Câu Chuyện Của Một Nữ Điệp Viên CIA Người Việt |
Tác Giả: Lâm lễ Trinh | |
Thứ Ba, 13 Tháng 7 Năm 2010 05:14 | |
Một câu chuyện thật nhưng ly kỳ như trinh thám về cuộc đời của nữ điệp viên CIA Đặng Mỹ Dung được bà kể lại trong 412 trang sách của cuốn tự truyện A Thousand Tears Falling (Ngàn giọt lệ rơi) Tình phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi những dị biệt chính trị giữa cha con . 17 chương đầu của hồi ký MNGLR dành để trình bày cuộc sống của gia đình tác giả từ 1945 đến 1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia . Thân phụ của Yung Krall xuất thân là một giáo viên, tên thật Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh, sinh năm 1909 tại Vỉnh Long, tham gia hoạt động cho CS từ lúc 18 tuổi , bị Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn đảo cho đến 1945 . Thân mẩu của Yung Krall là bà Trần Thị Phàm , có 7 người con , hai trai và năm gái. Yung Krall là người con thứ tư trong gia đình. Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh đắc cử Dân biểu Cần thơ trong Quốc hội CS và năm 1954 , rút về Bắc Việt để làm việc trong ngành ngoại giao . Trong 10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc gia, Đặng Quang Minh cùng gia đình đổi vùng thường xuyên , từ Ông Dẹo, Ba Ngọn ( Cầnthơ ) qua Kim Quy, Cảng Chú Hàng ( Chương Thiện ) để tổ chức kháng chiến. Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng mặt nhiều tháng, có lẻ qua Thái lan mua võ khí, và khi về nhà thì thường phãi cải trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng . Tại Ông Dẹo, Lê Đức Mai , sau này đổi tên thành Mai Chí Thọ , em ruột của Lê Đức Thọ, thường lui tới với gia đình cô. Cuối 1953, Lê Đức Thọ , từ Hànội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán bộ tại Cảng Chú Hàng . Sau Hiệp ước Genève, Đặng Quang Minh tập kết ra Bắc với Khôi, đứa con trai đầu lòng 18 tuổi. Đặng Mỹ Dung - lúc đó vừa lên chín - cùng với mẹ và chị em về tá túc tại nhà ông ngoại ở Long Thạnh , Cầnthơ . Trong gia đình của Dung, các chú và cô đều hoạt động cho CS nhưng mẹ và ông ngoại, thủ cựu, thì lại không chấp nhận xã hội chủ nghĩa bất nhân . Sự dị biệt về lý tưởng , tuy nhiên , không làm sứt mẻ tình thương kính lẩn nhau . Vì biết không thuyết phục nổi vợ con thay đổi lập trường , Đặng Quang Minh không tìm cách gây áp lực quá đáng . Trong suốt cuộc chiến VN, mổi gia tộc là một thảm cảnh phân chia - hình ảnh chung của đất nước ! - với những thân nhân sanh Bắc tử Nam hay trái lại. Gia đình của tác giả MNGLR không phãi là một biệt lệ. Trước khi tập kết, Đặng Quang Minh thận trọng cho thủ tiêu tất cả hình ảnh chụp chung với y, lập khai sanh khác cho các con , ghi cha " vô danh " và sửa tờ khai gia đình. Y hứa hai năm sẽ trở lại. Không ngờ hai mươi mốt năm sau , về nơi sinh quán thì gia đình đã bỏ " thiên đường CS " và vỉnh viển ra đi . Từ 1954 cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, Đặng mỹ Dung và gia quyến sống lang bạt , hụp lặn trong mọi thử thách vât chất, an ninh và tinh thần. Dung lớn lên như cỏ dại ,với mặc cảm ray rứt của một người con không cha , "cha vô danh" mặc dù biết rỏ cha còn đó, bên kia vỉ tuyến . Xong Trung học tại trường Phan Thanh Giản Cầnthơ năm 1964, lúc 18 tuổi , Dung liền tìm việc làm để giúp đở gia đình . Nhờ xông xáo, xốc vác , kiên nhẩn - và cả may mắn - Dung được Phòng 5 Tâm lý chiến Quân đội VNCH của Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh, Vùng 4 Chiến thuật , tuyển vào chân phóng viên . Nơi đây, Dung tập viết lách và thu thập kinh nghiệm về chiến tranh tâm lý . Có một lúc , Dung bị An ninh Quân đội điều tra nhưng mọi việc không đi đến đâu. Thân mẩu của Dung phãi dẹp tiệm may và dời về Sàigòn sinh sống sau một cơn bịnh nặng,. Dung tim ra được một job kế toán - điện thọai viên tại Đông Nam Á Ấn quán trả lương chết đói. Dung thất vọng , một mình trở lại Cầnthơ xin tái phục vụ tại Phòng Tâm lý chiến cũ. Không đầy một năm sau, Dung nhớ gia đình và thấy tương lai không có triển vọng nên trở lên Sàigòn , nhờ hai người chị , sẳn làm cho Mỹ , giới thiệu vào giúp việc tại Trung tâm BOQ , Bachelor Officers’ Quarter. Tại đây, Dung gặp Trung úy Hải quân John James Krall và sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai rời VN về Monterey , Californie để làm đám cưới. Lúc đó, hai người chị của Dung đang sống tại Mỹ vả ba chị em đã trở thành công giáo . Hãi Vân, người em trai của Dung, 21 tuổi , tình nguyện gia nhập Không quân và được Bộ Quốc phòng VNCH gởi tu nghiệp tại Lacland, Texas. Đầu tháng giêng 1971, Hải Vân tử nạn trong một chuyến bay tập dượt gần Savannah, Georgia. Năm 1973, Yung Krall về thăm gia đình tại Sàigòn và nhân dịp này, nhận góp phần bảo trợ Cô nhi viện Minh Trí tại Gòvấp . Đầu 1975, John Krall đổi qua Fleet Weather Central , Hawai .Bất thần một buổi sáng , Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp xưng tên Jean Sagan, bạn thân của Đặng Quang Minh , báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ và thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi xứ. Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được củng của kẻ trung gian bí mật này một bao thơ (không ghi tên người gởi ) , củng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hànội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… và tại Mạc tư khoa và Mông cổ 3. Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia đình. Tái ngộ với cha để chia tay vỉnh viển . Tình thế nguy kịch sau ngày Ban Mê Thuột và Quảng Trị thất thủ . Chị của Yung Krall , kết hôn với một sĩ quan Hoa kỳ tên Wray Allan Hall , không chịu tiết lộ cho chồng biết lai lịch của cha . Thiếu tá John Krall xin nghỉ phép 30 hôm , liều bay cấp bách về Sàigòn vận động đem nhạc mẩu và em vợ qua Hoa kỳ. Trên nguyên tắc, chuyến ra đi này bất hợp pháp vì lúc đó, Ngũ Giác Đài cấm ngặt sỉ quan Mỹ vào VN nếu không có công vụ lệnh của cấp chỉ huy trực tiếp .Yung Krall sốt ruột vì không biết việc gì xảy ra cho chồng và gia đình tại VN nên nghỉ ra giải pháp táo bạo : điện thoại cầu cứu thẳng vói Đề đốc Gaylor, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương .Sau nhiều khó khăn, Dung được nói chuyện, xác nhận chức vụ của cha, trình bày nguy cơ của mẹ và luôn cả cuộc điện đàm với Jean Sagan. Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải quân Dave Smith tiếp Dung hỏi thêm chi tiết. Trong lần gặp gở này, để chắc ăn, Dung đánh lá bài chót : cô tình nguyện " cộng tác với chính phủ (HK) nếu và khi nào cần đến " . Đề nghị có hiệu quả mau chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA mặc thường phục, tên Bob Jantzen, đến tận nhà , sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của thân nhân của Yung Krall. Bob củng hứa thông báo cho Tòa Đại sứ HK tại Sàigon biết sự hiện diện của John Krall ở VN. Tham vụ ngoại giao Grant Ichikawa , nhờ thế, liên lạc được với John để sắp xếp mọi việc . Ngày 10.4.1975, John Krall yên tâm , trở về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và hai em vợ đến an toàn tại phi trường Honolulu . Đầu tháng 6.1975, Bob Jantzen cho Yung Krall gặp sĩ quan đặc trách , case officer Robert Hall (hay Rob ) là người có phận sự trong hệ thống CIA theo dỏi công tác , ra chỉ thị và nhận báo cáo . Rob lập một hồ sơ đầy đủ về Yung và đề nghị Yung theo học một khóa huấn luyện tại trung tâm Langley ở Washington . Ngày 20 .7.1975, tại Hickam, Yung vui mừng đọc trong báo Japan Times một tin ngắn cho biết ngày 5 tháng 8 , hai phái đoàn Hànội và Mặt trận giải phóng Miền Nam do Đổ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẩn sẽ tham dự Hộâi nghị quốc tế chống bom nguyên tử và khinh khí tại Tokyo . Yung , mừng tủi lẩn lộn , liền bay qua Nhựt với đứa con trai Lance , 5 tuổi, để gặp lại cha sau trên 20 năm xa cách . Có 2 diểm đáng ghi trong cuộc tái ngộ này : 1 ) ĐQMInh nghi quyết đế quốc Mỹ đã âm mưu sát hại con trai là phi công Hải Vân trong phi vụ tại Georgia để trả thù Minh theo CS. Minh không tin lời cải chính của Yung đây chỉ là tai nạn . 2 ) Trước mặt nhân viên CS, Đ.Q.Minh không dám công nhận con và cháu ngoại. Y giới thiệu họ là " người cùng làng ! ".Yung buộc lòng phãi đóng trò xưng hô " Bác, Cháu " với cha . Trong những lần nói chuyện riêng với thân sinh về một số vấn đề chính trị, Yung khổ tâm nhận thấy một thế giới chia cách hai người và thổ lộ sự thất vọng . Đ.Q. Minh an ủi khi chia tay : " Ba không tìm cách thay đổi con nhưng xin con đừng dày xéo những xác tín của Ba …Nếu con thoải mái với điều con tin tưởng thì Ba củng mừng thấy con hài lòng !".( trang 247, 254, hồi ký ). Trung tuần tháng 9.1975, Yung làm thủ tục đem mẹ qua Paris gặp thân phụ trong dịp ông công tác tại Pháp. Trước ngày khởi hành, xếp Xịa Jerry Parker tiếp Yung tại một nông trại Virginia và ngỏ ý muốn giúp sỉ quan VC Đặng Văn Khôi. đào thoát khỏi Bắc Việt . Khôi là anh cả của Yung, chuyên về tên lữa , guided missiles, từng được huấn luyện tại Trung quốc và Liên Sô . Rob được lịnh qua Paris theo dỏi việc làm của Yung . Phan Thanh Nam, xử lý thường vụ Tòa Đại sứ GPMN đặt ở 44 Đại lộ Madrid, Neuilly -sur- Seine, chỉ định "sinh viên " Phạm Gia Thái lái xe đưa mẹ con Yung về ngụ tại một ngôi nhà ở Verrières-la- Buisson. Đồng thời , Thái có phận sự làm hướng đạo cho hai người khách. Vì không muốn Thái dò xét hành tung của mình, Yung từ chối , viện lẻ đã thuê phòng tại khách sạn . Nam được Bắc bộ phủ gài trong MTGPMN . Không để mất thời giờ, vài hôm sau, Nam gặp riêng Yung để tìm hiểu về chức vụ và khả năng chuyên môn của John Krall trong Quân đội HK, đề nghị Krall giúp Hànội, khuyến dụ Yung về Mỹ vận động dư luận quần chúng đòi Hoa Thịnh Đốn bồi thường 3,5 tỳ đô cho VN và yêu cầu mẹ Yung - nếu không về Việt Nam - thì ít nửa củng theo Đs Minh qua Moscou vì Chính phủ Sô viết " hiến cho vé máy bay Aéroflot miển phí " . Nam không thuyết phục được thân mẩu của Yung vì bà dư biết chính quyền CS không tha thứ vợ một cán bộ cao cấp từ chối tập kết, bỏ nước ra đi và hơn nửa , gã hai con gái cho " Mỹ ngụy". Vả chăng, Đs Minh không ngại cho vợ biết điểm này. Những ngày vui mừng tái ngộ qua mau. Mẹ Yung quyết định cho Nam biết dứt khoát bà phãi trở về Hoa kỳ để săn sóc gia đình và thoái thác dự buổi cơm do Vỏ Văn Sung, Đại sứ Bắc Việt, khoản đải . Bà cảm thấy nhẹ nhỏm khi lên máy bay về HK vì những hôm chót , nhiều kẻ lạ mặt lui tới nơi địa chỉ cư ngụ , làm bà lo sợ bị bắt cóc. Vỏ Văn Sung mời Yung đến sứ quán, tỏ ý muốn Thiếu tá John Krall " tiếp một tay với cha vợ " , cho biết Việt cộng có một số " cảm tình viên " tại Honolulu và đề nghị Yung tiếp xúc làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nướcï tại San Francisco . Trở về Hawai, Yung Krall được CIA chỉ thị dời cùng chồng lên thủ đô Washington. Hướng công tác không còn chú trọng đến nạn nhân của CSVN và từ nay, nhắm vào hệ thống chỉ huy CS ở nước ngoài. Yung được bố trí đóng vai trò " gián điệp nhị trùng " để lấy tin. Môt vai trò tế nhị và nguy hiểm mà Yung chấp nhận .Yung trở qua Paris vài tháng sau để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều . Trong nhiều tuần lễ , Đồng dẩn Yung viếng trụ sở và thư viện chứa đầy tài liệu tuyên truyền ; tham dự những buổi học tập của cán bộ và gặp các phần tử thiên tả Việt - Pháp ; và trao cho Yung nhiều ấn phẩm Anh - Việt để phổ biến tại Hoa kỳ . Đặc biệt, Đồng dặn Yung tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị Ngọc Thoa, người cầm đầu một hệ thống tình báo CS tại Hoa Thịnh Đốn. Sỉ quan đặc trách Rob Hall - khi được thông báo mọi việc - ngăn Yung gặp Thoa vì cho rằng công tác phản gián là phần vụ cảnh sát của FBI , không liên hệ đến CIA chỉ chú trọng về chính trị . Y hăm sẽ bãi nhiệm Yung nếu bất tuân lịnh: Không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI. Yung bướng bỉnh cải lại rằng cô làm việc không lương cho CIA từ 9 tháng nay, vỉ thế không bị ràng buộc bởi hợp đồng nào và cô sẽ nhờ chồng tường trình lên Đề đốc Bobby Inman , Giám đốc Cục Tình báo Hải quân . Lúc đó, John Krall là nhân viên Phòng Liên lạc Quốc ngoại trong cơ quan này. Vài hôm sau. Đề đốc Inman tiếp Yung . Cô trình bày nhu cầu cấp thiết phá vỡ lưới tình báo VC tại HK. Inman hứa sẽ thảo luận với Clarence Kelly, Giám đốc FBI. Tháng 6.1976, nhân viên FBI Bill Fleshman và sĩ quan đặc trách CIA Bill Reardon được chỉ định làm việc với Yung Krall , từ nay một gián điệp có hợp đồng . Vụ án Đinh Bá Thi , Trương đình Hùng và đồng bọn. Bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng giúp Yung Krall gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa dễ dàng tại một căn gác nhỏ ở 18th street N.W. thủ đô Washington . Địa chỉ này là trung tâm phát hành nhiều tài liệu tuyên truyền CS và nguyệt san Người Việt Đoàn Kết mổi tháng in 5000 số, với sự giúp đở của LM Trần Tam Tĩnh, Gia Nã Đại . Thoa rất kín đáo , sống kham khổ và có một người chồng Mỹ thiên tả nhưng không ở tại đây. Hệ thống của đương sự gồm có Việt kiều thân Cộng, không đông, có căn bản học thức, phản chiến trong những thập niên 60 / 70 và hoạt động khá hăng hái . Sinh viên Trương Đình Hùng , con của Ls Trương Đình Dzu, nguyên ứng cử viên Tổng thống chống Thiệu năm 1967, là một trong các người này. Thoa và Hùng thường nhờ Yung chuyển nhiều bao thơ mật cho Hùynh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris. Mổi lần, FBI và CIA được Tòa án cho phép chụp ảnh tài liệu để lưu trử . Tháng 4. 1976, nhờ Vỏ Văn Sung giới thiệu ,Yung bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy ,Chủ tịch Hội Việt kiều Yêu nước tại San Francisco và Lũy cho Yung gặp hai " đồng chí đắc lực" học tại Virginia Tech , Christianburg, VA . Sĩ quan đặc trách Rob Hall được tái chỉ định trở về cọng tác với Yung . Cuối 1976, Yung điên thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ CS tại Liên Hiệp Quốc ở New York với một bao thơ tài liệu của Trường Đình Hùng. Thi vui vẻ nhận lời vì quen thân với Đs Đặng Quang Minh. Chẳng những thế, Thi còn mời Yung Krall đến ở tại Sứ quán . Vì xông vào hang cọp, Yung thông báo trước cho CIA / FBI biết : nếu quá 3 ngày, không nhận được tin , là có chuyện nguy . Nhân viên sứ quán vỏn vẹn gồm có Phạm Ngạc, Tham vụ phụ tá ; Phạm Dương, chuyên viên kinh tế ; Hưng, gác dan kiêm đầu bếp ; và Vân, tài xế kiêm vệ sĩ . Tất cả sống chung với nhau , nhịn ăn điểm tâm " để tiết kiệm ", thường xuyên nghe ngóng thời sự trên 3 máy truyền hình và không được phép rời Nữu ước quá 25 dặm . Theo Yung, Đinh Bá Thi tánh tình cởi mở và không quá khích. Y than vợ đang bịnh nặng ở VN và không được Chính phủ cho xuất ngoại. Nhân viên ngoại giao không có quyền đem theo gia đình để tránh nạn đào ngũ . Thi thông cảm nổi khó khăn thân mẫu của Yung gặp phãi nếu trở về VN. Thi buồn rầu nhận định : " Một khi chế độ không đem lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai hưa hẹn thì phãi thối lui và tự đặt câu hỏi : Vì sao ? " (trang 312, hồi kỳ ). Sau khi CIA trắc nghiệm bằng máy dò sự thật, polygraph test , theo thủ tục định kỳ, Yung Krall trở lại Paris, tổng hành dinh tỉnh báo VC ở hải ngoại. Mổi chuyến đều có Rob Hall đi kèm, để bảo vệ an ninh và vì lý do nghề nghiệp . Tuy đại diện cho MTGPMN, Phan Thanh Nam thiên hẳn về chủ trương của Hànội xúc tiến thống nhứt gắp VN. Nam khuyên Yung không nên lộ diện với Việt kiều cánh tả để dể làm việc mật với y. Nam còn xúi Yung bề ngoài vung vít chống Cộng, để đánh lạc hướng . Yung củng bị Phòng Nhì Pháp theo dỏi. Phòng thuê của cô tại khách sạn bị lục soát , điện thoại bị ghi âm . Yung phản đối , viên Giám đốc xin lổi , nói rằng có sự hiểu lầm . Vì tính cách hệ trọng của kỳ công tác này, Yung được gặp Dan Andrew, chỉ huy khu vực của CIA . Huỳnh Trung Đồng đề nghị Yung đứng ra thành lập một Hội Việt - Mỹ tại HK vì các nhóm Việt kiều Yêu nước ở Hoa Thịnh Đốn, San Francisco và nới khác chống đối lẩn nhau. Chính Trương Đình Hùng ( tự David Trương ) nhiều lần khuyên Yung không nên liên hệ với những nhóm " ăn hại " vừa kể. Dù sao, theo Yung, những tổ chức này đã thu được vài kết quả : móc nối với một số trí thức và khoa học gia HK hô hào giúp chính quyền Hànội. Gs Edward Cooperman, thuộc Đại học Fullerton, Californie, sáng lập viên của Ủy ban US - VN Science & Technology Committee, là một thí dụ. Yung xâm nhập vào hoạt động của Ủy ban . Một thời gian sau, xãy ra hai vụ 1 -Trần Văn Bé Tư mưu sát hụt KS Trần Khánh Vân, thành viên của Ủy ban nói trên và 2 - sinh viên Lâm Văn Minh hạ sát Cooperman . Cộng đồng người Việt rất xao động về chuyện thanh toán này . Mặt khác, lúc ở Paris, Yung củng đã lui tới với vài phần tử trước hợp tác với MTGP, nay bất mản : Ký giả Cao Minh Chiếm và kỷ sư Huỳnh Ngọc Châu , rể và con của cố Huỳnh Ngọc Nhuận, một triệu phú ở Giađịnh từng chứa chấp tại nhà dược sĩ Hồ Thu và nhiều nhân vật kháng chiến. Sau 1975, bà Nhuận bị CS giam cầm và tịch thu tài sản . Kể từ mùa xuân 1977, Yung bám sát hoạt động của Trương Đình Hùng . Hùng nghịch với Nguyễn Văn Lũy và làm việc thẳng với Phan Thanh Nam ( Paris ) vả Đinh Bá Thi ( New York ), đồng thời liên lạc trực tiếp với Hànội. Hùng tâm tình với Yung rằng , với khả năng sẵn có và giao thiệp rộng , y mơ ước ngày kia , được " Trung Ương " giao cho trách nhiệm điều khiển " hệ thống thông tin quốc ngoại CS " ở Hoa Kỳ , tương đương với vai trò giám đốc CIA Việt Nam ( ! ) . Mộng xa vời , chưa đạt thì xộ khám . Đúng vậy, Yung liền thông báo cho Clarence Kelley, Giám đốc FBI và Thứ trưởng Ngoại giao Warren Christopher hay khi David Trương khoe với cô rằng y " có thể có những gì y muốn ", nhờ nắm được một nhân vật (HK )" vô ra ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao "( trang 336, hồi ký ). Cuối tháng 4.1977, Huỳnh Trung Đồng , vừa được thu nạp vào đảng CS sau một cuộc víếng thăm Hànội , mời Yung Krall qua Paris " để chào " Thủ tướng Phạm Văn Đồng công du tại Pháp. David Trương nhờ Yung trao cho Phan Thanh Nam hai bao thơ " tối mật / tối khẩn " . Tất nhiên, FBI chụp ảnh tất cả tài liệu bên trong. Huỳnh Trung Đồng niềm nở chào đón Yung ở Paris và giới thiệu với 4 cán bộ VC, trong đó có một phụ nử tên Vân, nguyên phụ tá của Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị Paris. Tất cả tỏ vẻ vui mừng nhận được tài liệu của T.Đ. Hùng để cho phái đoàn CS Việt nhóm hôm sau với đại diện của Washington về " vấn đề bồi thường chiến tranh " . Giờ chót, không rỏ lý do , H .T. Đồng xin Yung đừng đến phi trường Orly đón Thủ tướng Đồng và dự buổi tiêp tân . Tại HK, chiến dịch " Operation Magic Dragon " xúc tiến để tóm trọn gói tổ chức tình báo Việt Cộng. FBI ghi âm được đầy đủ điện đàm giữa T.Đ.Hùng và Ronald Louis Humphrey , một nhân viên của USIA, US Information Agency . Với sự đồng ý của Tổng thống Carter và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình bí mật trong văn phòng của Humphrey và bắt quả tang đương sự trộm tài liệu bí mật quốc gia để chuyển cho Hùng. Trong bức thơ riêng do Phan Thanh Nam nhờ Yung đưa cho Hùng, Nam viết : "Hoan nghinh chương trình làm việc của anh…Có những cố gắng lừa đảo và bịp lẩn nhau ". Hùng sống thanh bạch trong một căn phố nhỏ, đầy sách và báo , ở đường F. Street và làm việc trong một tiệm gởi thư tín , đường M Street, Hoa Thịnh Đốn . Khi Yung đến từ giả Hùng để đi Luân Đôn , nhiệm sở mới của chồng chuyển về Bộ Tư lịnh Hải quân HK tại Âu châu , Hùng đưa cho Yung một bì thơ đựng tài liệu " lấy từ Quốc hội " để nhờ trao cho Huỳnh Trung Đồng . Hùng nói : " I ran over to the Congress to get a package of that stuff " . Đây là bao thơ cuối cùng , trước ngày Hùng bị bắt . Yung Krall thử thi hành một kế hoạch chót trước khi thôi việc với CIA - FBI : thuyết phục thân sinh từ nhiệm và giúp người anh cả là sĩ quan VC Đặng Văn Khôi trốn khỏi VN. CIA tặng cho Khôi 10.000 đô để trang trải chi phí. Yung qua Paris nhờ Đs Vỏ Văn Sung can thiệp với Bộ Ngoại giao CS cho Đặng Quang Minh đến Pháp gặp vợ , khai đang đau nặng . Sung cho biết đến nay, chính phủ Hànội không cho cán bộ nào, dù cao cấp, xuất ngoại vì vấn đề riêng tư . Yung đánh liều gởi hai bức thơ thỉnh nguyện cho Tổng Bí thơ Lê Duẫn và Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh , kèm theo giấy chứng bịnh ( giả ) của mẹ .Bất ngờ, một thời gian sau, Lai Xuân Chiêu , xữ lý thường vụ Tòa Đại sứ VC tại Anh quốc , cho Yung hay Đs Đặng Quang Minh, trong dịp công du tại Moscou, sẽ ghé Luân Đôn. Được thông báo, Rob (CIA ) và Bill (FBI ) đề nghị Yung hãy khuyên cha xin về hưu và di cư qua Hoa kỳ . Nếu Đặng Quang Minh cương quyết từ chối, họ sẳn sàng giúp tay để tổ chức bắt cóc . Ngày 13.12. 1977, Đs Minh đến phi trường Heathrow. Ban ngày , Đs Minh ở tại nhà Yung , chuyện trò và ăn uống với vợ con nhưng ban đêm lại nhứt quyết đòi về ngủ tại phòng của sứ quán dành riêng cho khách. Nói là tuân hành quy tắc chung ( của CS ! ). Khi nghe Yung năn nỉ về vấn đề xin vể hưu để đoàn tụ với gia đình , Đs Minh lắc đầu , trả lời : " Đảng còn cần , không thể trốn nhiệm vụ ! ". Đs Minh có vẻ lo sợ. hoảng hốt khi Yung - quá thất vọng - nói đùa :" Con sẽ bắt cóc Ba ! ". Cuối cùng , Yung bỏ qua ý định bắt cóc vì biết giải pháp này sẽ vỉnh viển đốt cháy cuộc đời của cha , chỉ biết có Đảng. Nơi trang 382 , Yung Krall chán nản kết luận : " Phãi có gì hơn phép mầu mới thắng nổi sự mê tín lý tưởng vàû lòng chung thủy vô biên của cha tôi đối với chủ trương của ông ! ".Mẹ Yung thấy con khổ sở bèn vổ về :" Không thể thay đổi đất nước và dân Việt bằng cách tố khổ suông CS trước mặt Ba . Đừng hành hạ Ba vì kinh nghiệm đau đớn của con. Không phãi chỉ Ba con mà là cả chế độ đã không làm được gì tốt cho dân tộc ..Mẹ biết con khổ, Con còn trẻ , rồi mọi vết thương sẽ hàn gắn . Ba con không còn thời gian như con ". Khi tỉển cha lên máy bay, Yung cảm động bắt tay từ giả , với lời thú :" Con chống Chính phủ CS. Con không chống Ba ! ". Đặng Quang Minh trã lời , lạnh lùng : " Con là con , Ba là Ba. Ba không chịu trách nhiệm về những gì con làm ! ". (trang 385. 395. Hồi ký ). Đây là cuộc hội ngộ chót . Yung Krall quyết định giải nghệ mặc dù về thành quả công tác, Yung được thượng cấp đánh giá như một spy catcher, super spook , superstar spy… CIA tăng nguyệt phí lên 1, 200 đô , một giá rẻ mạt , sánh với bao nhiêu công sức và hy sinh ! . Tiền không phãi là mục tiêu . Yung không thiết tha gì nữa . Cô trã lòi Tony Lapham, Cố vấn CIA, và John Martin, Luật sư của Bộ Tư pháp, rằng cô sẳn sàng làm chứng (nhân chứng chính, key witness) khi Tòa xữ vụ án gián điệp VC . Quyết định này gây nguy hiểm cho cô và gia đình. Mặt khác, sẽ chấm dứt liên hệ từ nay với CIA và FBI vì cô lộ diện . Nhưng không sao ! .Ngày 31.1.1978, FBI bũa lưới bắt Ronald Humphrey, Trương Đình Hùng và đồng bọn . Một số can phạm khác bị truy tố nhưng không bị bắt : Huỳnh Trung Đồng, Phan Thanh Nam , Nguyễn Ngọc Giao và Đinh Bá Thi . Trong hồ sơ , Yung cung khai dưới bí danh Keyseat , ngụ tại 8 Regal Lane, Regent Park, London. Giới truyền thông HK ầm ỉ tung tin về vụ án này. Hùynh Trung Đồng gởi cho Yung Krall một tấm thiệp căn dặn " hãy đề phòng " vì tới giờ chót, y vẫn không ngờ Yung là gián điệp nhị trùng. Mãi đến ngày 17.3.1978, công chúng mới biết được lý lịch thiệt của Keyseat . Yung liền nhận được nhiều thơ nặc danh hăm dọa và sỉ vả là " kẻ phản bội ". CIA củng không hài lòng vì mất một cọng tác viên đắc lực. Nổi khổ tâm của Yung là không biết hậu quả gì xãy ra tại VN cho cha và anh ?. Tuy nhiên , cô không hối tiếc đã giúp lật tẩy CS phá hoại tại Hoa kỳ, đất dung thân của gia đình cô. Những tâm tư này được gởi gấm trong một hồi ký đầy kỷ niệm và nước mắt : " Một Ngàn Giọt Lệ Rơi " . Yung Krall đã biến các dày xéo của bản thân và đất nước thành môt hành động tích cực để đấu tranh cho dân chủ . Trong những lần tiếp xúc riêng , tác giả Yung Krall đã trã lời như sau vài câu hỏi của chúng tôi : 1 ) - Ngày 8.7.1978, Humphrey và Trương Đình Hùng bị Tòa phạt mổi người 15 năm tù ở về tội làm gián điệp. Humphrey có vợ Việt . cưới khi y phục vụ tại VN. Hùng có vợ Mỹ và định cư tại Aâu châu sau khi thụ án ï Đs Đinh Bá Thi bị trục xuất khỏi HK, chết trong một tai nạn xe hơi ( hình như do CS tổ chức vì nghi Thi " chệch hướng " ). 2 ) Đs Đ.Q. Minh là người của Trung ương đảng bộ gài trong MTGPMN nên vẩn tại chức đến ngày qua đời tại Sàigòn năm 1986, vì bịnh đau tim. Chức vụ chót là Cố vấn Bộ Ngoại Giao CS. Có liên lạc với gia đình nhưng tuyệt nhiên không hề đề cập đến vụ án . 3 ) Sau khi Tòa HK tuyên xử, để đánh lạc hướng dư luận , báo chí CS viết rằng " con của một đảng viên cao cấp CS bị CIA buộc gài bẩy Đs Đinh Bá Thi và con trai của một luật sư trong vụ gián điệp " . 4) Tháng 6. 1986 , hai tháng trước khi cha qua đời, Đặng Văn Khôi , sau nhiều lần vượt biên thất bại, đến định cư tại HK . Hiện sinh sống tại New York bằng nghề dạy guitar. 5 ) Tháng 4. 1986 , thôi việc với CIA, tác giả Yung Krall, với tư cách riêng, qua Bắc Kinh 2 tuần để viếng Hoàng Văn Hoan, bạn nối khố của Hồ Chí Minh , tị nạn tại Trung Hoa và bị Lê Duẫn xử tử hình khiếm diện. Yung Krall sẽ viết bài tường thuật vụ tiếp xúc hi hữu này. 6 ) Một sô tài liệu về vụ án Đinh Bá Thi - Trương Đình Hùng đến nay chưa được giải mật nên không thể ghi vào hồi ký MNGLR . * * * Hoa kỳ lập bang giao với Việt Nam là tạo cơ hội cho Hànội mở rộng lưới gián điệp tình báo tại Mỹ trong mọi lảnh vực : văn hóa, kinh tế và chính trị . Cách đây một năm, FBI đả phãi lên tiếng báo động và kêu gọi cộng đồng Việt giúp tay chận đứng sự xâm nhập . Trên 3 thập niên chiến tranh , xã hội chủ nghĩa tại VN là chất bạch phiến đã ru ngủ và mê hoặc dân chúng nhẹ dạ. Lòng yêu nước thiết tha và mù quáng của họ bị lợi dụng bỉ ổi . Đối với nhiều lớp người, chủ thuyết Mác Lê là một tôn giáo trên mọi tín ngưởng , luôn luôn chủ trương " tử vì đạo " , chà đạp lý trí và lô gíc . Chỉ thắc mắc mà thôi , đủ xem như phản bội . Con người CS quy hóa không khác đứa trẻ con bị đóng hộp, lớn lên và chết mòn giữa bốn bức tường thành khóa chặt . Lần hồi , trong tim phổi và linh hồn ï, Mác Lê đã thay thế tổ tiên và quê cha đất nước . Ngày nay, xã hội chủ nghĩa chỉ còn là một lý thuyết rổng tuếch, mất hết hấp lực, hào khí và linh nghiệm. Nhóm cầm quyền tại Bắc bộ phủ bôn chôn và xuýt xoa tìm cách bôi đỏ dậm vá một món đồ cổ đã phai màu và tróc sơn . Tái xích hóa không phãi là lối thoát khôn ngoan . Lối thoát là mở mắt nhận thức Dân chủ, Nhân quyền và Kinh tế thị trường đang tiến trong thế giới đổi khác hằng ngày. Sự thực - chỉ có sự thực ! - mới giải thoát . Vì ù lì lẩn tránh sự thực, CS không bao giờ tự giải thoát nổi . Cho đến ngày cuồng phong cách mạng giải thoát và đào thải chúng . Đọc qua ba bài chỉ trích xã hội chủ nghĩa của Phan Đình Diệu, Trần Độ và Hoàng Hữu Nhơn sẽ thấy ngay những khác biệt giữa một chiến sĩ dân chủ, một thành viên CS hối cải và một cán bộ chưa gột sạch chất nhựa mạc xít .Điều đáng tiếc là trong cả ba , không một ai đặt thẳng vấn đề với Trung ương đảng bộ : tẩy khỏi Hiến pháp điều 4 đề cao độc quyền đàng trị . Chừng nào họ mới dám bước thêm bước quyết định này ? Yeltsin , một cựu thành viên CS biết quá nhiều, đã khẳng định :" CS không bao giờ thay đổi . Chúng chỉ có thể bị thay thế " .Jean Francois Revel quả quyết dứt khoát hơn :" Cách duy nhứt để cải lương xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ nó đi "5 . 1. Đọc Duyên Anh ( La Colline Fanta ), Dương Thu Hương ( Les Paradis Aveugles 1991 và Roman Sans Titre 1992, dịch giả Phan Huy Dương, Arles ), Phạm Thị Hoài (La messagère de cristal,1990, dịch giả Phan Huy Dương, Arles), Nguyển Chí Thiện (Hoa Địa Ngục, The flowers of Hell " ,dịch giả Nguyễn Ngọc Bích, 1996, Tổ hợp xuất bản Miền Đông HK. 2. "Le Chagrin de la Guerre " , BẢO NINH, dịch giả Phan Huy Dương,Editions Philippe Picquier, Arles, Pháp, 1994 và " The Sorrow Of War ", BẢO NINH, dịch giả Phan Thanh Hao,Riverhead Books, NY, 1996. "Nổi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh được Hội Nhà Văn Hànội xuất bản năm 1991 , lần đầu tiên dưới tên " Thân Phận Của Tình Yêu ". Giới truyền thông HK đã so sánh tác phẩm này với " All quiet on the Western Front " của đại văn hào Eric Maria Remarque. 3. Đọc trang 207 - 209 hồi ký MNGLR . Các hình vừa nêu có in nơi trang 213, 214 và 215 của sách .. 4. " Commander Smith, I want my mother out of VN ! I will cooperate with the government if and when I am needed" ( trang 221 . hồi ký MNGLR ). 5. Đọc " De la réversibilité du communisme " của học giả Pháp Jean Francois Revel đăng trong tạp chí Politique Internationale, số 41 , phát hành năm 1988 , Paris. LÂM LỄ TRINH |