Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Trần Thánh Tông (1258 - 1279)

Trần Thánh Tông (1258 - 1279) PDF Print E-mail
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Tư, 02 Tháng 6 Năm 2010 10:20

Trần Thánh Tông (chữ Hán: 陳聖宗; 1240 – 1290); tên thật là Trần Hoảng (陳晃), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần

Trần Thánh Tông
Hoàng đế Việt Nam

 
                                          Vua Trần Thánh Tông
Hoàng đế nhà Trần

Trị vì 1258 – 1279

Tiền nhiệm Trần Thái Tông

Thái thượng hoàng Trần Thái Tông

Kế nhiệm Trần Nhân Tông

Hoàng hậu Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều
[hiện]Hậu duệ

Tên thật  Trần Hoảng (陳晃)
[hiện]Tước vị

Niên hiệu  Thiệu Long (1258 - 1272)
Bảo Phù (1273 - 1278)

Thụy hiệu  Tuyên Hiếu Hoàng Đế
Miếu hiệu Thánh Tông

Triều đại  Nhà Trần

Thân phụ  Trần Thái Tông

Thân mẫu  Hiểu Từ Thuận Thiên Hoàng hậu Lý Thị

Sinh  25 tháng 9 (âm lịch) năm 1240

Mất  25 tháng 5 (âm lịch) năm 1290
Việt Nam

An táng  Dụ Lăng

Trần Thánh Tông (chữ Hán: 陳聖宗; 1240 – 1290); tên thật là Trần Hoảng (陳晃), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua con Trần Nhân Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ 1278 đến khi qua đời. Trong thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với Trần Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.

Thân thế
Trần Hoảng (sách Việt Sử Toàn Thư chép là Khoán)[1] là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông và bà Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị. Ông sinh ngày 25 tháng 9 âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức năm Canh Tý, 1240) và ngay lập tức được lập làm Đông cung thái tử.

Trị vì
Ngày 24 tháng 2 âm lịch niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (năm 1258), Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Hoảng, về làm Thái thượng hoàng. Trần Thánh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ông tôn vua cha là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế. Ông được xem là một vị vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài.[2] Ông thường nói rằng:
 Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quí chung.[3].

Do vậy, trong nội cung khi ăn uống nô đùa không có phân tôn ti trật tự, chỉ lúc nào có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo lẽ phép[3].
Vua Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị[4]. Việc học hành được mở mang: Trần Ích Tắc (em trai Thánh Tông) nổi tiếng là một người hay chữ trong nước nên được cử ra mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy[3].
Ông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Thái Tông, đến năm Nhâm Thân (1271) đời Thánh Tông mới xong[3].
Trần Thánh Tông cho phép vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang[4]. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây. Nhà vua xuống chiếu kén chọn văn học sĩ xung vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức Trung Thư. Theo quy chế cũ: không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây.

Ngoại giao

Quan hệ với Nam Tống

Năm 1258, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ.
Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc[5].
Sau này Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, từ đó mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

Quan hệ với Nguyên Mông
Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…
Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tức là quan Chưởng ấn) để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt. Ý Mông Cổ muốn tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm.
Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để phòng chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.
Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm, Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.
Năm 1272, vua Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.
Năm 1275 Trần Thánh Tông sai sứ sang nói với vua Nguyên rằng:
Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.
Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.
Sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.

Thái thượng hoàng
Năm 1277, thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng 10 âm lịch năm sau (1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là hoàng thái tử Trần Khâm - tức là vua Trần Nhân Tông - lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Trần Nhân Tông nối ngôi tôn ông là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế, tôn Thiên Cảm hoàng hậu (vợ Thánh Tông) làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Bầy tôi dâng tôn hiệu cho ông là Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân hoàng đế.
Trên danh nghĩa là thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính trong bối cảnh chuẩn bị chống xâm lược của Nguyên Mông.
Quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng vua con Nhân Tông đặt hết niềm tin vào người anh họ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, phong làm Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai cuộc chiến chống Nguyên Mông lần 2 và lần 3 thắng lợi có vai trò đóng góp của thượng hoàng Thánh Tông.
Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, ông lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực.
Ngày 25 tháng 5 âm lịch năm Trùng Hưng thứ 6 (Canh Dần, 1290), Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời. Ông làm vua 21 năm, làm thượng hoàng 12 năm, hưởng thọ 51 tuổi, được táng ở Dụ Lăng.
Ngày nay ở trung tâm thành phố Hà Nội có phố mang tên Trần Thánh Tông.

Gia quyến
• Vợ: Thiên Cảm phu nhân Trần thị húy Thiều (?-2/1287), con gái Trần Liễu, sau được phong là Thiên Cảm hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu.
• Con trai
o Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông (1258-1308), con của Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu.
o Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265-1306)
• Con gái:
o Công chúa Thiên Thụy, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch 1308). Lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.

Nhận định
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật “thì không phải phép trị nước hay của đế vương”[6].
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông[6]:
“ Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có viêc giặc Hồ[7] nữa, công to lắm. ”
Thánh Tông là vị hoàng đế hiền tài; đối với anh em họ hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột thịt đối với dân trong nước mở mang kinh tế và việc học hành… Ông lại chỉnh đốn võ bị, chống ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng, dùng kế hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam cộng khổ để đi đến thắng lợi, có thể coi là vua tài đức toàn vẹn[6].