Home Văn Học THƠ Kha Tiệm Ly Vườn Thơ KHA TIỆM LY

Vườn Thơ KHA TIỆM LY PDF Print E-mail
Tác Giả: Kha Tiệm Ly   
Thứ Hai, 10 Tháng 10 Năm 2011 06:25

Chào mừng quý bạn viếng thăm Vườn Thơ Kha Tiệm Ly.

 

 

 

 

KHA TIỆM LY

Tên thật: THÁI QUỐC TẾ
Quê quán: Mỹ Tho, Định Tường
Cựu giáo sư Việt Văn, Hán Văn
Cựu Sĩ Quan Pháo Binh QLVNCH
Các bút hiệu : Lam Kha, Vũ Chương,
Liêu tần Chương, Thái Quốc Tế và từ 2008
là KHA TIỆM LY.
Sáng tác: Truyên ngắn, các thể loại thơ, phú, tiểu phẩm và bình luận Văn Học.
Cộng tác với nhiều báo chí, website khắp nơi.

 

 

LỜI CHÍNH KHÍ


Không cam lòng sống kiếp tôi đòi
Thà cổ bị lìa, hơn chết toi.
Bởi Đá Bạc bầm mình hứng lửa,
Nên Hoàng Sa Nộ Khí xung trời.
Một bào cha mẹ, chung hòn máu,
Mười vạn anh em, rặt giống  nòi.
Muôn lạch đều xuôi về biển lớn,
Trăm non mãi mãi vẫn cao vời!

 


GIÃ BIỆT


Đò vô thường luôn neo bến đợi,
Rồi một mai ta cũng phải đi về.
Bao cay đắng phủi tay để lại,
Mặc cho người ai tỉnh, ai mê!


Chẳng lợi, chẳng danh, chẳng gì sợ mất,
Chẳng bạn tình chung, chẳng xót xa nhau.
Ta thư thả, dù nắng hong, mưa bấc,
Cho dù Nại Hà nhịp thấp, nhịp cao!


Ta giã biệt tên Lý Thông, Tần Cối,
Mặc các ngươi mê đắm bã hư danh,
Mặc lặn hụp trong đê hèn, tội lỗi,
Để một ngày cũng qua bến tử sanh.


Xin giã biệt những người em lỗi hẹn,
Chúc các em vui một cõi phù hoa,
Với mắt lạnh, với tiếng cười nhọn bén,
Không có một ngày như em đã phụ ta!


Ta chỉ tiếc tấm thân hàn sĩ,
Tiếc mớ văn chương phải hóa thành phân!
Tiếc cho ta, chưa hồng nhan tri kỉ,
Dù hoa đời không thiếu bóng giai nhân!
Ta lại tiếc một đời chánh khí,
Gươm anh linh chưa thỏa chí một lần!


Dù mở kinh luân, đệ tử mấy ngàn,
Dù khua chèo nghĩa, đệ huynh vô số.
Mà gươm báu vẫn nằm im mấy độ,
Nhớ Lương Sơn mà thẹn với Tống Giang!


Và lại tiếc sao tình em đến muộn,
Đàn sai cung nên lỡ một bài ca.
Nhưng trót rớt thành giọt sương buổi sớm,
Nên suốt đời vẫn nợ một loài hoa!


TRƯỜNG SA TÂM THƯ PHÚ

Trộm nghe:

Giặc ngoài dễ phòng,
Bệnh trong đáng sợ!

Hãy xem,

Hoàng Sa đã ngập trong chảo dầu sôi,
Biển Đông sắp chìm trong cơn bão tố.
Kẻ thất phu hừng hực thù căm,
Bậc trí giả phừng phừng phẫn nộ.

Nhìn kẻ địch:

Bao phen cắt cáp hiếp tàu, diệu võ dương oai,
Mấy lượt tập trận dàn binh, khua môi múa mỏ.
Tàu cá khoang không tấc sắt, để nó bắn súng ngắn súng dài,
Ngư dân phơi tấm lưng trần, mặc chúng nện cây to cây nhỏ!
Làm con nhớ cha, cạn lệ lâm li,
Để vợ khóc chồng, tàn canh vò võ.
Hải đảo ta mà chúng đóng quân, xem giống của chùa,
Lãnh hải ta mà chúng thăm dò, làm như của chợ!

Chớ nên,

Thấy đồng bào mình nhục, mà đành ngoảnh mặt làm ngơ,
Nhìn tổ quốc mình đau, lại cứ khoanh tay đứng ngó!
Nghe qua mấy câu chính khí, cầm bằng ăn ớt ăn tiêu,
Đạp vào mặt kẻ yêu dân, tưởng chừng đạp heo đạp chó!
Đi xe nệm dày một chống, bà ngồi êm đít sướng mông,
Nhà dựng lầu ngót mấy tầng, ông ngước ngoẹo đầu trẹo cổ!
Thênh thang Hoàng Sa trăm dặm, địch đã cướp rồi xương máu cha ông.
Leo heo Tiên Lãng mấy sào, ngươi lại chiếm cho anh em giòng họ!
Ba hoa miệng lưỡi thì biết đâu ai quỉ ai người,
Bề thế tiện nghi thế mới rõ ai thầy ai tớ!
Mãi tham ô nên đất nước mãi nghèo,
Còn lãng phí nên nhân dân còn khổ:
Bỏ một màn lãng phí, sẽ cứu bao nạn dịch thiên tai,
Gom mấy trận tham ô, xem còn hơn mưa giông bão lũ!
Lạm công quĩ nên vật giá leo thang,
Rút công trình nên cầu đường thành hố!
Xoay qua, xoay lại, để cầu lộc hưởng bách niên,
Xét tới xét lui, rõ là tội lưu thiên cổ!

Có hết đâu!

Là cậu tú, mà viết chữ còn trật hỏi, ngã, tê, xê, trông giống cua bò,
Đậu ông nghè, mà hỏi sử còn ngọng ú, ớ, u, ơ, tưởng đâu lưỡi đớ!
Người mưu ích nước lợi dân, thì đong bằng vỏ hến vỏ sò,
Kẻ lo chạy chức mua quan, lại lường bằng cái thau cái rổ!
Khi tàu vũ trụ đã đến sao hỏa, sao kim,
Mà nền quốc học còn ở bờ đê, đầu lộ!
Khác nào bộ máy cà tàng,
Giống y con tàu cổ lỗ!
Kẻ vô sỉ thì đầy như lông chó lông mèo,
Quan thanh liêm lại hiếm như sừng heo sừng thỏ!
Lệ buồn lịch sử phải khóc sụt sùi,
Mồm thúi quân thù lại cười hô hố!

Tỉnh lại đi!

Hãy soi đạo đức ngưòi xưa để tự răn mình,
Hãy lấy tài năng hậu sinh mà làm xấu hổ.
Một trăm năm thuộc Pháp, lấy đó mà lo,
Một ngàn năm thuộc Tàu cớ chi không nhớ?
Chẳng thấy cái nguy phải chịu làm lệ làm nô,
Thì ở trong mơ cũng chẳng thành rồng thành hổ!

Một mai,

Trường Sa bốn hướng sóng trào,
Tổ quốc ngập trời lửa đỏ.
Thì của tham ô có ngăn được hỏa tiễn địch rời giàn,
Thì tiền hối lộ có đánh tan chiến hạm thù đổ bộ?
Hơi rượu ngọt “hàng hiệu” không làm cho lũ giặc lui binh,
Móng tay nhọn “chân dài” đâu xé được quân thù đứt cổ!
Đã tự hào:

Một dân tộc anh hùng”
“Bốn nghìn năm lịch sử”.

Thì chớ quên câu:

“Dân gần trăm triệu mà lại yếu xìu,
Nước bốn ngàn năm vẫn như trẻ nhỏ!”
(1)
Chớ để quân thù coi cọc Bạch Đằng là… cọng lạt xỉa răng,
Đừng để kẻ địch xem gươm Lê Lợi là… cây kim may áo!
Mà cho chúng biết,
Gươm Lê Lợi chất thép vẫn ngời,
Sông Bạch Đằng máu xưa còn đỏ.(2)
Quân ta đi đường núi, ầm ầm mấy hướng núi mòn,
Tàu ta lướt biển đông, ào ạt bốn bên biển lở!
Đổ máu đào cho tổ quốc quyết sinh,
Khai hỏa lực cùng quân thù quyết tử!
Trường Sa ta,
Hiên ngang đi trên ngọn lửa hồng,
Dũng cảm đạp lên làn sóng dữ.
Mặt quân thù càng lạnh như băng,
Lòng chiến sĩ càng sôi như lửa.
Lấy ba miền tổ quốc làm nhà,
Lấy trăm đảo biển đông làm mộ.
So gươm cùng địch, để xem ai sắc ai cùn,
Đọ máu với thù, thử coi ai đen ai đỏ!

Nay,

Tim sắt lòng son,
Trường Sa hạ bút./.

KHA TIỆM LY
(0987 701 952)

Chú thích:
(1) Nhại theo thơ Tản Đà: “ Dân hai nhăm triệu ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”
(2) Trộm nghĩa câu: “ Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”

 

TÌNH CÁT

(Gởi T.)

Chẳng phải con đò neo bến nước,
Mà bao lần tiễn khách sang sông.
Đắng cay nêm vị đời chua chát,}
Nên chút heo may cũng lạnh lùng.


Và từ đó ta làm thân hạt cát,
Mặc gió đời vùi dập biết bao phen.
Mượn sức gió vút lên trời cao ngất,
Mơ thành mưa ve vuốt má môi em.


Nhặt từng chiếc lá vàng rơi rụng,
Để vá quàng một khối hồn đau.
Lại ôm ấp thêm mảnh tình vô vọng,
}Nên đời ta toàn rượu nhạt, thơ sầu!


Từ muôn kiếp ta là thân hạt cát,
Mượn gió đời tim một cõi phiêu diêu.
Rồi lốc xoáy lại cuốn về sa mạc,
Nên ngàn đời không tìm được hương yêu!


Em muôn thuở vẫn là hoa thơm ngát,
Ta như bình sành mượn chút hơi men.
Và mãi mãi vẫn là thân hạt cát,
Mượn gió đời mà bám gót chân em!

 

BÀI PHÚ TẶNG VỢ

Có chồng cho đáng tấm chồng,
Uổng công trang điểm má hồng răng đen.


Thương ôi!
Mang hình liễu đổi cùng cuộc truân chuyên,
Đem má phấn thách với đời lam lũ!
Không thẳng hướng leo để bám vào cội bách, cội tùng,
Lại chệch hướng bò nhè len nhằm cỏ hôi, cỏ cú!

Thương cho hiền nội,
Nhà chồng nặng gánh nên mỏi rụi hai vai,
Đàn con dễ nuôi mà ê rần đầu vú!
Chiếc áo thô nào chỉ có bâu sờn,
Bầu sữa héo đâu riêng gì con bú! (!)


Ngày ngày cơm cơm, áo áo đã dập vùi cái tuổi thanh xuân,
Năm năm uống uống ăn ăn, làm bóp nát một thời hoa nụ!
Gánh gồng sớm tối, da đen thui nhìn tưởng ông lò,
Bươn bả quanh năm, mặt nhăn nhíu tưởng đâu bà cụ!
Nhằm gặp thằng chồng nhếch nhác, nên tháng năm đành chịu má môi phai,
Trót sinh đám trẻ dại khờ, mà ngày tối quản chi sương nắng phủ!


Ở nhà rách, mặc thây cùng kèo cột liêu xiêu,
Hứng mưa nam, kệ xác với cơn ho lụ khụ!
Thiếu li- pít nên da dẻ xanh dờn như thể chàng hiu,
Chẳng prô- tên mà hình vóc ốm tong khác chi cá hố!
Vì vướng tình con mà hình hạc gầy mòn,
Bởi nặng nghĩa chồng mà xương mai héo rũ!
Bước chân chẳng nghỉ dù cho đường phố đèn lên,
Giọng rao vẫn buồn thoảng như rừng khuya gió hú!


Có điều,
Ngó tới ngó lui mà tủi, vì không bì bằng đàn chị đàn em,
Suy đi nghĩ lại thêm buồn, bởi chẳng sánh được nhà cô nhà chú!

Mặc dù,
Sợ đàn lạc điệu, đành lâu lâu đem khảy đôi lần,
Quen dạ mắn con, nên thoảng thoảng cứ lòi một trự!


Bởi vậy,
Chủ nợ bạc nằm bạc đứng, lố nhố đầy nhà,
Đàn con đứa thấp đứa cao, tròm trèm nửa lố!


Chỉ vì,
Tay bà Nguyệt làm rối tơ duyên.
Đầu thằng chồng chứa đầy đậu hủ:
Văn viết đọc nực mũi đồ ôi,
Thơ làm nghe khẳm mùi dưa khú!
Ôm bụng đói, mà không chịu quăng cái sỉ, cái liêm,
Ở nhà tranh, lại chẳng thèm làm móng diều, mỏ cú!
Trăm điều chẳng chọn, mà mót bòn ba mớ sỉ sỉ liêm liêm,
Khối sự đều hay, lại quơ quào mấy câu thơ thơ phú phú!


Đâu có biết,
Vạn ngày giữ lòng sĩ khí, chẳng bằng nửa giờ con đĩ ngửa mông,
Một đời làm kẻ thanh liêm, khôn sánh một bận hoa khôi phạch vú!
Thà rằng lấy củ khoai củ sắn, lột nó mà ăn, còn có lúc no đầy,
Chẳng hơn rớ thằng sỉ thằng liêm, cho họ chẳng thèm, lại thường khi đói rũ!


Nhìn kia!
Mặt thằng liêm lép xẹp, ốm tỏng ốm teo ,
Trôn con đĩ no tròn, mập ù mập ú!

Sực nhớ câu,
Biết nhàn thì nhàn,
Biết đủ thì đủ!
Có ai ba họ nghèo hèn?
Mấy ai ba đời giàu sụ?
Vi phú bất nhơn,
Vi nhơn bất phú!
Thà ăn rau mà lỗ đit thông hơi,
Hơn ăn thịt mà cái đầu nung mủ!
Khi nhắm mắt, bao của tiền cũng để lại thế gian,
Phút xuôi tay, chỉ hồn xác được mang về âm phủ!
Diêm vương nào kị đứa dái nát cu đen,
Quỉ sứ đâu tè thằng mặt to bụng bự!


Mình ơi!
Bởi anh cứ lây nhây mà việt vị cả đời,
Vậy em chớ cù cưa hãy phạt đền một cú!

TÌNH SAY

(Gởi Hoa Trong Hoa - Kha Tiệm Ly)

Ta bước chân đi vương sợi tóc
Đủ làm choáng váng giấc mê say
Tàn đêm rượu cạn bao nhiêu cốc
Mà ảnh người, như khói thuốc bay!


Réo rắc đàn xưa cung lỗi nhịp
Bâng khuâng hồ rượu biết vơi đầy?
Ta thèm một chút hương thừa cũ
Sao cứ mơ màng như bóng mây?


Phật thệ khói sương mờ bốn nẽo
Huyền Trân nào lạc bước nơi đây!
Bồng bềnh tóc rối bời năm cũ
Mãi quyện hồn ta bao ngất ngây!


Rượu đắng lung linh mờ dáng ngọc
Cho ngàn đêm nhớ, với đêm nay.

 

TÔI CHÁN THẰNG TÔI


Tự dưng ta mở miệng là thấy ghét,
Nói câu nào cũng nghe trớt lớt.
Chợt thấy mình hình hợm chẳng giống ai.
Vô duyên như những phim hài,
Muốn người cười phải lấy tay cù lét!
Như mấy thằng hề hạng bét!

Buồn tình mở cái ti vi,
Gặp con đười ươi cầm micro nó hét.
Nhúng nha nhúng nhảy không biết nó… “sủa” cái giống gì?
Vì nó nói tiếng đười ươi!
Còn mình thì chỉ nghe được tiếng ngưới
Đành “phụp” cái cho xong,
Không muốn hai tai bị điếc!


Cả một đời đọc sách thánh hiền,
Tâm đắc câu:
“ Bần tiện bất năng di,
Uy vũ bất năng khuất”
Thế mà nay, ta không biết học ở đâu,
Nói láo mà mặt không đổi sắc,
Không biết từ bao giờ mình là thằng xạo,
Như những tên quảng cáo?


Nhiều khi thấy tửng tửng cũng có cái hay:
Mình sẽ làm thơ gởi kiếm tiền nhuận bút,
Ý tưởng sâu như biển sâu hun hút,
Cao như trời cao vút!
Cho người đọc không hiểu ta nói cái thứ gì,
(Mình còn không hiểu, lấy gì ai hiểu?)
Và vần điệu ba gai như bài thơ nầy.
Ậy! Thơ như vậy mới hay!


Hay mình làm nhà thiết kế thời trang,
Cho người mẫu lắc mông biểu diễn .
Với những “thời trang” dị kì, cổ quái, có con điên mới dám mặc khi rời sàn?
Bởi vậy,
Ai có cái đầu bị chập điện,
Chớ vội buồn, mà không chừng có dịp làm sang!

Lang thang từ phố đến quê,
Thấy được lầu cao, biệt thự.
Đời sống thanh bần, bỗng dưng trở chứng.
Muốn trở về thời phong kiến.
Để được làm quan!

HÁT TUỒNG

Mấy thằng mặt trắng, mấy thằng đen
Đứa thấp đứa cao có mấy quèn.
Mão ốp tai, BỊT lời phải trái.
Râu CHE MỒM, táp miếng chê khen
Vợ lên vai mẹ, đâu còn lạ,
Con CHỬI thằng cha, riết cũng quen!
Xiêm áo mập mờ ÔM  bộ vó
Phấn son sao gột lớp chân phèn!


 

KINH KHA

(Cảm đề “Thích khách truyện”)

Bốn ngàn tân khách, một trời thương.
Điệu sáo Tiệm Ly dạo khúc buồn.
Sương dội tái tê dòng Dịch Thuỷ,
Mây bay vời vợi nẽo Hàm Dương!
Hơi men chuếnh choáng, bầu ly biệt,
Tiếng trúc bi ai, khúc đoạn trường.
Thích khách rơi đầu ai có tiếc,
Chỉ thương trăm họ đất Đô Cương!

SẮC TÀI THÁN PHÚ

Trộm nghe,

Nghề văn muôn thuở như nhau,
Gái đẹp mỗi thời có khác!
Người luôn chê chữ nghĩa giá bèo,
Ai dám bảo hồng nhan phận bạc?


Ôi! Cái văn,

Thường được coi là món bổ tinh thần,
Sao lại rẻ hơn thú vui nhục xác?


Hẩm hiu thay!

Đợi bài lên báo, ngóng dài cổ vạc cổ cò,
Đến lúc lãnh tiền, đếm được đồng trinh đồng cắc!
Sách kim sách cổ, có ra chi ngọn bút vẽ vời.
Ông cống ông nghè, sao sánh bằng cái mông lúc lắc!
Nhuận bút bài báo, mua không được một cái quần xì,
Tiền thưởng bài văn, sắm chẳng nổi sợi dây áo ngực!
Ngày tối cơn ho lục khục, mồm khạc  cục tím cục bầm.
Vợ con cái mặc lem nhem, áo vá miếng chằng miếng đụp!
Thân như bệnh nhân chờ thuốc, ốm tỏng ốm teo,
Nhà như người đẹp khoe lưng, trống huơ trống hoác!


Chi bằng,

Tối ngày ôm đít vợ, cố rặn ra một đứa “tiểu thư”
Hôm sớm nựng má con, ráng “tút” được một nàng “khuê các”!
Quần soọc (short) phơi đì phơi háng,  lổ lộ của trời,
Áo dây khoe rún  khoe lưng, chênh hênh bộ ngực!


Cho ai kia,

Lúc nhúc dáng ngồi cao thấp, giống hệt “ruồi bu…” (… ngựa!”)
Tác hoác  miệng há nhỏ to, y chang  chó ngáp!


Trớ trêu thay!

Nhà văn bao lần đoạt giải, mơ mấy triệu ngoài sức mỏi mòn,
Hoa hậu một bận đăng quang, ôm vài tỉ trong tay cầm chắc!
Nhờ sự bảo kê của mấy thằng lắm bạc nhiều tiền,
Nhờ thói rửng mỡ của lắm tên thừa gân dư nạc!


Mới hay,

Sắc trọng như vàng,
Văn khinh như rác!


Nhìn xem,

Bao người cơ nhỡ vất vưởng vất vơ,
Bao kẻ lang thang cù bơ cù bấc.
Có em nghèo khó mà nửa chừng dang dở sách đèn,
Có phận hẩm hiu mà suốt đời chưa vào trường học!
Tiền tỉ đó sao không giúp kẻ khốn cùng?
Tiền tỉ đó, sao không giúp người đói rách?


Hay chi,

Đo chữ hư danh bằng vòng ngực vòng mông,
Lấy thói phù hoa thay cái nhân cái đức?

Hay là,

Lòng nhân gió cuốn tro bay,
Thể xác gió lên cờ phất?

Nhớ câu:

“Ăn gì mỗi lúc một khôn,
Uống chi mỗi ngày một dốt!”


Than ôi!

Cái tâm nhỏ xíu nào khác lá đa,
Chữ đức nhẹ hều, y như cọng lác!
Sự đời hao hao mõm chó, đen thủi đen thui,
Chữ tình tờ tợ mảng mông, trắng xơ trắng xác!
Ngẫm mà dạ xé như bào,
Thấy mà ruột đau như cắt!


Thương thay các nhà văn,

Tài năng sanh chẳng gặp thời;
Tinh hoa trỗ không đúng lúc.
Viết ngàn trang sao bằng một cái vẹo mình,
Thức trắng đêm tiếc cho trăm năm mài bút!


Đúng quá cho câu:

“Thế gian kẻ dại người khôn”
“Óc khôn không bằng trôn mập”!!

Thôi thôi,

Thói đời lắc léo đành ngả mủ chào thua.
Màn kịch éo le xin tuột quần bái phục!
Ngửa mặt khóc ba tiếng hu hu,
Nhắm mắt cười mấy tràng hặc hặc.

KHA TIỆM LY


TRÁNG SĨ

Mặt nước trường giang vạn sóng xô,
Lênh đênh từ ấy biết đâu bờ?
Trăng soi thẹn  bấy lòng du tử,
Sương giội  tan chưa giấc hải hồ?
Nửa kiếp phiêu linh cùng vó ngựa,
Trăm năm dang dở với con đò!
Cạn bầu rượu nóng, buồn tê tái,
Vắt cốt giang hồ  để chép thơ.

TỰ TRÀO

Không gầy cho lắm, cỡ…cây tre!
Da dẻ ông lò cũng chạy te!
Ba rọi miếng quan cùng miếng lính,
Ốc trâu thân trạng với thân nghè!
Thi gan biển cả, e tàu đắm,
Đọ sức non cao sợ đá đè!
Còn chút văn chương, ba lá cải,
Một mình mình đọc, một mình nghe!

TỰ TRÀO

(Tự họa)

Chẳng phải bách tùng, chỉ gốc tre,
Thân như chong chóng, chạy te te!
Đầu hôm tất bật cầu Ông Lãnh,
Rạng sáng lu bu chợ Thị Nghè!
Bèo bọt ngại chi mưa, gió cuốn,
Cỏ rêu nào sợ đá, cây đè!
Trắng đen, hơn thiệt, trò khinh trọng,
Nhục nhục, vinh vinh chẳng muốn nghe!

 

 

HOÀNG SA  NỘ KHÍ PHÚ


Ngựa cũ quen đường,
Đĩ già lậm nết. 
Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau,
Mộng bá chủ bao đời y hệt!


Ta thấy ngươi,

Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng,
Đến Hậu Hán bị xiềng Tam Quốc.
Đất Trường An thây chất chập chùng,
Bờ Vô Định xương phơi chất ngất!


Đã biết,

Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương,
Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc.


Vậy mà sao,

Chẳng lo điều yên nước no dân,
Lại quen thói xua quân chiếm đất?


Như nước ta,

Một dải non sông, nam bắc chung giềng,
Trăm triệu anh em, trước sau như nhất.
Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , muôn đời là máu là xương,
Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa, vạn kiếp  là da là thịt.
Máu xương ta, ai dám tách rời?
Thịt da ta, mi đòi chia cắt?
Bốn nghìn năm, một tổ quốc phồn vinh,
Ba miền đất, khối giang sơn gấm vóc.


Người trăm triệu nhưng vốn một lòng,
Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc!
Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng,
Thiếu niên cũng thừa người kiệt xuất.


Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời,
Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt.
Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân.
Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn,
Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy từng đứng tim vỡ mật.
Rầm rộ vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1)
Âm ầm tiếng sét Đống Đa, Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1)


Hùng khí dù dậy trời Nam,
Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc:


Thương ngươi binh bại, tàn quân về, bọn ngươi còn được cấp xe ngựa rình rang (2)
Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết, tổ tiên vẫn cho thắp khói hương chăm chút?(3)
Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người,
Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc.


Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa,
Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập.
Giúp các ngươi như kẻ một nhà,
Thương bọn ngươi như người chung bọc!


Thế mà nay,

Ngươi lại lấy oán trả ơn,
Ngươi lại đem thù báo đức!
Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm.
Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác nào điếm già bịp bạc.


Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa,
Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc.
Chẳng chấp hải qui,
Chẳng theo công ước.
Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn,
Lậm  thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược.


Nói cho bọn ngươi biết; dân tộc ta:

Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài,
Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc.
Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông,
Từng đuổi Nhật với thanh mác vót!


Vì khát độc lập mà thường uống nươc lạch, nước đìa,
Vì đói tự do  mà quen ăn  muối mè, cơm vắt.
Sá chi tóc gội sa trường,
Há quản thây phơi trận mạc.


Hãy liệu bảo nhau,

Nhìn thây Gò Đống mà liệu  thắng liệu thua,
Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước!
Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm,
Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác!


Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ,
Thì ta cũng có tuần dương, đại bác.
So vũ khí, thì kẻ nhược người cường,
Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt?


Thư hãy xem tường,
Hoàng Sa hạ bút.

KHA TIỆM LY
__________

(1) Sử ghi: Khi Lý Thường Kiệt  xua quân qua Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như khi quân Thanh bại trận Đống Đa chạy về, thì dân Tàu vùng biên giới kinh hoàng chạy  theo. “Từ Nam Quan về bắc hàng trăm dặm vắng tanh, không thấy bóng con gà, con vịt”
(2) Sự kiện Lê Lợi cấp ngựa và lương thực cho tù binh quân Minh về nước
(3) Sự kiên dân ta lập miếu thờ Sầm Nghi Đống, hạ tướng của Tôn Sĩ Nghị.

MỘT MẮT NHÌN ĐỜI

(Kỉ niệm ngày mổ mắt)

Buồn tình bịt một mắt xem chơi.
Nên thấy chuyện đời được nửa thôi:
Nửa mặt làm quan, nửa mặt cướp,
Nửa bên trét phấn, nửa bên vôi!
Nửa như hào kiệt, nửa vô lại,
Nửa giống lười ươi, nửa giống người!
Một mắt đã đành thấy một nửa,
Còn hơn hai mắt cũng như đui!

VĂN “HÀNH”

“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!

Trộm nghe:

Thế nhân vốn một mặt muôn lòng,
Văn chương cũng năm đường bảy ngõ!
Trò đời đã nhiều chuyện lá lay,
Con tạo lại bày trò cắc cớ!

Nhớ xưa,

Bao thi nhân hùng khí chưa mờ,
Bao kiệt tác ngôn phong còn đó.
Đồ Chiểu đâm mấy thằng gian, bút thép chẳng tà,
Cử Trị mắng bao phường nịnh, lòng son vẫn tỏ.
Hịch Tướng Sĩ, sông Bạch Đằng nước cuộn sóng gào,
Cáo Bình Ngô, núi Chí Linh cây rung lá đổ.
“Văn dĩ tải đạo”, lời cũ thường khuyên,
“Đức khả thắng tài”, kẻ sau chẳng nhớ!

Thế mà nay,

Học hành đôi chữ lem nhem,
Văn vẻ ba xu ú ớ.

Vỗ bụng cứt, khoe ráp được vần ngược, vần xuôi,
Vểnh tai trâu, thích nghe nịnh lời nầy, lời nọ.
Văn nghe  trớt huơ trớt hướt, giống hệt nước mắm chấm dùi,
Thơ viết lốc cốc lom com,  y như thầy chùa gõ mõ!
Không rành luật đối, cũng xưng mầy đó ta đây,
Chẳng sạch vần gieo, cũng vô hội nầy hội nọ!
Thơ in vài tập, bán chẳng ai mua, mà chừng như đội đá vá trời,
Văn  viết đôi bài, mời không ai đọc, mà đã vội khua môi múa mỏ.

Vậy mà,

Báo ngày lâu lâu thấy “tụng”, chỉ có quỉ mới tường.
Báo tháng thỉnh thoảng lại “ca”, chỉ có trời mới rõ!
Chỉ tội người nghe con ráy lùng bùng,
Chỉ thương người xem con ngươi lổ đổ!
Ráng banh miệng, mà cười chẳng ra cười
Cố xệch môi, mà khổ không ra khổ!

Vinh chăng?

Đi xe đời mới, đặt đít sướng mông,
Ở nhà lầu cao, ngẩng đầu trật cổ!

Như ta đây,

Dù cái thi, cái phú chưa đầy lá mít, lá mơ,
Nhưng cái nghĩa, cái tâm khá hơn loài sâu loài bọ.
Ghét quân khẩu Phật tâm xà,
Ghét phường miệng hùm gan sứa.
Không dè lời, cứ thẳng mực tàu.
Theo đúng thước, làm đau lòng gỗ!
Bao năm “bán phổi”, đệ tử mấy ngàn,
Một thuở khua chèo, bạn bè vô số.

Ngặt vì,

Kết bạn thì “Tri mãn nhân gian”
Ngoãnh mặt lại,”Vô thân tứ cố”!
Không độ nỗi những kẻ cúi lòn,
Chẳng theo kịp mấy thằng bợ đỡ!
Chẳng bù cái mũi có giàm,
Không giống đồng xu có lỗ!
Chẳng phải bành voi mặc kẻ leo lên,
Không như trôn đĩ mạnh ai mấy xỏ!

Dù cho,

Thời buổi nầy mà rách dép rách giày,
Xe đạp nọ luôn trật sên trật chó!
Dù áo Châu Trí (1) cũng đành mạn cổ, vá vai,
Nhưng mặt Trần Minh (2) dễ gì bôi vôi, trét nhọ.

Đã từng,

Văn chương treo ở đầu giàn,
Bút mực đem quăng một xó.
Nào chê bai chữ nghĩa rẻ như bèo,
Mà  tức khí vàng thau cùng một rọ!

Khổ vì,

Muốn hoàn lương mà nghiệp đĩ cứ đeo,
Muốn quăng bút, mà đường văn còn nợ!
Sá gì gạo vét mòn lon,
Thây kệ giày đi há mỏ!
Lời bẩn trét đầy trang giấy, thì mặc ai làm bồi bút mà no,
Lòng sạch ực nước cành hông, thây kệ người nói thanh bần là khổ.

Thôi thì,

Mặc ai pha muối pha đường,
Mặc nó lộn vừng lộn đỗ.
Tự hào vì thứ ta đủ, mà họ không cần,
Kiêu hãnh bởi điều họ dư, mà ta không có!

Xem xong,

Ai nhột thì cứ “xổ nho”
Ai khoái thì xin cổ võ!

 

 

HÙNG CA QUANG TRUNG

Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn”

Vó ngựa thù …
Vang rền biên ải
Nhói tim người áo vải, cờ đào
Tuốt gươm thiêng, lấp lánh mấy tầng sao,
Quyết giữ lấy quê hương từng ngọn cỏ.
Máu hùng anh cháy ngời như ngọn lửa,
Máu ba quân sùn sụt chí kiêu hùng.
Ứng lời người,
Dài một dãy non sông…
Trường sơn vội vươn mình cao thêm thước
Hoành sơn vội xoay mình vươn tới trước, (1)
Cho dòng quân như thác lũ dâng tràn
Một lời thề rúng động cả giang san….
“Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn” (2)
Từng dòng người như thác đổ miên man
Tiếng ngựa hí vang vang trời một cõi.
Sau bạch tượng, vó câu ào đá sỏi,
Sau tướng quân, gươm thép tuốt sáng ngời!
Bạch Đằng giang háo hức máu xưa sôi.
Ngàn sông rạch như lưới trời bủa sẵn.
Sóng trường giang ào ào cơn quốc hận
Hoàng Liên sơn ngân ngất dáng ngang tàng…
Trống Ngọc Hồi chấn động đến Nam Quan,
Đồn Khương Thượng quân thù thây chất đống (3)
Tiếng quân reo, cướp hồn Sầm Nghi Đống (4)
Tiếng quân reo, cuồn cuộn sóng sông Hồng…

Vó ngựa tung hoành giữa núi đao,
Cứu dân thoát khỏi biển ba đào.
Sông Hồng xác giặc lênh bênh nổi,
Gò Đống thây thù chất ngất cao.
Bảo kiếm sáng ngời rung ánh nguyệt,
Chiến công chói rạng dậy tầng sao.
Giang sơn một cõi nghìn thu vững,
Tanh máu xâm lăng nhuộm chiến bào!


Hồ Thơm Nguyễn Huệ,
Mãi mãi về sau:
Chiến tích một thời rung bốn biển,
Uy linh ngàn thuở động năm châu!
Hồ Thơm Nguyễn Huệ
Áo vải Tây Sơn:
Đường cũ dẫu mờ muôn dấu ngựa,
Sử sanh còn rạng tấm lòng son.

KHA TIỆM LY


Chú thích :
(1): Hoành sơn là dãy núi nằm ngang cũng muốn vươn mình theo hướng Bắc Nam
(2): Lời vua Quang Trung nói với tướng sĩ trước khi xuất trận
(3)+(4): Sầm Nghi Đống chết tại đồn Khương Thượng, và quân sĩ tại đồn này chết hàng vạn, gom lại thành 12 đống

TỰ TRÀO PHÚ

Trộm nghe,

Lấy gương soi mặt giai nhân,
Lấy TÂM soi lòng kẻ sĩ.
Đem gian nan thử bậc cao tài,
Đem lửa đỏ thử vàng đúng tuổi.

 

Cười cho mỗ,

Một đời múa bút, chữ "sĩ" lăm le,
Bao bận khoa gươm, chữ "hùng" lấp ló.
Chỉ vì bút nghiên chuệch choạc, mà văn chẳng ra văn,
Cũng tại chân cẳng quều quào, mà võ không ra võ!
Ngũ kinh lập bập, rặn ba bài phú mà đọ với Dương Hùng,
Tam lược nghêu ngao, lượm mấy cơ mưu, lại sánh ngang Tôn Vũ!

 

Lại cười cho mỗ:

Dốt không chịu dốt, bày trò thi phú búa xua,
Hèn chẳng chịu hèn, giao kết đệ huynh lố nhố.
Muốn trương buồm ngâm câu Thiên Địa, rượu rót tràn ly,
Thích tuốt kiếm ca khúc Lương Sơn, ngựa phi thẳng vó.
Chí tồi mà muốn vọt thấu mây,
Guơm sét lại đòi bung khỏi vỏ!

Chẳng nhớ câu:

Giao long lỡ vận nào khác tép tôm,
Mèo chó đắc thời xem tuồng báo hổ!
Mỉa mai thay câu "sinh chẳng gặp thời",
Chua xót thay lời "tài không thắng số"!

 

Thì thôi,

Thân đã ở nhà lá nhà tranh,
Miệng ráng ăn rau đay rau ngổ!
Đã cam tâm ngậm cục bồ hòn,
Thì mơ tưởng chi hơi cam lộ?
Thênh thang năm dài tháng rộng, tội mỗ đây lấy nhục làm vinh,
Chắt chiu bữa muối bữa dưa, xót mẹ đĩ chịu thương chịu khó!
Trong cơn dâu bể, hữu bằng đầy dẫy Lý Thông,
Sau trân phong ba, đồ đệ có bao Tử Lộ?
Thắp đuốc danh, lòi mặt kẻ hai lòng,
Khè lửa lợi, đổi màu vàng bốn số!
Chưa chứng Thiên Nhãn mà thấy tâm can kẻ đứng sau tường,
Chưa chứng Tha Tâm, mà biết thức thần người nằm dưới mộ!

 

Thương cho,

Vợ ăn cháo hoa lỉnh bỉnh, lại chịu ngày đói ngày no,
Con mặc áo khính thùng thình, còn vá miếng xanh miếng đỏ!
Vải dỏm loang màu, giặt một nước, lông lá bèo nhèo,
Chuối chát độn cơm, ăn một miếng, lưỡi môi ngờ ngợ! (cháo heo)
Dù lành dù rách, gìn nếp riêng, chẳng mở lời than,
Dù đói dù no, noi phép cũ, không châu miệng ngó!

 

Nay thì,

Vinh nhục như đã hết duyên,
Văn thơ xét ra vẫn nợ.
Năm xe kinh điển, quyển mất quyển còn,
Một lố bạn văn, đứa đi đứa ở.
Miệt mài trên báo, xem "thơ tự do" mà bụng dạ hãi hùng,
Lang thang trên mạng, coi "thơ Đường luật" làm mặt mày mắc cỡ!

 

Chỉ vì.

Thẹn cho tài, dẫu gọt hết trúc rừng làm bút, cũng chẳng thành danh,
Tủi cho phận, dù mài vơi nước sông làm mực, cũng chưa tiệm ngộ!
Luật niêm trớt lớt, nào dám xưng văn nọ văn kia,
Đối chác lem nhem, đâu dám vô hội nầy hội nọ!
Thơ viết người không muốn đọc, mà ca ù tai hơn tiếng ve kêu,
Sách in mối chẳng thèm ăn, lại bốc điếc ráy còn hơn bom nổ!
Mùi chưa dậy mà mắc buồn nôn,
Bụng không chửa lại lên cơn ói!

 

Làm thơ mà:

Cho không ai nhận, thì đem về nhóm lửa nấu cơm.
Đọc chẳng người nghe, cứ để dành gói xôi gói đỗ!
Những tưởng, tay nắm tay cùng dắt lên mây,
Dè đâu, mặt đưa mặt thay phiên trét lọ!

 

Ôi thôi!

Thà đành há miệng chờ sung,
Chẳng chịu trói voi bỏ rọ.

Kệ miệng người nói thẳng nói xiêng,
Mặc trôn đĩ đóng ngang, đóng dọ! (dọc/hi)

UỐNG RƯỢU

Rượu vào một cốc lạ lùng thay!
Mắt bỗng tinh tường chuyện dở hay:
Vinh nhục thập thò người lớn bé,
Lợi danh đờ đẫn giấc mê say.
Mềm môi, ly cạn màu tâm sự,
Lỡ bước, chân mòn cuộc chuyển xoay!
Mắt đục trần ai, ai biết được,
Biết ai người tỉnh, biết ai say?

 

 

HOÀNG SA TIẾU NGẠO PHÚ



Tưởng rằng,

Tổ tiên có lắm bậc đại hiền,
Tử tôn ắt nhiều người cao đức.


Ngờ đâu,

Cây cha thẳng, mà tủa cành, nhánh cong queo,
Giống mẹ lành, lại trỗ trái, hoa đắng nghét!
Thương cho các ông thầy Lão Đam, Mặc Địch, Khổng Khâu,
Lại có mấy thằng trò Bàng Quyên, Hòa Thân, Hòa…Thiết (!)
Lời cũng như sách, đều dạy phong ngôn hòa ái, khiêm cung,
Mặt dẫu giống người, nhưng quen dã tính hung hăng, tàn ác.
Với kẻ thù, mi quen tuồng làm tớ làm tôi,
Với đồng bào, mi giở thói sát nhơn sát đức!


Đạo đức thì,

Làm thức ăn bằng giấy các-tông,
Chế thuốc uống bằng đồ bá nạp!
Xem con người như chó như heo,
Coi mạng sống như rơm như rác!


Chí khí thì,

Dân hàng trăm triệu (1), mà chịu bại dưới vó ngựa Mãn, Mông,
Quân mấy mươi muôn (1), mà đầu hàng trước gót giày Anh, Nhật!
Để chúng lấy Giang Bắc nhanh như trở mặt bàn tay,
Để chúng chiếm Giang Nam dễ như lấy đồ trong bọc!
Mất muôn dặm đất (1) mà  phải chịu hèn?
Đọa trăm triệu dân (1) lại chưa biết nhục?


Ôi !

Thẹn cho đất rộng nghìn vuông,
Tủi cho thân cao bảy thước!
Trên đầu lột mũ cánh chuồn, bỏ hết cổ trang,
Nửa sọ thắt tóc đuôi sam, tuân theo tân pháp!
Mỏi gối vì câu “vạn tuế” mà bỏ nước bỏ dân,
Trẹo lưng bởi kiếp “nô tài” nên quên vinh quên nhục!


Chẳng trách,

Tình đồng chí vừa mới quen tai,
Câu hảo bằng còn chưa ráo mực!
Cắt cáp tàu, không chừa thói cuồng ngông,
Cướp hải phận , lại ló mòi láo xấc!
Vạch đường Chữ U (2), đúng là lưỡi mối miệng lằn,
Nói câu hữu nghị, khác chi tâm xà khẩu Phật!


Nầy bọn mi !

Chớ huênh hoang mà lấy thịt đè người.
Đừng khờ dại mà lấy gươm chém sắt!
Hoàng Sa ta còn trăm triệu anh em, chỉ có mấy giờ bay,
Hoàng Sa ta còn hàng vạn kiều bào, cách nửa vòng trái đất.
Nếu mi liều lĩnh cho hỏa tiễn rời giàn,
Thì ta lập tức quay thần công nhả đạn!
Hàng vạn tấm lòng đang náo nức hồi hương,
Hàng trăm con tàu đang sẵn sàng rẽ nước!
Lãnh thổ, lãnh hải, xưa nay đâu phải một bận tranh cường,
Bọn ta, bọn mi, đến giờ cũng đã bao phen đọ sức?


Nhớ chăng?

Chèo Ngô Vương sụt sôi sóng nước, dìm xâm lăng dưới đáy Bạch Đằng,
Gươm Thường Kiệt sang sảng lời thơ, truyền tuyên ngôn bên bờ Như Nguyệt.
Đánh đường núi, thây chất kín đèo,
Đánh đường sông, dòng trôi nghẽn xác!
Tiếng quân hò rung chuyển Ải Nam Quan,
Khí thế dậy lung lay Thành Kinh Bắc.
Mới nghe tên, đã sợ mất thần hồn,
Nhác thấy bóng, vội chạy bung đầu tóc!


Vì thế,

Thấy cây nhọn, ngỡ cọc Bạch Đằng, rồi bịt mắt ôm tim,
Thấy sắc đỏ, tưởng nước Hồng Hà, vội lấy tay bưng mặt!
Thấy yếm đào, nhớ hồn ma Lục Dận chợt kiêng hùng khí Triệu Nương;
Vào hiểm địa, nhớ mồ tổ Liễu Thăng bỗng sợ thần oai Lê Sát!
Nếu ta lại đem Mã Yên ra dọa, ắt  mặt lắm kẻ xanh lè,
Nếu ta còn đem Tốt Động ra  đe, chắc môi bọn mi tím ngắt!


Mới đây thôi,

Ngụy Văn Thà theo tàu tuẩn tiết, chữ DŨNG còn ghi,(3)
Trần Đình Phương vì đảo hi sinh, chữ TRUNG mãi nhắc.(4)
Xem tử sinh là hạt bụi, sợi lông,
Đặt chí khí như tấm gang, lá thép!
Khè lửa mạnh mới biết vàng thau,
Đọ sóng dữ mới hay hào kiệt!


Xưa nay,

Kế hành binh ngoài chỗ dựa quân cơ,
Giành thắng lợi cốt nhằm vào nhân đức.


Huống chi ta,

Bên sau, lớp lớp nhân dân đang ngụt chí diệt thù;
Phía trước, hàng hàng chiến sĩ quyết đồng lòng giữ nước.
Gươm tôi đúng lửa, hào quang lòe ba cõi quỉ thần,
Binh dụng phải thời, hùng khí át hai vầng nhật nguyệt!


Còn mi,

Tay bốc tay hốt, sao không tu tánh sửa mình,
Trước bại sau thua, sao chẳng kiêng oai nễ mặt?
Nếu mi ngoan cố còn vẽ “lưỡi bò”,
Thì ta quyết tâm luôn tung kiếm thép!
Với chúng ta mà dám dựa pháo, cậy tàu,
Thì bọn mi ắt phải lấy phân bôi mặt!


Một mai,

Dù cho gió đổi màu mây,
Dù cho máu pha màu cát.
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lượm viên sỏi của Duy Mộng, Quang Hòa,
Hoàng Sa ta cũng không cho mi lấy phân chim của Cam Tuyền, Vĩnh Lạc.


Đó là công lao cha mẹ ta, dựng nên một dải sơn hà,
Đó là xương máu anh em ta, giữ yên ba miền tổ quốc.
Ta giữ nước bằng mưu trí thần sầu,
Ta giữ nước bằng chiến công oanh liệt!
Ta giữ nước bằng một dân tộc anh hùng,
Ngươi “giữ nước” bằng dãy trường thành khiếp nhược!


Cảm khái câu:

Thà làm quỷ nước Nam”;
Hơn làm vua đất Bắc”.


Hoàng Sa ta,

Thân dựa mũi gươm,
Ngựa treo đầu giặc.
Đem xương gởi  ở chiến trường.
Lấy máu giữ từng tấc đất. 
Hẹn với lòng một nhục một vinh,
Thề với giặc một còn một mất!


Nhớ cho biết,

Coi mặt mà bắt hình dong,
Hối hận bây giờ còn kịp!
Bút thép lời gang,
Hoàng Sa hạ bút!

KHA TỆM LY

________

Chú thích:

(1)Những con số minh họa. Tượng trưng cho nhiều, lớn.
(2) Đường Chữ U hay Đường Lưỡi Bò, là vùng biển mà Trung quốc tự khoanh vùng, rồi đòi làm hải phận cho mình
(3) Sự kiện, năm 1974: Khi tàu HQ-10 bị địch bắn cháy, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà  tuẩn tiết theo tàu.
(4) Sự kiện năn 1988, Trung úy Trần Đình Phương trước lúc hi sinh, nói: “Thà hi sinh, chứ không để mất đảo!”