng ngày, đồng thời kết hợp lấy lá tươi nấu nước tắm cho những người bị vàng da do gan. - Vỏ thân cây sầu riêng dùng nấu nước tắm chữa bệnh ngoài da và diệt chấy, rận, rệp... - Hạt sầu riêng chứa 3,1% protit, 0,4% lipit, các chất P, Na, K, Ca, Mg, Fe, các vitamin B1, B2, C... do đó được sử dụng làm thức ăn và thuốc bổ dưỡng dưới dạng luộc, nướng hoặc rang chín, ăn bùi như hạt dẻ, hạt mít. Bột hạt sầu riêng cũng được dùng làm chất phụ gia trong chế biến các loại kẹo, mứt. - Vỏ quả sầu riêng cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh. Sau khi ăn người ta lấy vỏ rửa sạch, thái lát mỏng, phơi khô để dùng. Theo Đông y vỏ quả sầu riêng có vị đắng, tính ấm, có tác dụng ích khí, tiêu thực, cầm mồ hôi, làm ấm phổi để chữa ho, thường được dùng làm thuốc bổ khí, chữa đầy bụng, khó tiêu, ho do hàn, cảm sốt. Ngày dùng 15 - 20g, thái nhỏ nấu nước uống. Theo BS Kim Minh Đàn Ông Ơi, Hãy Ráng Ăn Sầu Riêng Intro: Hết dưa hấu mang công dụng bổ thận dương. Nay đến sầu riêng cũng chữa trị bệnh nam yếu sinh lý. Mời đọc... Sầu riêng tốt cho sức khỏe nam giới... Không chỉ ngon miệng, quả sầu riêng còn giúp cải thiện một số bệnh, trong đó có tác dụng bổ thận, tráng dương. Sau đây là một số món ăn bài thuốc cụ thể: Bổ thận tráng dương: Bầu dục lợn một bộ, sầu riêng (sắp chín) 200 gr, gia vị vừa đủ. Bầu dục thái nhỏ ướp gia vị. Sầu riêng thái miếng nhỏ xào với bầu dục. Ăn nóng ngày một lần. Cần ăn 5 lần, dùng cho người bị chứng lãnh cảm, suy yếu tình dục. Không tin xin hãy thử. Các bạn cũng có thể lấy hạt sầu riêng hầm với các bộ phận của dê như thịt, bầu dục, bộ phận sinh dục… để ăn. Chữa di tinh, liệt dương: Sầu riêng 50 gr, đường 20 gr (hoặc mật ong lượng thích hợp) đánh nhừ như kem, thêm khoảng 100 ml nước sôi để nguội hòa đều để uống, ngày hai lần trong 10 ngày. Thuốc bổ thận, cứng gân cốt, kích thích tiêu hóa: Vỏ quả sầu riêng 15 gr, đậu đen sao 10 gr, tang ký sinh 12 gr, hà thủ ô chế 15 gr, đỗ trọng 15 gr, cốt toái bổ 15 gr, vỏ quýt 8 gr. Sắc uống. Để sầu riêng có tính bổ dưỡng và chữa bệnh, cần chọn những quả vỏ hơi nâu vàng, đó là quả chín cây. Quả cần tròn đều, cuống tươi nhỏ, lõi giữa vàng, như vậy múi trong ruột sẽ vàng ánh. Các gai phải nhọn, nở hết, bóp nhẹ thấy hai gai giáp nhau là quả không sượng. Để bảo đảm hơn nữa, khi mua đề nghị người bán dùng dao tách múi cho xem, múi phải vàng hoặc hơi ửng vàng đều cùng một màu đục, tránh chỗ đục, chỗ trong. Trái sầu riêng Tên gọi Tên chi Durio (chi sầu riêng) có nguồn gốc từ ngữ hệ Nam Á: người Việt gọi là sầu riêng, người Khmer gọi là turen và người Mã Lai - Nam Dương gọi là Djoerian (về sau viết là Doerian). Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới gọi loài cây/trái này là Durian hoặc có ký ngữ khác nhưng phát âm tương tự như chữ Durian. Tuy nhiên, trong chi Durio chỉ có một loài là Durio zibethinus là phổ biến nhất. Trong thế kỷ 20 ở Việt Nam được biết tới 2 giống "sầu riêng mỡ" có lớp cơm màu trắng xám như mỡ và "sầu riêng đường" có lớp cơm màu vàng như đường mía. Theo thời gian, hoặc nhờ khám phá, hoặc nhờ gây giống, hiện nay sầu riêng (Durio zibethinus) có độ 70 giống (cultivar), trong đó giống "sầu riêng đường không hạt" có triển vọng và được giới tiêu thụ ưa chuộng hơn hết, phân loài này được gây giống đặc biệt ở Thái Lan và Việt Nam: cơm (thịt) ngọt, không có hạt hoặc hạt bị mai một. Nhận dạng Cây sầu riêng có thể cao tới 40 mét. Lá luôn xanh, đối xứng hình êlip đến hình thuôn dài từ 10-18 cm. Hoa nở từng chùm từ 3-30 trên cành lớn và thân, mỗi hoa có đài hoa và 5 (ít khi 4 hay 6) cánh hoa. Trái sầu riêng chín sau 3 tháng sau khi thụ phấn. Trái có thể dài tới 40 cm và đường kính 30 cm, nặng từ 1 đến 5 kg. Trái có thể mọc trên thân cây cành. Sầu riêng có thể có trái sau khi trồng 4 tới 5 năm. Màu của trái có thể từ xanh sang nâu, hình dạng thuôn đến tròn. Bên ngoài có lớp vỏ cứng bao với gai nhọn, và mùi nồng đặc trưng tỏa từ thịt bên trong. Nhiều người xem đó là thơm, nhưng có người cho đó là thối. Cả hai kết quả phẩm bình, tuy mâu thuẫn nhưng đều có lý. Trong trái sầu riêng chín, theo các chuyên gia hóa học, có hơn 100 chất, trong đó có một số thuộc ête (ether) thơm, và một số ête thối, có thành phần lưu huỳnh. Thơm hay thối là kết quả của khứu giác cá nhân: tiếp nhận ête thơm trước tiên, hay tiếp nhận ête thối trước tiên mà thôi. Một đặc điểm nữa của trái sầu riêng là trái chín chỉ rơi (rụng) vào một thời điểm nhất định trong ngày: trái rơi (rụng) nhiều nhất vào lúc giữa đêm (từ 0 tới 1 giờ) và một số ít vào giữa trưa (12 tới 13 giờ), những giờ khác không có trái rơi (rụng). Nhờ đó con người tránh được tai nạn. Trái sầu riêng có nhiều "múi", mỗi múi có 1 đến 3 hạt. Phần ăn được là phần thịt (cơm) bao quanh hạt cứng. Hạt có kích cỡ như hạt mít, có thể ăn được nếu được nướng, chiên hay luộc. Phân bổ Sầu riêng phân bố chủ yếu ở Indonesia (Nam Dương), Malaysia (Mã Lai) và Brunei, tuy nhiên có thể mọc ở mọi nơi có điều kiện khí hậu tương tự. Các vùng khác mà sầu riêng có thể mọc là Minđanao, Thái Lan, Philipin, Queensland ở Úc, Campuchia, Việt Nam, Lào, Ấn Độ, Sri lanka và một phần của Hawaii. Sự tích sầu riêng Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò Nguyễn Ánh. Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn. Nhân dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại. Và chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp. Một hôm, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà-lon, về đến đây thì người con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bệnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà. Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời, Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui mừng nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm. Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu-rên" mà ở xứ sở chàng không có. Mùa trái chín đến, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái "tu-rên" vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo: - Anh ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây. Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng. Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên bảo chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy, cây "tu-rên" tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái "tu-rên" ấy lại tự nhiên rụng vào vạt áo chàng giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở. Chàng lại trở về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu-rên" thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đấy ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm nom cây quý. Nhưng cây "tu-rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây mà ông bấy lâu chăm chút nay bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhân ngày giỗ vợ và nhân thể thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng. Khi những trái "tu-rên" được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: "... Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp đẽ, thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông ta vừa nói vừa bổ những trái "tu-rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy, hai giọt lệ long lanh tự nhiên nhỏ vào múi "tu-rên" đang cầm ở tay. Hai giọt nước mắt ấy sôi lên trên múi "tu-rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch. Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu-rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác. Sầu riêng thơm thúi Sầu riêng ai khéo đặt tên Tục truyền ngày xưa ở miền Đồng Nai, Bến Nghé có một chàng trai bỏ xứ ra đi kiếm cách sinh sống nơi xa chốn lạ. Lần lữa qua đến vùng Chùa Tháp, Cao Mên, tình cờ chàng gặp một cô gái đang lên cơn sốt. Nhờ biết vài ba lá thuốc, chàng chữa cô nàng lành bệnh. Nấn ná lâu ngày ở quê người đẹp, chàng cùng nàng thành vợ nên chồng. Nhưng rủi ro cho cặp uyên ương, không hưởng hạnh phúc được bao lâu thì nàng lại mắc bệnh, lần nầy cây lá chàng biết chẳng còn công hiệu, nàng từ bỏ cỏi trần. Nặng trong tim một mối tình tuyệt vọng, chàng trở về làng cũ, đem theo hạt “tu ren” của quê nàng, trồng lên thành cây để tưởng nhớ người yêu. Đến mùa trái chín, ăn thấy ngon ngọt, chàng mời láng giềng thưởng thức. Ngào ngạt hương thơm, lại thêm mùi vị độc đáo, ai nấy đều ưa thích. Tuy vậy nỗi đau buồn của chàng vẫn không nguôi ngoai và hết mùa trái chín thì chàng cũng lìa trần theo dấu vợ hiền. Dân làng cảm kích cuộc tình duyên sâu đậm, lại thương mến chàng trai chung thủy nên đặt tên “sầu riêng” cho trái cây nầy. Trong Nam có câu hát chọc ghẹo anh học trò đi qua Lái Thiêu Ghe anh nhỏ mũi tráng lườn Ngày nay trái sầu riêng rất được ưa chuộng ở miền Nam nước ta. Trái cây béo bở, nghe nói người ham mê thì như nghiện ngập, mất bao nhiêu tiền cũng mua cho được. Thật ra sầu riêng không chỉ có ở nước ta. Được quốc tế gọi durian, từ danh từ djoerian bên quần đảo Indonesia, với tên khoa học Durio zibethinus Murr., thuộc họ Gạo Bombacaceae, nó mọc khắp vùng Đông Nam Á và được trồng từ Thái Lan qua Mã Lai, từ Việt Nam xuống quần đảo Nam Dương. Ngoài vị ngọt bùi, đặc diểm của sầu riêng là mùi hương của nó : người thích bảo thơm, kẻ không quen thì cho thúi. Trước một chuyến bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất cách đây mấy năm, một hành khách người Việt có mang theo một, hai trái, gói ghém cẩn thận, bao bọc kỹ lưỡng, vậy mà hương bay nồng nặc, người ngoại quốc bịt mủi phàn nàn và rút cuộc gói sầu riêng phải đưa xuống gầm máy bay. Gần đây hơn, trong bầu không khí chiến tranh sinh vật học, chuyến bay Brisbane-Adelaide bên Úc trễ mất 4 tiếng đồng hồ vì cảnh sát mất công tìm kiếm nguồn gốc một mùi hôi và tìm hiểu chất thuốc trắng rải trên ghế, thật ra chỉ là bột hương để át mùi sầu riêng. Hôm ghé qua Jakarta , vợ chồng chúng tôi trầm ngâm trước bản căn dặn khách hàng ở khách sạn chớ đem sầu riêng vào phòng ! Một anh bạn Pháp đã từng sống ở Sài Gòn bảo mùi sầu riêng nhắc anh nhớ tới mùi phó mát Camembert để chảy lâu ngày, vấn vương đôi chút các mùi hành, tỏi,… Lẽ tất nhiên, người châu Á, đặc biệt người Đông Nam Á, cần thiết hơn là những phòng thí nghiệm Âu Á, không thể thản nhiên trước trái cây độc đáo nầy. Công trình khảo cứu nghiêm chỉnh, sâu sắc trước nhất về cấu tạo trái sầu riêng được thực hiện ở Viện Đại học Sains Malaysia tại Minden , Penang bên Mã Lai. Dùng dichloromethan chiết xuất những thành phần dễ bốc hơi (66-69mg/kg) từ tử y ba mẫu cấy mô mọc ở Penang rồi đem phân tích qua phép sắc ký khí kết hợp với máy lượng phổ ký GC-MS, hai nhà khảo cứu K.C. Wong và D.Y. Tie xác định được 63 cấu chất gồm có những hoá chất không có lưu huỳnh (ester, alcool, ceton, aldehyd, hydrocarbon) và những hoá chất có lưu huỳnh (ester, thioalcool, hydrocarbon và đặc biệt hydrosulfid) (16). Ở Trung tâm Sinh học Công nghệ Thức ăn ở Songapore, các hóa sư xác định được đến 108 cấu chất (19). Các ester chiếm tỷ số lớn nhất thành phần bốc hơi (49,23-57,88% ) trong ấy phần lớn là ethylpropanoat và ethylbutanoat (16) được xem là hóa chất nặng mùi nhất trong số những chất không chứa lưu hỳnh (18). Có 7 ester không bảo hoà là ethyl (E)-but-2-enoat, ethyl (E)-2-methylbut- 2-enoat (16) và những chất hiếm thấy : ethyl (Z,Z)-, (E,Z)-, (E,E)- deca-2,4 dienoat, ethyl (3Z,6Z)-decadienoat và ethyl (E,E,Z)-decatrionat (17). Mùi hương đậm đà, ngào ngạt của sầu riêng phát xuất từ các ester ấy. Các chất số lượng đứng hạng nhì thuộc loại hydroxy ceton, nhiều nhất là 3-hydroxy butan-2-on (20). Còn có 2 chất số lượng ít hơn nữa, 2-hydroxy pentan-3-on và 2-hydroxy pentan-2-on (16), là cấu chất của hương thơm cà phê, da ua, phó mát Gruyère và gan heo nấu chín. Nguyên do mùi thúi sầu riêng là những chất có lưu huỳnh, 4 ester : S-ethyl thioacetat, S-propyl thioacetat, S-propyl thiopropionat và ethyl (methylthio) acetat ; 4 thioalcool : methan thiol, ethan thiol, propan thiol và 1-(ethylthio) ethan thiol ; 3 hydrocarbon : cis và trans-3,5-dimethyl- 1,2,4-trithiolan và 2,4,6-trimethyl- 1,3,5-trithian ; 10 sulfid : dimethyl, diethyl, ethylpropyl sulfid, methylethyl, methylpropyl, ethylhydro disulfid, diethyl, methylethyl, ethylpropyl trisulphid và diethyltetrasulfid (8,16). Hai tác giả Wong và Tie bảo không xác định được những chất methan thiol, diethyl và dimethyl disulphid, triethyltrisulfid đã được J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard ở Viện Nhiệt đới London bên Anh (3) tìm ra trong sầu riêng Singapore và Kuala Lumpur, cũng như ethyl methyl disulfid, diethyl tetrasulphid và ethyl hydrodisulfid mà R. Moser, D. Düvel, R. Greve ở các Viện Khoa học, Kỹ thuật và Thực vật Ứng dụng Hamburg bên Đức (8) đã phát hiện trong sầu riêng hái ở Chandburi (vụ mùa xuân) và Prajeen Rayong (vụ mùa hè) bên Thái Lan. Cũng theo Wong và Tie (16), các mùi hành, kiệu, tỏi tây trong sầu riêng phát xuất từ các chất có lưu huỳnh ấy vì chúng cũng được tìm ra trong kiệu, hành, tỏi tây. Đặc biệt mùi tỏi là do các thioglycosid phân tán (1) . Ngoại trừ ethyl hydro disulfid, các chất hydro sulfid và thiol không có hay có ít trong trái còn xanh, tăng gia với độ chín của trái và không có chút nào trong hột và vỏ trái cây (8). Ngoài các chất dễ bốc hơi, một số các acid mỡ có vòng cyclopropen trong hột được khảo sát vì dầu chiết xuất ra (65,4%) có khả năng ngăn gây vô sinh (1) hay hỗn loạn sinh lý ở thú vật (1,7), bắt nguồn từ sự chuyển hóa các acid mỡ, như tăng lớn gan, phồng bóng đái. Giả thuyết được đưa ra là tính độc do vòng cyclopropen liên kết với sulfydryl của protein tạo nên (1). Về mặt amin acid, dầu sầu riêng chứa nhiều nhất (%) steraric (45,84), sau đó những là palmitic (26,75) và ít hơn là những oleic (14,95) và linolenic (12,46) acid (21. Đặc biệt arachidic acid có nhiều trong vỏ trái hái mùa hè (8). Trong tử y và hột trái thì (%) sterculic acid (38,53) có nhiều nhất, nhiều hơn malvalic acid (15,72), còn dihydro sterculic acid (2,52) thì chỉ có chút ít. Số lượng các acid nầy giảm sụt khi đem nấu hột (6). Trong một công trình khảo cứu trên 4 mẫu cấy mô, S.K. Berry nhận thấy hễ tỷ lệ lipid càng lớn so với acid mỡ không bảo hòa thì số điểm gây cảm giác càng lớn, cũng như khi tỷ lệ palmitic acid so với palmitoleic acid càng nhỏ (9). Nên biết thêm là trong trái sầu riêng còn có vitamin (8), flavanol, caffeic acid (1) đồng thời những nhân tố antihistamin bền nhiệt cũng đã được tìm ra (5). Một vài công tác nhắm tìm quan hệ giữa tính độc giả định của sầu riêng và rượu. Trong một cơ thể chuột đã tẩm ethanol, sầu riêng có khả năng thức tỉnh con thú, rút ngắn thời gian ngủ (12), đồng thời giảm hạ sức gây chết của rượu (4). Sự đối vận sầu riêng với rượu có thể là do có hiện tượng giao thoa với sự hấp thu rượu vào ruột hay với sự xâm nhập rượu vào các tế bào mục tiêu (4). Có nhiều tác giả không tin rượu trở nên độc khi cùng dùng với sầu riêng (2). Khảo sát nhiều tổ chức sầu riêng, từ lá cây qua vỏ trái, từ tử y qua lá mầm, người ta đã dùng hiện tượng điện chuyển để xác định cấu tạo các amin acid. Một phản ứng giao phôi với kháng huyết thanh dấy lên chống nhiều loại hột đã biết đem lại một sự tích lũy dinh dưởng protein, từ đấy có thể lập thành phương pháp bảo trợ hột (13). Trái sầu riêng cũng đã được xem xét về mặt chín mở. Độ ẩm tương đối nhỏ và ethylen tăng gia độ mở. Cho rải 100ppm gibberellic acid lên trái thì độ mở bị hảm lại nhưng quá trình trái chín vẫn tiếp tục. Một acid mỡ liên kết với sucrose bao phủ trái kềm hảm cả độ mở lẫn trái chín. Tác dụng của ethylen lên độ mở luôn quang trọng hơn sự hao hụt trọng lượng (14). Về mặt tính chất sinh vật học, đã được phát giác những polysaccharide (23,24) chiết xuất từ vỏ trái có khả năng ức chế hoạt động của hai chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Escherichia coli và hai chủng nấm men Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae (22). Người ta cũng có theo dõi quá trình phát triển của cây sầu riêng ở Serdang bên Mã Lai. Cây lớn lên rất mau đến năm thứ bảy, khi sản xuất chất khô đạt đến mức tối cao. Vào lúc ấy, rễ cây chiếm 30% và cây 70%. Các khoáng chất N, P, K, Ca và Mg trong cây tăng cường song song với chất khô nhưng có rất ít trong trái những năm đầu. Để thúc đẩy phát triển cây và sớm sản xuất trái, một loại thuốc Oxisol đã được dùng và kết quả rất khả quan (10). Để bảo vệ cây và rễ chống trùng Phytophthora palmivora có thể dùng thuốc metalaxyl hay gốc cây có sức chịu đựng (11). Sau cùng, nhiều mẫu sầu riêng, măng cụt, lê tàu cho tác dụng trong một cuộc nhiễm trùng giao phối với nhóm di truyền Colletotrichum gloeosporioides, phát hiện chúng đều có rDNA giống nhau và các liên kết trong mtDNA cũng rất tương tự, chứng minh chúng phát xuất từ một gốc chung nhưng khác nhau ở chỗ phải thích nghi vào môi trường mỗi nơi (15). Đến nay, so với các cây quả khác, thấy như các tính chất dược học của sầu riêng chưa được tận dụng hoàn toàn. Ngoài hương vị đặc biệt đưa sầu riêng lên thành một món ăn đắt tiền, bên cạnh khả năng đã thấy giảm hạ sức gây chết của rượu, thức tỉnh khi bị rượu làm cho buồn ngủ (4,12), còn có những tính chất khác chưa được khảo cứu cặn kẽ như ngăn cản sinh đẻ (7), đặc tính kích dục (8),…Sầu riêng có thể trở thành một loại trái còn quí báu hơn.
|