Home Văn Học TRUYỆN NGẮN Hành Trình Của Một Chiếc Bánh Chưng (Châu Về Hiệp Phố tân biên)

Hành Trình Của Một Chiếc Bánh Chưng (Châu Về Hiệp Phố tân biên) PDF Print E-mail
Tác Giả: Tầm Xuân   
Thứ Bảy, 11 Tháng 8 Năm 2012 21:41

Nguyễn Văn người phố Ga, bẩm sinh tư chất phi phàm, tay phải thành thạo ngôn ngữ Ăng Lê, tay trái nhuần nhuyễn ngôn ngữ Giao Chỉ (đôi khi có thể sử dụng một ngôn ngữ bằng cả hai tay và toàn thân), học một biết trăm, lên nét chơi ghêm nào cũng toàn thắng...

 

 

  

 . Chẳng may huyên đường mất sớm, Nguyễn phải một thân tự chủ tự  lực tự cường. Năm 18 đã tốt nghiệp phổ thông Trung học, nên người cùng chung cư  thường gọi là Tú tài Nguyễn. Thực ra bấy giờ thiên hạ tốt nghiệp Cấp Ba nhiều  như rươi, nhưng không ai được vinh danh thế trừ Nguyễn, đủ biết riêng Nguyễn  được trọng vọng dường bao!

Gặp thời  buổi khủng bố khủng bu, kinh tế tuột dốc, xăng nhớt leo thang, dù có thực tài  nhưng bằng cấp chưa đủ đô, lại không rờ- đít (credit) để mượn vốn ngân hàng làm  bị- xì- nẹt (bussiness), Nguyễn ra công tích lũy kiến văn thêm nữa, mong vớt  được Cử Nhân Bảng Nhãn hầu câu được dóp thơm. Vừa học vừa làm bạt- tai (part  time), không rảnh để o mèo, Nguyễn  chỉ  giao lưu liu riu cùng các nàng em- trật- nết (internet).

Cùng phố  Ga có nàng Trần Thị dung nhan nguyệt thẹn hoa nhường, vừa đến tuổi rửng mỡ,  nghe tiếng Nguyễn Văn đem lòng mến mộ, lân la kết bạn tâm tình. Như đồng hạn  gặp mưa, Nguyễn Văn sa ngã ngay tức khắc! Trai tài gái sắc, lửa rát rơm khô,  mới tương ngộ có mười hôm mà như nợ nần nhau mười kiếp trước! Tuy nhiên vì tiềm  lực tài chánh eo xèo, Nguyễn Văn chỉ dám đèo Trần Thị đến những địa điểm kém  linh thiêng như Mạt- đổ- nợ (Mac Donald), Quơ- mạt (Wal Mart)... để thề non hẹn  biển. Nơi nào cũng đầm đìa chữ Mạt!

Mà có lẽ  những nơi ấy không được thiêng thật (chắc hãm tài bởi chữ mạt) nên thề thốt không linh, duyên vừa se bỗng đứt, tình mới bén  lại lìa. Một tối bên ngoài tuyết rớt lai rai, Trần Thị báo cáo cùng Nguyễn Văn  rằng nàng phải vâng lệnh song đường lên xe hoa cùng kẻ khác.

Nguyễn  Văn nghe qua suýt ngất. Phẫn lắm, bèn hạch:


-Hơn  tuần nay ta đã vì ai mà cà cháy thẻ, há nàng chưa rõ bụng ta ư? Đột xuất nói  lời từ biệt mà nàng nghe thuận nhĩ à?

Trần Thị  đầm đìa châu lệ mà rằng:


-Hương lửa  ba sinh nguyện kiếp tái lai sẽ ơn đền oán trả. Kiếp này thiếp không cáp với đại  gia kia e sẽ xơi tuồng bạo lực của hai bậc sinh thành.

Càng  nghe càng nổi xung thiên, Nguyễn Văn thét rống lên tợ Kim Mao Sư Vương sử dụng  công phu Sư tử hống:


-Ta thật  không ngờ thiên niên kỷ này vẫn còn tuồng ép uổng tơ duyên. Lại không ngờ song  thân nàng là những kẻ khủng bố. Từ nay ta sẽ liệt họ vào danh sách những nhân  vật chà đạp nhân quyền! Cha chả, thật là quá chướng, sống đất này bao năm mà  không biết rằng ngăn cản con người ta săn tìm hạnh phúc cá nhân là tè lên hiến  pháp!

Trần  Thị hãi quá, xoe xoe vạt áo Nguyễn Văn một hồi rồi mới dám thưa:


-Xin chàng hãy  dằn nộ khí, chớ gây hấn cùng song thân thiếp. Một phần lỗi là do thiếp tự  nguyện xung phong. Đại gia ấy nguyên là đại ân nhân đã giúp đỡ gia đình thiếp  từ những ngày đầu tiên cắm dùi đất này. Nay thiếp không về với đại gia thì e  sản nghiệp nhà thiếp đi đứt...

Trở lại  chung cư buồn nẫu ruột, Nguyễn nhờ người ta... tu (tatoo) thích ngay vào cánh  tay hình quả tim nhỉ máu, dưới lại phụ đề Việt ngữ Giận Đời Đen Bạc- Hận Kẻ Bạc  Tình. Bức xúc hoài, trằn trọc miết, nửa đêm Nguyễn bèn bò dậy lấy bút bi thay  bút lông, giấy napkin thay giấy hoa tiên, âm mưu sản xuất thi ca. Chưa tàn nửa  điếu xì gà, Nguyễn đã chế tạo được bài thơ tuyệt mệnh trường phái Bút Tre như  sau:


 Nàng về vâng lịnh... xuất gia (xuất giá)
Tình mười hôm  thoắt bỗng là... tình cu (tình cũ)
Yêu nhau không nỡ thốt ... đù
Thôi đành...  chơi lấy tiếng ngu với người
Ta về... cắt cái nợ đời
Kiếp  lai sinh hẹn thành đôi... uyên ường (uyên ương)

Đọc đi  đọc lại miết, Nguyễn Văn lấy làm tâm đắc ý đắc lắm, dặn lòng thể nào cũng gặp  Trần Thị phen nữa để trao huyết lệ thư. Sợ Trần Thị xa xứ kinh niên chỉ  thạo Ăng Lê mà không thông tiếng Mít rồi hiểu  méo mó chăng, Nguyễn bèn chuyển dịch thêm từ Việt ngữ ra... quốc ngữ, rằng: “Nay nàng nghe lời bu bố đi lấy chồng, vậy  là tình mới mười hôm bỗng hóa ra tình cũ. Vì yêu nàng ta không nỡ oán trách,  đành tự xử, chết vì tình, cho dù có bị ô danh. Vĩnh biệt, hẹn kiếp sau sẽ làm  chim liền cánh.” Đoạn, Nguyễn Văn bấm mô- bai hẹn Trần Thị ra tiểu lộ Ả-  Ra- Bờ- Hồ (Arapaho Road?).

Bấy giờ  tiết đang Xuân, thời đang Tết, người thiên hạ hồ hởi biếu nhau bánh tét bánh  chưng. Nguyễn Văn không qua thói ấy, bèn dốc túi bê ngay về một chiếc bánh  chưng. Bóc tờ nhãn đỏ lói có thương hiệu và hàng chữ Cung Chúc Tân Xuân, Nguyễn  giấu bài thơ tuyệt mệnh bất hủ dưới nhãn rồi gấp lại như cũ, nhìn qua đố ai  biết đã xảy ra sự cố gì. Nguyễn Văn mãn nguyện lắm, nghĩ thầm rằng vừa biếu  bánh vừa tặng thơ, tác động tình cảm sẽ thập phần hiệu quả. Ấy chẳng qua Nguyễn  tuân lời Thánh dạy, rằng Con đường ngắn  nhất đến với trái tim là con đường đi qua bao tử.

Buổi tạ  từ nơi Ả- Ra- Bờ- Hồ tiểu lộ hôm ấy  lâm ly không kém buổi chia tay nơi Nam Sơn tiểu lộ năm nào giữa Lương Sơn Bá  với Chúc Anh Đài. Gió lớn làm tốc cả váy Trần Thị nhưng Nguyễn không huỡn để  tưởng tượng xa xôi nên mặt mày không hề biến sắc. Còn Trần Thị thì cảm động  lắm, cầm bánh mà không cầm được lệ, sụt sịt hồi lâu mới rỏn rẻn:


-Thiếp  đã rõ tình chàng sâu nặng, không hề lợn cợn chút dã tâm. Thiếp chỉ thắc mắc một  điều, mong chàng đả thông tư tưởng: thường thì quà cáp có đôi, cớ sao chàng chỉ  biếu có một?

Không  thể thố lộ rằng đó là những đồng bạc vét túi, Nguyễn hùng hổ lý giải:


-Trộm  nghĩ quà cáp có cặp có đôi là do duyên may tốt lành tròn trịa. Nay tình vỡ  duyên tan, nàng ra đi, ta ở lại mình ên, một chiếc bánh là để mô tả sự đơn  chiếc ảm đạm ấy mà thôi.

Trần Thị  lại lấn cấn:


-Vậy chứ  tình vỡ duyên tan, bánh nào lại ý nghĩa hơn... bánh tét! Học cao hiểu rộng, há  chàng không hiểu được tính từ... tét bét hay sao?

Tuy biết  Trần Thị giở trò “Đố Vui Để Chọc”, Nguyễn Văn vẫn không hề nao núng:


- Nàng  ở bên ta đã mười hôm nhưng xét ra chẳng lây nhiễm được tí thông thái nào. Người  thiên hạ không gọi bánh tét suông mà gọi đó là đòn bánh tét. Nàng muốn ăn đòn... bánh tét ư? Ta học chữ Thánh  hiền, đối với nữ lưu không xài bạo lực. Vả, Tết nhất đầu năm cũng nên có đôi  điều úy kỵ, không chơi ẩn ngữ ăn đòn.

Trần Thị  không dằn được nữa, ngửa mặt lên trời rống to:


-Hỡi cao  xanh, tình ta đang tột cùng công suất, trách ai xui keo rã hồ tan!

Nguyễn  Văn can:


-Khuyên nàng chớ nên bi lụy ồn ào thế, mấy  cớm kia đang tuần tra công lộ, tưởng ta ức hiếp chi nàng, trăm điều phiền toái.

Can xong lại dặn thòng:


-Đến lúc  xơi bồi dưỡng bánh chưng này, nàng sẽ rõ thêm cấp độ tình ta! Nhớ xơi khẩn  trương lên nàng nhá!

Trần thị  gục gặc đầu:


-Thiếp sẽ xơi vô tư thôi ạ!

Đoạn này  thiết nghĩ kể đã dài, xin ngưng tại đây, chỉ cần biết rốt cuộc cả hai bịn rịn  chia tay, người đi rất tâm trạng, kẻ ở lại cũng đầy hoàn cảnh.

Nguyễn  Văn về ốm tương tư mất mấy ngày Tết, nhưng nghĩ kỹ thấy chết đi là... ngu thật,  thôi thì xem như... dọa thế cho vui! Biết đâu đọc tuyệt mệnh thư, Trần Thị lại  chẳng động lòng, nài nỉ chàng bỏ ý định quyên sinh đi rồi... gương vỡ lại lành?  Một khuya đang nằm mê man xảy có một đạo sĩ nách kẹp phất trần cưỡi mây sà xuống bên giường mà bảo:


- Tên Tú  tài thối tha kia, nhà ngươi định tuẫn tiết vì tình thật ư?

Nguyễn  Văn lật đật đáp:


-Thú  thật là không! Vãn sinh hù dọa tí thôi chứ không hề ngu thế! Chỉ mong sao đảo  ngược được cục diện chiến trường!

Đạo sĩ  vuốt râu cười hăng hắc:


-Hỏi là  để Tú tài mày có dịp tự xác định lập trường chứ lòng dạ ngươi ta đã rõ. Đừng có  lo, rồi... châu về hiệp phố mà thôi!

Nguyễn  Văn toan hỏi thêm thì dường như đạo sĩ đã đoán trước được, quẩy phất trần mấy  phát rồi lái mây dông tuốt, chỉ để lại một câu rổn rảng:


- Bất  khả lậu! Thiên cơ bất khả lậu... lậu... lậu... lậu...

Âm vọng  lậu... lậu... lậu... làm Nguyễn Văn giật mình tỉnh giấc, nằm nhớ lại điển tích  Châu Về Hiệp Phố: Hiệp Phố thuộc tỉnh  Giao Châu xưa, nay là Quảng Đông (Tàu). Vùng biển nầy có rất nhiều ngọc trai.  Thời xa xưa ấy quan lại tham ô, bắt dân phải đi mò ngọc trai để dâng nộp. Ngọc  trai vì sợ tuyệt chủng nên di tản hết. Sau có người tên Mạnh Thường về làm  quan, thanh liêm và thương dân rất mực nên bỏ tục bắt nộp ngọc trai. Ngọc trai  lại trở về tái định cư trong vùng biển Hợp Phố. Điển tích ý nói về sự đoàn  tụ sum vầy.

Quán  triệt đến đây Nguyễn Văn cả mừng, định bụng khi lời phán kia thành sự thực rồi  sẽ cúng đạo sĩ nải chuối.

Mấy ngày  Xuân Nguyễn Văn bất an trong dạ, nghe tiếng xe đỗ xịt dưới bãi thì tức tốc tung  chăn, thò đầu xuống mong nhận ra người ngọc... gái! (Cần nói là Nguyễn Văn  không phê ngọc... trai!). Nghe tiếng máy sưởi tái khởi động đánh khịt một phát  lại giật mình tưởng dáng hoa đẩy cửa bước vào. Cứ thế ngày mong đêm ngóng,  biếng ngủ quên ăn, thùng mì gói mua đón Tết Mậu Tí không màng sờ tới. Đến mồng  ba, chịu không thấu, Nguyễn Văn mò dậy, xảy thấy trên bàn còn cái bánh chưng  đồng hương biếu hôm giao thừa, bèn bổ ra lót dạ cầm hơi chờ... ngọc gái!

Bổ cái  bánh chưng làm hai, Nguyễn Văn giật mình kinh hoảng, rú lên một tiếng hãi hùng.  Dưới tờ nhãn thương hiệu Bánh Chưng Ngon Thơm Rẻ và hàng chữ Cung Chúc Tân Xuân  là bài thơ tuyệt mệnh rành rành thủ bút của chàng!!! Quái! Thế này... là thế  chó nào chứ? Bức bối cực kỳ, Nguyễn chộp ngay mô- bai bấm lia lịa. Chợt nghe tiếng Trần Thị thổn thển:


-Hé  lộ... Hé lộ! Ai gọi giờ này?

Giọng  oanh vàng xưa sao nay nghe như dùi đục, Nguyễn Văn giận cành hông, rủa ngay:


-Khốn  nạn thay... cái bánh chưng ta đã biếu nàng! Ta nay đã biết nàng không hề mó  tới!

Trần  Thị ngập ngừng:


-Chàng quả thông tuệ khác thường, biết cả  mọi việc. Thôi thì em báo cáo rành mạch ạ. Tết nhất quà cáp nhiều quá, chủ lực  là bánh chưng. Bánh chưng chất đầy tủ đá, em mang cái bánh chưng của chàng đi  Tết người hàng xóm. Quả nhiên em không rớ tới thật! Nhưng sao chàng biết? Họ  tiết lậu lại với chàng chăng?

Nguyễn  Văn càng điên tiết:


-Lại lậu  với chẳng lậu! Nay ta đã rõ lộ trình của cái bánh chưng tội nghiệp: nàng biếu  thằng hàng xóm, thằng hàng xóm lại tặng cho bè bạn nó, bè bạn nó tặng lại cho  người thân của chúng, người thân chúng lại biếu lại cho tên hàng xóm của ta,  tên hàng xóm của ta bê đến nhà ta... Thật quả là cái bánh chưng... có mắt!

Bèn cúp  mô- bai cái cạch rồi than: Hỡi ôi hóa ra Châu Về Hiệp  Phố là vậy! Than xong lại nghĩ mà cả mừng vì chưa ai đọc được tờ thư tuyệt mệnh  của mình, có tiếp tục sống nhăn răng cũng chả sợ lời gièm pha rằng tham sanh úy  tử. Nghĩ miên man, xơi hết cái bánh chưng lúc nào chẳng hay, no cành  hông, ba ngày sau vẫn không rớ nổi một cọng mì ăn liền.

Sau, cả người phố Ga biết chuyện. Rồi từ đó,  cả thiên hạ đều biết chuyện. Nên mỗi dịp Xuân về có người mang biếu bánh chưng  mà lòng phân vân khôn tả. Nhận bánh lại càng hãi hơn, chỉ lo... Hợp Phố Châu  Về! Lại có thơ rằng: Bánh sáp đi bánh quy  về/ Sao bánh chưng lại... ê hề bánh chưng?