Home Văn Học THƠ Lệ Khanh Vườn thơ Lệ Khanh

Vườn thơ Lệ Khanh PDF Print E-mail
Tác Giả: Lệ Khanh   
Thứ Hai, 18 Tháng 10 Năm 2010 13:29

 Mời quý bạn yêu thơ thăm Vườn Thơ của Lệ Khanh. 

 

 

 

 

 

 

 

 

TỔ-QUỐC LÂM NGUY
 
   Tổ-Quốc Lâm Nguy, quá rõ ràng!
   Giặc thù truyền kiếp lại đưa sang.
   Hung hăng "Kẻ cả", phường du thủ,
   Ngạo ngược "Đàn anh", lũ cái bang.
   Bán nước, đảng viên đầy túi bạc,
   Buôn dân, lảnh tụ nặng rương vàng.
   Việt gian Cộng sản mau bừng tỉnh,
   Tội ác tầy trời, họa chuốc mang!
 
   Tội ác tầy trời, họa chuốc mang,
   Hãy mau từ đảng, bỏ sao vàng.
   Bởi Hồ cõng rắn, theo Tầu Cộng,
   Vì Trọng lòn trôn, bám Hán bang.
   Qùy lụy, chắc gì yên tánh mạng?
   Tay sai, đâu thể mãi giàu sang?
   Ngu si chẳng hiểu đời nô lệ,
   Tôi mọi mà mong được rỡ ràng?!


 
SAO CHƯA CỨU NƯỚC?
 
   Gươm đàn quảy gánh mãi đang chờ,
   Quang phục con đường ắt phải mơ.
   Thôi thúc, lòng son luôn nổi sóng,
   Nêu cao, chí cả há đâu mờ.
   Cành Nam chim Việt hằng ghi nhớ,
   Dẫu chết thân tằm vẫn nhả tơ!
   Nhắn hỏi anh hùng trong bốn bể:
   Sao chưa cứu nước? Đợi bao giờ?!

 
GỬI VẦN THƠ
 
Kính tặng Thầy Trần-An-Bài
 
   Lâu rồi em chẳng gửi vần thơ,
   Nào phải vô tâm với hững hờ.
   Bởi nước, nát lòng khôn dỗ giấc,
   Vì dân, xót dạ khó làm ngơ.
   Gươm đàn, những muốn an bờ cõi,
   Văn bút, hằng mong rạng sắc cờ.
   Tâm sự chắc là Thầy hiểu được?
   Nỗi buồn xin gửi mấy vần thơ.

 

CÓ  NHỚ  KHÔNG ?

Thao thức canh trường, tưởng núi sông,
Ai ơi! Hẳn thấy xót xa lòng?
Giặc thù xâm lấn phần non Bắc,
Đảng Cộng nhượng dần đảo biển Đông.
Đồng trụ còn đâu mà dĩ lục?
Đằng-Giang vẫn mãi huyết lưu hồng.
Hỡi quân cướp nước mau dừng lại,
Vạn-Kiếp, Hà-Hồi, có nhớ không?

 

LƯU  VONG 

Giã biệt quê hương đến xứ nầy,
Bao năm vẫn giữ tấm lòng đâỵ
Mài gươm cứu nước, tim đau xót,
Định kế an dân, lệ buốt caỵ 
Lắm kẻ xả thân vì đại nghĩa,
Bao người tù ngục bởi đường ngay.
Lưu vong những gióng muôn hồi trống,
Thức tỉnh ai còn mãi ngủ saỵ

Thâu đêm mới hiểu được canh dài,
Quang phục con đường dẫu lắm gai.
Vững chí, gian nan không đổi dạ,
Bền gan, khổ cực chẳng cau mày. 
Non sông nghiêng ngả, anh nào biết?
Tổ quốc điêu tàn, chị có hay?
Dám hỏi ai người yêu nước Việt,
Sao còn đứng lặng, chửa ra tay?..


                         
NỖI LÒNG CHINH PHỤ

Chinh phụ bao năm chịu lạnh lùng,
Thương chồng mòn mỏi cảnh phòng không!
Đêm tàn lẻ bóng sầu dư lệ,
Tỉnh giấc cô phòng lạnh buốt song.
Gương nọ biếng soi, giờ bụi đóng,
Đàn kia nào gảy đã rêu phong.
Mây ngàn gửi đến người yêu dấu,
Chàng hỡi! Xa xăm thấu nỗi lòng?

 

NHỮNG MÙA XUÂN THA HƯƠNG

Không hẹn mà sao Xuân cứ sang?
Xa quê nào thấy cánh mai vàng.
Nâng ly rượu quý, lòng thêm thẹn,
Nhắp chén trà ngon, dạ chẳng an.
Bạn hữu những ai còn với mất?
Người thương ắt hẳn đã sang ngang!
Bảy năm lưu lạc phương trời lạ,
Tri kỷ, ai người vẫn hỏi han?


Xuân đến Xuân đi đã chín lần,
Tha hương nào tránh khỏi bâng khuâng.
Xót thương huynh đệ chiều xa vắng,
Cám cảnh anh em sớm tối gần.
Ngọn bút Hồ-Trường, lòng quặn thắt,
Cung đàn Tư-Mã, dạ sầu dâng.
Mượn thơ gửi chút niềm tâm sự,
Xuân đến Xuân đi đã chín lần.


Lại mùa Xuân nữa đến nơi rồi,
Phiêu bạt mười năm tợ nước trôi.
Ngày vắng thương Cha sờn mái tóc,
Đêm dài nhớ Mẹ mỏi mòn hơi.
Thù nhà tạc dạ không xao lãng,
Nợ nước bền lòng chẳng trễ-lơi,
Dưới nguyệt bao năm mài kiếm báu,
Trông vời cố quốc, vạn trùng khơi.


Mười sáu năm trời cách biệt Cha,
Lòng con luôn nghĩ đến quê nhà.
Non sông sao mãi còn tang tóc?
Dân tộc bao lâu được thái hòa?
Đất khách, hằng thương nòi giống Việt,
Quê người, vẫn tưởng Lạc-Hồng ta.
Mai đây quét sạch phường hung ác,
Dòng lệ tha hương sẽ xóa nhòa...

 

 BẠC  ĐẦU

Đếm bước thời gian, bạc mái đầu,
Đêm dài trằn trọc suốt canh thâu.
Nhà tan nào khỏi tim đau xót,
Nước mất sao ngăn giọt lệ sầu?
Tổ-Quốc muôn trùng xa cách đó,
Cương thường nay biết gửi về đâu?
Bao năm mong gặp người tri kỷ,
Để sẻ chia nhau, đỡ bạc đầu !..

 

XUÂN  HY  VỌNG

Hy Vọng Tân Niên đã đến rồi,
Đường về cố quốc chẳng xa xôi.
Bền gan, anh quyết chờ cơ hội,
Vững chí, tôi mong đợi thế thời.
Vận nước, Cộng thù đang bối rối,
Cơ trời, dân tộc sẽ lên ngôi.
Chung vai xây lại sơn hà Việt,
Ngẩng mặt, ai ơi khỏi thẹn đời?


GIỮ TẤM LÒNG  SON

Bao năm vẫn giữ tấm lòng son,
Quang phục quê hương, chí chẳng mòn.
Gian khổ, ví như làn gió thoảng,
Hiểm nguy, nào sá việc con con.
Vá trời, chỉ muốn gìn sông núi,
Lấp biển, hằng mong cứu nước non.
Ngẫm chuyện ngựa Hồ, chim Việt đó *,
Tha hương ai nhớ, mất hay còn?

 Lệ-Khanh

* Mượn ý câu: “Hồ mã tế Bắc phong,
                   Việt điểu sào Nam chi “.


NGÀY XUÂN NHỚ NƯỚC

Đón  Xuân đất khách, cảm đôi dòng,
Nén lệ trào dâng khóc núi sông.
Nước bốn ngàn năm còn thống khổ,
Dân non trăm triệu chửa hanh thông.
Tha hương khắp chốn trên hoàn vũ,
Vượt thoát thây người lấp biển Đông.
Nhắn hỏi những ai hoài cố quốc,
Đêm Xuân ắt hẳn xót xa lòng???
             

DÂNG  HƯƠNG

Qùy chắp hai tay trước Tượng Đài,
Nguyện cầu Từ Phụ hướng tương lai:
Đưa dân thoát ngục, rời tăm tối,
Dẫn nước vươn mình, khỏi lụy tai.
Cộng bán non sông không giấu diếm,
Tàu vô lãnh hải chả kê khai.
Uất hờn dâng tựa muôn triều sóng,
Từ Bắc Trung Nam đến xứ ngoài.

Lâm râm khấn lạy dưới Chân Đài,
Phật Tổ xin Ngài bảo vị lai:
Khiến gái nước Nam, tâm dũng cảm,
Cho trai đất Việt trí mưu tài.
Đuổi quân xâm lấn, công còn mãi,
Dẹp lũ gian tham, sức chẳng hoài.
Tổ Quốc bốn ngàn năm sáng chói,
Vang lừng chiến sử, dễ gì phai ???

 

MƯA  KHUYA

Mưa rơi thánh thót trước khung thềm,
Thờ thẫn ai ngồi thức trắng đêm.
Nước mất, Anh sao chưa tỉnh ngủ?
Nhà tan, Chị vẫn sống êm đềm?
Chí quyết, kiên gan đá phải mềm,
Ôm hờn, nén lệ tính từng đêm.
Quê hương tan nát, cơ hàn mãi,
Tổ Quốc điêu tàn, đói rách thêm.
Tết đến, Cha buồn không rượu rót,
Xuân về, Mẹ chán chẳng trầu têm.
Điêu linh phủ khắp non sông Việt,
Còn Cộng, dân nào được sống êm ???

 

THAO  THỨC

Cuộc đời như thể giấc Nam Kha,
Chớp mắt chao ơi tuổi đã già!
Mòn mỏi trông chờ người cứu nước,
Bâng khuâng ngóng đợi kẻ thương nhà.
Non sông nghiêng ngả vì quân Cộng,
Tổ quốc điêu tàn bởi giặc Hoa.
Thao thức hướng về nơi đất Mẹ.
Sầu dâng ngọn bút, giọt châu sa!..

 

TRÌNH TÂU NGỌC HOÀNG:

DIỆT TRỪ ĐẢNG CƯỚP

Sơn hà Đại Việt sẽ về đâu?
Nghĩ đến bầm gan nát ruột sầu.
Lãnh hải Tàu phù xâm chiếm hết,
Biên cương Chệt đỏ lấn vào sâu.
Xưa Hồ cõng rắn nên quỳ lạy,
Nay Mạnh luồn trôn phải khấu đầu.
Uất hận dâng tràn Nam chí Bắc,
Sự tình đất nước giãi bày tâu.

Sự tình đất nước giải bày tâu,
Cộng sản gian manh loại lớn đầu.
Đón rước kẻ thù qua trú ẩn,
Đọa đày hiền sĩ chốn rừng sâu.
Tây nguyên, Hán tặc nhiều ưu đãi,
Xứ lạ lao nô quá thảm sầu.
Ai hỡi đứng lên trừ đảng cướp,
Chung lòng sánh bước ngại gì đâu?


 

CỨU NƯỚC 

Non sông gấm vóc, vuông ngàn dặm,
Tổ Quốc bao la, núi vạn hòn.
Xương máu muôn đời Cha dựng nước,
Cháu con giữ vững với càn khôn.

Việt Nam:
                  Bốn ngàn năm văn hiến,
Chưa một lần,
                 Chứng kiến nhục hôm nay!
Lũ gian manh,
                cùng với bọn nô tài,
Chân giẫm nát cả non sông Hồng Lạc.

Ôi!
                Có phải cơ trời xui vận mạt?
Mà sinh chi lắm kẻ ngu đần
Đối với dân,
               thì đánh đập hung hăng,
Thù phương Bắc,
               lại cúc cung khiếp sợ.
Lũ giặc ấy:
                Vốn là phường man rợ,
Luôn lăm le thôn tính lân bang.
Từ Mãn Châu,
                  Mông Cổ,
                                đến Tân Cương,
Nay cố nuốt cho xong phần Tây Tạng.


Lũ giặc ấy:
                      Chúng là quân "Đại Hán",
Đã bao lần tàn hại nước Nam ta.
                      Đồng bào ơi!
                     Hãy cứu lấy sơn hà.
                     Già như trẻ,
                     Gái như trai,
Vung kiếm báu thề ơn đền Tổ Quốc.


Nhỏ lệ đề thơ, tỏ ít dòng,
Gửi người còn nghĩ đến non sông.
Dù lâm nghịch cảnh, đâu sờn chí?
Dẫu gặp gian nguy, chẳng đổi lòng?
Tổ Quốc, giặc thù đang lấn chiếm,
Sơn hà, lũ Cộng hiến dâng không!
Đêm đêm thao thức thương nòi giống,
Cứu nước! Nào ai máu Lạc Hồng???

Lạc Hồng dựng nước bốn ngàn năm,
Hỡi bọn sài lang chớ tưởng lầm:
Hung hãn, chắc rồi ôm khóc hận?
Ngang tàng, ắt sẽ nuốt hờn căm?
Bạch Đằng, máu vẫn còn loang thắm:
Vạn kiếp, thây phơi chứa chật hầm?
Đại Việt anh hùng luôn bất khuất,
Đã từng đuổi giặc bốn ngàn năm.

 

TỔ QUỐC TRÔNG CHỜ

"Thánh nhân thử địa tằng lưu tích,
Tuấn Kiệt hà phương vị bất lai?"
Tổ Quốc trông chờ bậc trí nhân,
Dang tay xoay chuyển việc cơ trần.
Đưa dân ra khỏi đời tăm tối,
Dẫn nước vươn mình vượt khó khăn.
Chống giặc, Lạc Hồng nêu chính nghĩa,
Diệt thù, Đại Việt vẫn thi ân.
Non sông nguy biến từ phương Bắc,
Hào Kiệt ai người đã xả thân???

 


RỬA HẬN

Hận thù phương Bắc bao giờ dứt?
Mối nhục sơn hà phải rửa tan?
Đau buồn vì mất Ải Nam Quan,
Thao thức năm canh, máu lệ tràn.
Tuốt kiếm, thề phơi gan chiến địa,
Vung gươm quyết giữ vẹn giang san.
Uy linh Trưng Triệu, ngời sông núi,
Thần vũ Quang Trung, ngát sử vàng.
Máu nhuộm Đằng Giang, quân Thát Đát *,
Hịch truyền Hưng Đạo, tiếng còn vang.

* Mông Cổ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIÀNH LẠI SƠN HÀ

Trời Nam muôn dặm thẳm,
 Non nước một màu tang!

Thôi rồi!
Lũ Cộng bán giang san,
Tội ác nhường kia, chất ngút ngàn.
Lén lút đổi trao, kêu hữu nghị,
Âm thầm ký kết, bảo tham quan,
Đất dâng quân giặc, dài bao thước?
Biển hiến cho Tàu, mấy dặm ngang?..
               Ba mươi lăm năm cưỡng chiếm,
Đạo lý suy tàn:
Nhà thờ, thánh thất đều phá nát,
Miếu mạo, giáo đường bị bỏ hoang!
                Sáu mươi lăm năm độc trị,
Dân tộc lầm than:
Trai buôn đất lạ làm nô lệ,
Gái bán xứ người chịu thác oan.
Góp ý, cho rằng anh chống đảng,
Sửa sai, lại bảo chị mưu gian.
Sư luôn theo dõi, Cha canh giữ
Tăng bắt giam cầm, đánh dã man!..


              Xưa kia;
Ông Cha ta Hồng Lạc,
Uy vũ kiên cường,
Khí phách hiên ngang.
Nào phá Tống, bình Chiêm,
Nào diệt Mông, chống Mãn
Chiến sử huy hoàng,
Bờ cõi mở mang.


Diên Hồng kết hợp ngàn bô lão,
Muôn vạn tấm lòng đuổi Thoát Hoan.
Như Nguyệt (1), vùi thây quân Triệu Tiết (2),
Đằng Giang, Ô Mã (3) phải quy hàng.
Nam Ải bao phen Nguyên khiếp vía,
Chi Lăng mấy độ Hán kinh hoàng


Hỡi Toàn Dân Việt:
Mau vùng dây,
Giành lại sơn hà,
Kẻo nát tan


(1) Chiến lũy sông Như Nguyệt, Lý thường Kiệt ngăn quân Tống.
(2) Triệu Tiết: Tướng nhà Tống cùng với chánh tướng là Quách Qùy.
(3) Ô Mã Nhi.