Home Văn Học Văn, Nhạc, Thi Sĩ Người nhạc sĩ Tài Ba: NGUYỂN VĂN ĐÔNG

Người nhạc sĩ Tài Ba: NGUYỂN VĂN ĐÔNG PDF Print E-mail
Tác Giả: Vu Ngoc Chau   
Chúa Nhật, 17 Tháng 7 Năm 2011 12:53

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950 

 

1. Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát nụ cười xinh tươi,
còn trong ánh mắt còn cầm tay nhau
Ngày mai xa cách nhau
Một người gối chiếc cô phòng,
còn người góc núi ven rừng chân mây đầu gió

Còn đây đêm cuối cùng
Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha,
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
Người đi giúp núi sông
Hàng hàng lớp lớp chưa về
hàng hàng nối tiếp câu thề dành lấy quê hương

Hỡi người anh thương, chưa tròn thề ước
Nhưng tình đất nước,
đâu phải khi cho mình dệt mộng thắm kết uyên ương
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng,
chung ánh trăng nhưng đôi đường ly cách trong tình thương
Và xin em hiểu rằng
Dù nơi chiến tuyến mịt mờ mưa bay,
lòng anh vẫn nhớ tình người hôm nay
Đường đi biên giới xa
Lòng này thách với tang bồng,
đừng làm má thắm phai hồng buồn lắm em ơi

2. Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát dập dìu bên hoa,
còn trông bóng dáng người mình thương yêu

Ngày mai xa cách nhau
Một người góc núi chân đèo,
còn người gối chiếc cô phòng đêm đông một bóng
Còn đây đêm cuối này
Đàn ai réo rắt nhạc lòng chia ly
sợ khi nước mắt buồn người ra đi
Đường mây chân núi xa
Dù ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng người nhất quyết không đầu dành lấy mai sau

Hỡi người anh thương, chưa tròn thề ước
nhưng tình đất nước,
ôi lớn lao không đành lòng dệt mối thắm riêng tư
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng,
chung ánh trăng cho người này gợi nhớ thương người kia
Và xin em hiểu rằng
Người đi giúp nước nào màng danh chi
cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi.
 

 Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Ðông - Du Tử Lê                 

Có một vài tài liệu ghi nhận rằng, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông sinh năm 1934. Nhưng theo sự xác nhận của họ Nguyễn thì, ông sinh năm 1932 tại quận Nhất, thành phố Saigon. Nguyên quán của ông là tỉnh Tây Ninh, huyện Bến Cầu. Thuở bé Nguyễn Văn Ðông học trường Huỳnh Khương Ninh, phường Ðakao, Tân Ðịnh, Saigon. Năm 1945- 1946 loạn lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa.

Gia đình gửi ông vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, ở thành phố Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi. Và, con đường binh nghiệp của ông, chính thức khởi đi từ đấy.

Năm 1950 Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, cũng là nơi xuất thân của trên dưới 30 tướng lãnh thuộc quân lực VNCH cũ. Trong đó, có Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của QL/VNCH, người được coi là anh cả của Thiếu Sinh Quân Việt Nam.

Năm 1951, Nguyễn Văn Ðông được cử theo học khóa 4 trường Võ Bị Sĩ Quan Vũng Tàu. Họ Nguyễn tốt nghiệp thủ khoa với cấp bực thiếu úy năm 1952. Tưởng cũng nên nói thêm rằng, Ðại Tướng Cao Văn Viên, người giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH sau cùng của miền Nam Việt Nam, cũng tốt nghiệp Thiếu úy khóa 1 của trường này.

Năm 1953, Thiếu Úy Nguyễn Văn Ðông tốt nghiệp khóa “Ðại Ðội Trưởng” tại Trường Võ Bị Ðà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo chấm thi Khóa Võ Bị Ðà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Ðại chủ tọa lễ bế giảng khóa.

Năm 1954, họ Nguyễn lại được gửi ra Hà Nội theo học khóa “Tiểu Ðoàn Trưởng” tại Trường Chiến Thuật Hà Nội. Ra trường, ông được chỉ định vào chức vụ Tiểu đoàn trưởng Trọng Pháo 553. Ðó là năm 1955, khi họ Nguyễn mới 24 tuổi, một Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của quân đội.

Trải qua nhiều chức vụ, nhiều đơn vị và đồn trú ở nhiều nơi chốn khác nhau, trước khi được đưa về Saigon, giữ những chức vụ tương đối quan trọng; cấp bực sau cùng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông là Đại tá, Trưởng khối lãnh thổ Bộ Tổng Tham Mưu. Ông cũng từng được trao tặng huân chương cao quý nhất; đó là Bảo Quốc Huân Chương.

Khi biến cố Tháng Tư, 1975 xảy ra, như tất cả những sĩ quan QLVNCH khác, Nguyễn Văn Ðông bị tù cải tạo. Sau 9 năm 6 tháng, ông được trả về ngày 01 Tháng Giêng, 1985 với lý do:

“Ðương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình đem về nhà chôn cất!”

Tuy thuộc diện HO, đủ điều kiện để xin định cư tại Hoa Kỳ, nhưng gia đình thấy họ Nguyễn đau bệnh quá nặng, không biết chết lúc nào, nên đã giữ ông ở lại, thể theo ước nguyện của ông là, khi chết xin được chôn tại quê nhà.

Về sự kiện này, tác giả “Về Mái Nhà Xưa” cho biết, ông cũng không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã nhìn lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống “rất lê lết” (chữ của ông), cho đến ngày hôm nay.

Về cái mà tôi muốn gọi là “nhạc nghiệp” của nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Văn Ðông, theo một số tài liệu đã được phổ biến ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam thì: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông chính thức tham dự vào sinh hoạt âm nhạc ở miền Nam Việt Nam vào khoảng giữa thập niên 1950. Ông nổi danh ngay với những ca khúc đầu tay như “Chiều Mưa Biên Giới,” “Phiên Gác Ðêm Xuân,” “Súng Ðàn”... là ba ca khúc ra đời trong năm 1956 và được phổ biến rất rộng rãi. Nhưng ca khúc “Thiếu Sinh Quân Hành Khúc” bài hát được công nhận là ca khúc chính thức của trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, Nguyễn sáng tác năm 1948, khi mới 16 tuổi, mới thực sự là sáng tác đầu tay của người nhạc sĩ đa tài này.

Ngoài bút hiệu và cũng là tên thật, Nguyễn Văn Ðông, họ Nguyễn còn dùng nhiều bút hiệu khác như Phượng Linh, Phương Hà, Ðông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên.

Cũng ngay từ giữa thập niên 1950, trong vai trò trưởng đoàn văn nghệ Vì Dân ở Saigon, Nguyễn Văn Ðông đã nhận được sự hợp tác của rất nhiều ca, nhạc sĩ tên tuổi thời đó, như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Ðàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ thuộc lãnh vực kịch nghệ, điện ảnh, cải lương danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch... Ông cũng cho thấy tài tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội lớn, rất thành công tại Saigon, cũng như các tỉnh.

Về sinh hoạt liên quan tới đài phát thanh thì, ngay từ năm 1958, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã là trưởng ban nhạc “Tiếng Thời Gian” của đài Saigon. Ban nhạc của ông quy tụ những tên tuổi như Lệ Thanh, Anh Ngọc, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Ðàm...

Ở cấp độ quốc gia thì, năm 1959, họ Nguyễn được chọn làm trưởng ban tổ chức “Ðại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc,” tập hợp hơn 40 đoàn văn nghệ, đại diện cho toàn miền Nam; tranh giải liên tiếp 15 ngày đêm tại Saigon. Với tất cả những thành tích kể trên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông đã được trao tặng “Giải Âm Nhạc Quốc Gia.” Bà cố vấn Ngô Ðình Nhu là người trao tặng giải thưởng này cho họ Nguyễn.

Nói tới nhạc nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông mà, không nói tới thời gian họ Nguyễn làm giám đốc hãng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nổi tiếng một thời ở miền Nam, tôi cho là một thiếu sót quan trọng.

Ở vai trò này, với sự hợp tác tích cực của những nhạc sĩ như Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân, Lê Văn Thiện... Hai hãng đĩa của ông đã đem sự giầu có, phong phú cho sinh hoạt tân nhạc cũng như cổ nhạc miền Nam, 20 năm; với những album riêng cho từng ca sĩ.

Quay lui lại thời điểm đầu thập niên 1960, sự kiện trung tâm băng nhạc Sơn Ca cho ra đời những băng nhạc chỉ với một tiếng hát như Sơn Ca 6, tiếng hát Giao Linh; Sơn Ca 7, tiếng hát Khánh Ly; Sơn Ca 8, tiếng hát Lệ Thu; Sơn Ca 9, tiếng hát Phương Dung; Sơn Ca 10, tiếng hát Thái Thanh và ban hợp ca Thăng Long... cùng một số băng nhạc riêng, dành cho nhạc Trịnh Công Sơn, là một sáng kiến cực kỳ mới lạ. Nó mở đầu cho những album sau này, với một tiếng hát, của nhiều trung tâm băng nhạc khác.

Lại nữa, tôi cho rằng chúng ta cũng sẽ không phải với nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, một người, không chỉ tận tụy cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền tân nhạc miền Nam, 20 năm; mà ông còn là người có công đầu trong nỗ lực khai sinh, hình thành rồi phát triển một hình thái nghệ thuật mà, sau này chúng ta quen gọi là hình thái âm nhạc “Tân Cổ Giao Duyên.”

Trước khi đi sâu vào lịch sử hình thành của hình thái nghệ thuật từng được chào đón tại miền Nam Việt Nam, tính đến Tháng Tư, năm 1975, chúng tôi muốn nhắc tới bài “Tân cổ giao duyên” đầu tiên của hình thái phối hợp nghệ thuật đặc biệt này. Ðó là bài “Khi Ðã Yêu” sáng tác của Phượng Linh và soạn giả Ðông Phương Tử. Do 2 nghệ sĩ nổi tiếng của sân khấu cải lương là Thanh Nga, Minh Phụng thu âm lần đầu, năm 1963, tại Saigòn. Bài “Tân cổ giao duyên” này, sau đó, đã được nhà xuất bản Hồng Hoa ấn hành thành nhạc bản.

Tuy là hai bút hiệu khác nhau, nhưng sự thực, chỉ là một.

Những người yêu nhạc Nguyễn Văn Ðông hẳn không quên, với bút hiệu Phượng Liên, ông là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như “Bóng Nhỏ Giáo Ðường,” “Niềm Ðau Dĩ Vãng,” “Ðom Ðóm,” “Khi Ðã Yêu,” “Thương Muộn,” “Lời Giã Biệt” v.v... Và, bút hiệu Ðông Phương Tử họ Nguyễn dùng cho tất cả những sáng tác liên quan đến phần cổ nhạc.

Nhưng phải đợi tới sáng tác “Tân cổ giao duyên” thứ hai, cũng của Nguyễn Văn Ðông, đó là bài “Mùa Sao Sáng,” do Mộng Tuyền trình bày, thì phong trào “Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên, không chỉ tại Saigon mà, khắp mọi miền đất nước.

Vì ca khúc “Mùa Sao Sáng” ký tên Nguyễn Văn Ðông, nên bài Tân cổ giao duyên “Mùa Sao Sáng” được phổ biến với hai tên: Nhạc Nguyễn Văn Ðông, Soạn giả Ðông Phương Tử. Bài tân cổ giao duyên này, theo thiển ý của chúng tôi, rất thích hợp cho những mùa Lễ Giáng Sinh của người Việt Nam, nơi quê người.Du Tử Lê

 

                               Một số bài viết về Nguyễn Văn Đông
                                  "Bài viết về Nguyễn Văn Đông"  (pdf) - Du Tử Lê
                                Tình Ca Nguyễn Văn Đông (pdf) - Thy Nga - 12/2006
                          "Bài viết về Nguyễn Văn Đông" (pdf)  - Trường Kỳ
                       "Người Lính Trong Nhạc Nguyễn Văn Đông" (pdf) - Lê Hữu

 

 

Vài  kỷ niệm với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông:  Chu Tất Tiến, Apr 18, 2005

Hầu như những người miền Nam thuộc lứa tuổi trung niên trở nên, đều đã từng thưởng thức giòng tân nhạc Nguyễn Văn Đông nở rộ trong thập niên 60. Mỗi khi nhắc đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, người ta nhớ ngay đến “Chiều Mưa Biên Giới” với những câu triết lý bất hủ: “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều, anh ơi!” Với những ai mê nhạc thính phòng, bản “Về Mái Nhà Xưa” của Nguyễn văn Đông cũng là bản gợi lên những cung điệu tha thiết, trữ tình: “Về đây ngơ ngác chim bay tìm đàn, về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...” Hoặc nghe câu: “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người, chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ...” lại thấy “Nhớ một chiều xuân”. Tuy nhiên, một điều mà rất ít người mê những bản nhạc lừng danh dưới bút hiệu Phượng Linh như trong Dạ Sầu: “Hết rồi người ấy đã xa ta, những ngày vui cũng theo qua...” hay “Khi Đã Yêu thì mơ mộng nhiều...” và những vở kịch cải lương của Đông Phương Tử lại không biết rằng “Phượng Linh” hay “Đông Phương Tử” cũng chỉ là những bút hiệu khác của Nguyễn văn Đông. Ngoài ra, khán giả của những vở kịch viết bởi kịch tác gia Hoàng Dũng do Nghệ Sĩ Kim Cương thủ diễn đã làm cho bao giọt nước mắt rơi, bao nụ cười muốn vỡ tung rạp như “Dưới Hai Mầu Áo”... cũng không bao giờ nghĩ rằng những vở kịch đó đều có sự tham dự của ngòi bút Nguyễn văn Đông, người nhạc sĩ đã được cấp bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc Pháp.  
                                            

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với hai đệ tử Nancy Tâm Huy và Giao Linh

Riêng với tôi, Nhạc sĩ Nguyễn văn Đông vừa là người anh đáng kính vừa là người Thầy với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai chữ ấy trong khi tôi lại là một đứa học trò không nên thân. Khi tôi gặp anh sau 1978, anh đã bệnh nặng. Anh không đi, đứng được vì xương đầu gối biến dạng. Tất cả các ngón tay của anh bị chứng phong thấp làm cho co quắp. Các đốt xương ngón tay sưng to đến nỗi anh không còn cầm được đũa nữa. Anh chỉ có thể cặp đũa vào giữa hai lóng tay để đưa thức ăn lên miệng một cách khó khăn. Dĩ nhiên, anh không thể nào cầm bút. Điều quan trọng là người nhạc sĩ đa tài ấy đã chấp nhận bệnh tật và những cơn đau một cách thản nhiên. Chưa bao giờ tôi thấy anh nhăn mặt hoặc kêu đau một tiếng, khi tôi dư biết anh đang lên cơn đau lắm. Nhất là vào mùa lạnh, những trận gió ban đêm làm cho chứng thấp khớp có cơ hội hành hạ anh kinh người. Những “cục” vôi ở xương đầu gối, bàn tay, lưng... đè lên giây thần kinh nhất định đã tạo cho anh những cơn đau buốt như dao cắt. Nhưng, dù cho giọng nói anh có khàn đặc và mệt mỏi, anh vẫn chứng tỏ cho đàn em thấy bệnh tật không thể hủy hoại ý chí anh. Những cái nhếch môi thay cho nụ cười không bao giờ tắt.

Lúc ấy, tôi đã tập tành viết được một số bài hát. Trong một lần ăn cơm chung, tôi hứng chí khoe anh và hát cho anh nghe. Vừa nghe xong, anh nhăn mặt:
-Viết vậy mà cũng đòi viết! Chẳng có quy luật hòa âm gì cả!

Rồi anh quặp lấy đũa, chỉ cho tôi những sai sót trong tiến trình của các âm giai, và bắt tôi viết lại. Vì trước đó, tôi đã từng học lõm bõm nhiều thầy, và ghi nhớ từ mỗi thầy một chút, nhạc lý của tôi cộng lại thành một mớ hỗn tạp, nên sau khi sửa lại, tôi vẫn mắc nhiều lỗi. Anh la tôi rất nặng, rồi kiên nhẫn dậy lại cho tôi từ căn bản. Khi giảng, anh ngồi xổm trên giường, dùng ngón chân cái và ngón kế của bàn chân phải, kẹp lấy cây bút chì rồi nguệch ngoạc những chữ to gần bằng viên bi trên tờ giấy. Nhìn anh cố gắng với những chữ viết quẹo qua quẹo lại, tôi thấy lòng dâng lên một xúc động khôn tả. Vì vậy, tôi cũng hết sức cố gắng học tất cả những gì mà người Thầy đầy thiện chí kia dậy bảo.

Sau khi thấy những bản nhạc tôi viết ra dần dần ít lỗi, anh đột nhiên bảo tôi:
-Anh thấy em nên học thêm vọng cổ!

Tôi đớ người:
-Em... dân Bắc Kỳ ăn cá rô cây, làm sao học vọng cổ được?

Anh nhếch môi:
-Anh có bảo em ca vọng cổ đâu mà vội chối? Viết vọng cổ cho người ta hát thì đâu cần Bắc Kỳ hay Nam Kỳ! Miễn là em thích viết!

Nghe anh nói thấy hay hay, tôi vội “dạ”. Từ đó, anh bắt đầu dậy tôi những cung bậc “hò, xừ, xê, xang, cống...” Tuy sức khỏe anh rất kém, anh vẫn cố hát từng câu, từng đoạn, lặp đi lặp lại cho tôi hát theo. Sau một thời gian, anh bảo tôi viết sáu câu vọng cổ cho anh duyệt. Tôi vâng lời, vừa viết vừa hát. Nghe tên học trò Bắc Kỳ hát vọng cổ, anh cười:
-Em hát nháp cho ca sĩ thứ thiệt hát theo thì được, em mà ca biểu diễn chắc bị khán giả xúm lại đánh quá!

Hai anh em cười vui. Nhưng bất ngờ, đang cười, tôi chợt nhìn thấy một giòng máu nhỉ ra từ khóe môi của anh. Tôi vội kêu lên cho anh biết, anh bình tĩnh lấy tay áo chùi đi và tiếp tục dậy nữa. Quá lo sợ cho sức khỏe của anh, tôi xua tay:
-Thôi! Thôi! Anh nghỉ đi! Đang chẩy máu miệng mà!

Anh lắc đầu:
-Không sao! Kệ nó! Học tiếp đi!

Tôi nhất định không học, và ép anh phải nằm nghỉ. Anh thở dài, nhìn tôi:
-Em chưa học xong, lỡ anh có mệnh hệ gì, thì anh cũng không an tâm. Bệnh của anh như thế này rồi, biết đâu còn thì giờ dậy em nữa!

Những lời nói chí tình của một người Thầy như thế làm tôi nghẹn ngào. Tôi cố nuốt từng giọt lệ, không cho rơi xuống tờ giấy viết nhạc mà anh vẫn dùng ngón chân cong queo để viết từng chữ một cách khó khăn. Những giòng chữ như nhẩy múa trước mắt tôi. Những giọt máu vẫn chầm chậm ứa ra từ khóe môi của anh như chẩy ra từ trái tim một người nghệ sĩ chân chính. Tôi không thể nào quên được hình ảnh đó, và hình ảnh anh được chở trên băng-ca ra bệnh viện điều trị ngay hôm sau. Dáng anh mảnh khảnh lọt trong lòng chiếc băng-ca trông cô đơn làm sao...

Nhiều năm tiếp theo, đến thăm anh trong các bệnh viện khác nhau, thấy anh ngồi lên được, tôi đã mừng. Rồi anh về nhà và đi điều trị thuốc Nam, thuốc Bắc. Không biết loại thuốc nào đã làm anh dần dần khỏe lại và đi lại được, dù chống gậy, nhưng dáng đi của anh vẫn chắc chắn và điềm tĩnh như ngày nào.

Thời gian trôi qua. Nghe tin một số bản nhạc của anh đã được hát lại trong thành phố, những bản nhạc không già với thời gian; không phân biệt Nam, Trung, Bắc, hải ngoại hay trong nước, lòng tôi rộn lên như chú bé được mẹ cho quà. Giòng nhạc của anh lại bắt đầu chẩy mạnh trong lòng dân tộc.

Chu Tất Tiến

Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông trả lời trong một phỏng vấn: "Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi. Bài nào tôi cũng thích, cũng vừa ý, có lẽ vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện viết bài đặc biệt cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời binh lửa chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến, Phiên Gác Đêm Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt ..vân vân, đều rất hợp với tiếng hát Hà Thanh và cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật. "

 Hình trong bìa: Ca sĩ Hà Thanh

Thôi nhé ! Về đi em buồn chi
Lưu luyến càng thêm đau người đi
Một trời tang khó nhuốm đau thương
Người trai chốn sa trường hàn gắn tình mến thương.
Anh biết người em yêu sầu bi
Nhưng trách người trai kia làm chi
Một lời giao ước lúc xa nhau
Người em má hoa đào xin chớ phụ lòng nhau.
Hỡi ! Hỡi người em mến yêu ơi !
Mắt buồn lệ thắm rơi
Ôi ! Khối tình càng lắm tơ vương
Mối sầu thêm đắm đau thương
Hỡi ! Hỡi người em nữ sinh ơi !
Áo màu xanh ước mơ
Ôi ! Mối tình trong trắng trinh nguyên
Chưa lần đau xót tơ duyên.
Nơi ấy dù bôn ba đời lính,
Anh vẫn còn yêu thuở học sinh
Trời chiều biên giới hết mưa bay
Người đi chóng quay về
Em gắng chờ đợi nhau.

Hình trong bìa: Nguyễn Văn Đông

Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê
Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa
Bao ước mơ, giữa khung trời phiêu lãng,
Chờ mùa Xuân tươi sang, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây,
Chốn phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh
Anh như ngàn gió, ham ngược xuôi, theo đường mây,
Tóc tơi bời, lộng gió bốn phương,
Nước non còn đó một tấc lòng,
Không mờ xóa cùng năm tháng,
Nhớ ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên,
Khoác lên vòng hoa trắng,
Cầm tay nhau đi anh!
Tơ trời quá mong manh
Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh,
Giữa khung trời gió lộng, nghìn sau tiếp nghìn xưa
   

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể lại: “Bản nhạc Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là trung úy trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều gió lộng, mưa gào như vuốt mặt.

Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da. Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh đi về đâu…”

Nguyễn Văn Đông, Trần Văn Trạch, Lê Thương


Tài Liệu Tham Khảo:

1. Nhạc và hình ảnh: từ các trang websites, nhất là từ http://khanhly.net/phoxua/; Nhạc Sĩ Thanh Trang; Hồ Đình Vũ; Nguyễn Tường Vân

2. Các chương trình phát thanh của: Thy Nga (RFA), Hoài Nam (SBS Radio-Úc Châu), Bcíh Huyền (VOA)

3. Các bài viết của: Lê Hữu, Chu Tất Tiến, Du Tử Lê, Trường Kỳ

Description: http://cothommagazine.com/nhac/lyrics/divider1.jpg
 
Vu Ngoc Chau