Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Các Nhân Vật Kỷ niệm ngày mất Nguyễn Thái Học (1902-1930)

Kỷ niệm ngày mất Nguyễn Thái Học (1902-1930) PDF Print E-mail
Thứ Hai, 08 Tháng 2 Năm 2010 08:22

  Ngày 9.2.1930, thực dân Pháp treo giải thưởng 5.000 đồng bạc Đông Dương cho ai bắt hoặc giết Nguyễn Thái Học .

 
                Nguyễn Thái Học (1902-1930)
           Sáng lập viên và Đảng trưởng VNQDĐ.
                Thành viên Nam Đồng Thư Xã.

Năm sinh: 1902 (Quý Mão)
Quê quán: làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc).
Thân phụ: cụ Nguyễn Văn Hách.
Thân mẫu: bà Nguyễn Thị Quỳnh, hiệu Diệu Tế.
Em gái: Nguyễn Thị Hiền. Hiện giờ không biết ở đâu.
Em trai: Nguyễn Văn Nho. Bước lên máy chém trước cổng Hỏa Lò, Hà Nội, cùng với người chú Nguyễn Quang Triều, Ký Con Đoàn Trần Nghiệp và 4 người khác cuối năm 1930.
Em Trai: Nguyễn Văn Lâm. Vạch ngực cho Pháp bắn dưới cây dâu già, trong sân nhà ngày 19 tháng 11 năm 1947.
Em trai: Nguyễn Văn Nỉ. Tham gia VNQDĐ năm 1945, theo học nhiều lớp quân, chính của Đảng. Đầu năm 1948, bị tấn công phải rút sang Trung Hoa. Hiện giờ không biết ở đâu.
Cháu trai: Nguyễn Thái Tuấn - con của Nguyễn Văn Lâm. Là cháu trai độc nhất của Nguyễn Thái Học. Hiện giờ không biết ở đâu.

Nguyễn Thái Học Và Một Con Đường Yêu Nước

Ngày 25.12.2007, tròn 80 năm thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng, một phong trào yêu nước do Nguyễn Thái Học (1902-1930) lãnh đạo. Cho dù cuộc Khởi nghĩa Yên Bái nhằm giành độc lập từ tay người Pháp, tháng Hai năm 1930, do đảng này phát động đã thất bại cùng với cuộc đời ngắn ngủi của người anh hùng dân tộc, nhưng đó là một dấu son không thể nào bôi xóa trong lịch sử dựng và giữ nước suốt 4.000 năm qua. Nó cũng cho thấy rằng yêu nước luôn có nhiều con đường khác nhau, và con đường nào cũng là con đường đáng tôn vinh.

Không tránh khỏi sẽ có ý kiến cho rằng con đường yêu nước nào cũng đáng tôn vinh nhưng đáng nói là đâu là con đường chân chính và đâu là con đường hiệu quả. Đúng như vậy!

Đâu là con đường chân chính? Ngoại trừ yêu nước bằng con đường bán… đất (để) giữ.. nước - có ở nhiều thời đại khác nhau, mà lịch sử đã và sẽ luôn đưa ra những phán xét cuối cùng - không dành bất kỳ sự loại trừ nào, thì không thể nói con đường nào chân chính hơn con đường nào hay con đường nào đó tự dành cho mình sự chân chính tối cao mà đi triệt tiêu (những) con đường khác. Hủy diệt lòng yêu nước của người khác với mình, con đường yêu nước khác với con đường của mình, thì dù có biện hộ thế nào, đó cũng là một hành xử của “chủ nghĩa phi yêu nước”.

Chân chính hay không chân chính còn liên quan đến chính hiệu quả của một con đường. Tuy nhiên, hiệu quả cũng có những cấp độ khác nhau: nhất thời, lâu dài, trường cữu (cũng theo nghĩa tương đối về cấp độ thời gian mà thôi), hay hiệu quả thật, hiệu quả ảo, v.v…. Hiệu quả của một con đường phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng cái hiệu quả mang bản chất thật của nó hay cái hiệu quả có được từ ngôn từ hoa mỹ và sức mạnh áp đặt, dẫu lịch sử vẫn là nhân tố phán xét cuối cùng, thì chưa đợi thành “lịch sử”, thực tế cũng sẽ nhanh chóng có câu trả lời.

Cái hiệu quả nhất của một con đường yêu nước không phải là ở sự bất biến - mọi sự bất biến đều là sai lầm, ảo tưởng và hoàn toàn phi biện chứng; mà ở việc nhận diện xác đáng lịch sử và hiện thực để có những chuyển biến tương ứng, nhằm đáp ứng cao nhất những giá trị chính trị của con người và dân tộc. Vì sao là giá trị chính trị? Đơn giản, yêu nước trước hết phải là - và luôn là - một khái niệm chính trị. Nếu muốn xét nó như một khái niệm đạo đức hay khái niệm kinh tế thì vẫn phải đặt sau tư cách khái niệm chính trị đó.

Giá trị chính trị của con người, suy cho cùng, vẫn nằm ở vấn đề về quan hệ quyền lực giữa con người với nhà nước, tức giữa con người với tổ chức chính trị cao nhất của họ; và liên quan mật thiết từ đó, là vấn đề về phẩm giá của con người trong quan hệ với nhà nước, tức tương quan giữa quyền con người với cái quyền lực nhận sự ủy thác của họ. Và như vậy, rốt cuộc, tất cả đều xoay quanh thể chế chính trị.

Giá trị chính trị của dân tộc, cũng suy cho cùng, nằm ở nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của nó. Nhà nước ra đời và tồn tại có nguyên nhân giai cấp không? Có! Nhưng trước hết, xét về cả lịch sử lẫn thực tế dưới nhiều thời đại, nguyên nhân đầu tiên để con người tự nguyện đến với nhau như một xã hội chính trị và giao một phần quyền lực chính trị của mình cho tổ chức cao nhất của xã hội đó, là ở chỗ tổ chức đó - tức nhà nước - bảo đảm cho mọi thành viên sự an ninh về mặt xã hội và sự an toàn về lãnh thổ. Không thực thi được vai trò này, thực thi không hiệu quả, hoặc thực thi điều ngược lại, thì mọi nhà nước, cho dù là nhà nước “thần thánh” nào đó, cũng hoàn toàn mất đi tính chính danh của nó, vì - cũng đơn giản, nói như đời thường - khi anh không làm được điều mà người ta cần đến ở sự tồn tại được uỷ thác của anh, thì anh có để làm gì, thì anh nhận sự uỷ thác để làm gì?!

Quay về với Nguyễn Thái Học.

 
 Lá cờ của Việt Nam Quốc Dân Đảng

Với tiêu chí bảo an và dân tộc, Nguyễn Thái Học chủ trương đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc. Không ai có thể bác bỏ sự yêu nước này.
Còn tiêu chí về thể chế chính trị, với ông, yêu nước là yêu nền Cộng hòa và thể chế Dân chủ. Cũng không ai có thể bác bỏ được, cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn. Suốt tiến trình nhân loại, từ cổ đại đến nay, ở khả năng chính trị hiện thời mà con người có được, hình thức nhà nước hiệu quả nhất - đã được minh chứng - vẫn là nhà nước tổ chức theo lối Cộng hòa và dưới một thể chế Dân chủ.

Những điều kiện khách quan và chủ quan thời đó đã khiến con đường yêu nước của Nguyễn Thái Học trở thành con đường không hiệu quả. Nhưng thất bại lịch sử đó không thể bác bỏ tính trường tồn của con đường này một khi các thể chế chính trị trên thế giới vẫn vận động theo đường hướng đó, một khi ngay cả Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng lấy Cộng hòa làm tiêu chí đầu tiên, và một khi chính nhà nước này nay cũng vận động trong một nền kinh tế thị trường, đồng thời chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền và một xã hội dân chủ. Vấn đề còn lại - nhưng lại cốt tử vì mang tầm hiệu quả, xuất phát từ thực chất - là nhận thức về nhà nước pháp quyền đó đến đâu và nền dân chủ này được thực thi sao. Nếu là nhà nước pháp quyền một nửa và dân chủ một nửa, thì đều mang bản chất ngược lại với chính những từ ngữ đó!

Nguyễn Thái Học - Vị lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng, một trí thức yêu nước bất khuất
 

 
                                           Tôn chỉ Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học là con cả của một gia đình trung nông thuộc làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Thổ Tang vốn là một làng trù phú, dân làng vừa làm ruộng, vừa buôn bán nên nhìn chung đời sống kinh tế tương đối khá hơn các làng lân cận.

Thuở nhỏ, Nguyễn Thái Học được gia đình cho học chữ Hán. Sau đó ông theo học trường phổ thông Pháp - Việt tại tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Ngay từ lúc mới 15, 16 tuổi Nguyễn Thái Học thường được thế hệ cha anh kể cho nghe chuyện về Đội Cấn và một số phong trào chống Pháp nên đã sớm giác ngộ lòng yêu nước. Ông ngầm nuôi ý chí đánh đổ chế độ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc và trả thù rửa hận cho các chiến sĩ yêu nước đã bị thực dân Pháp giết hại.

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tiểu học, năm 1921, Nguyễn Thái Học thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian gần 3 năm học ở trường này, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt, miệt thị người bản xứ của một số giám thị và giáo viên người Pháp. Trùm mật thám Louis Marty từng nhận xét: "Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh, hay cãi lại thầy giáo".

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm (1924), Nguyễn Thái Học có tham dự kỳ thi tuyển công chức của chính quyền thực dân, nhưng sau khi thi đỗ ông lại không nhậm chức mà nộp đơn xin học Trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương. Trong thời gian Nguyễn Thái Học học tập tại Đại học Đông Dương (1925 - 1927) đã diễn ra nhiều chuyển biến rất quan trọng trong phong trào yêu nước Việt Nam. Trước đó, từ cuối năm 1923 những bài diễn thuyết sục sôi của Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, rồi tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rè) của ông đã góp phần mạnh mẽ thức tỉnh tinh thần yêu nước của thanh niên, sinh viên cả nước. Năm sau, ngày 19.6.1924 tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái trong cuộc mưu sát hụt toàn quyền Đông Dương Martial Merlin và tấm gương hy sinh dũng cảm của người thanh niên yêu nước này đã làm chấn động toàn cõi Việt Nam, thúc giục các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên hăng hái dấn thân vào con đường cứu nước.

Tháng 11.1925, mật thám Pháp bí mật bắt cóc Phan Bội Châu tại Thượng Hải. Chúng đưa cụ về giam ở Hoả Lò (Hà Nội), định bí mật thủ tiêu. Khi tin tức về sự kiện này lọt ra ngoài, lập tức một phong trào đấu tranh sục sôi của nhân dân cả nước đã bùng nổ, đòi thực dân Pháp phải đưa cụ Phan ra xét xử công khai và cuối cùng, phải tuyên bố ân xá nhà yêu nước lão thành này. Đầu năm sau, Phan Chu Trinh, một lãnh tụ lớn khác của phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XX, đã trở về Sài Gòn sau nhiều năm lưu trú ở nước ngoài. Ngày 24.3.1926 Phan Chu Trinh tạ thế ở Sài Gòn. Ngay sau đó, một phong trào để tang cụ được nhân toàn quốc hưởng ứng mạnh mẽ.

Cũng trong những năm này ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng Trung Quốc, đặc biệt là học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn cũng dội mạnh vào Việt Nam và được nhiều thanh niên, trí thức nhiệt liệt đón chào. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về tới Quảng Châu (Trung Quốc) liên lạc với nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm xã và lập ra Hội Việt Nam Kách mệnh Thanh niên (6.1925), ra tờ báo Thanh niên kêu gọi thanh niên trí thức yêu nước hăng hái đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đập tan gông xiềng nô lệ thực dân, giải phóng dân tộc.

Trong bối cảnh đó, hàng nghìn thanh niên, trí thức đã hăng hái dấn thân, tham gia tích cực vào các hoạt động yêu nước. Nguyễn Thái Học là một trong những người sớm tham gia tích cực và đi đầu trong làn sóng đấu tranh đó. Ngay khi còn đang là sinh viên Đại học Đông Dương, cuối năm 1926, cùng với một số thanh niên trí thức yêu nước khác như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch v.v., ông đã lập ra Nam Đồng thư xã ở Hà Nội. Cũng giống như Cường học thư xã của nhóm thanh niên yêu nước do Trần Huy Liệu đứng đầu lập ra ở Sài Gòn, Nam Đồng thư xã vừa giống như một nhà xuất bản, một hiệu sách đồng thời như một nhóm biên soạn, tập trung vào việc biên soạn, dịch thuật, phát hành sách báo phổ biến các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng Tôn Trung Sơn, ca ngợi các tấm gương nghĩa liệt, những anh hùng cứu quốc là người Việt Nam và nước ngoài. Thông qua đó, Nam Đồng thư xã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp, và trên thực tế Nam Đồng thư xã đã trở thành một trong những nơi quy tụ thanh niên, trí thức yêu nước ở Bắc Kỳ.

Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Thái Học đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varrenne một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho A. Varrenne vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông, và ông ta không bao giờ quan tâm, trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.

Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp, sau đó tự mình tiến hành công cuộc kiến thiết đất nước. Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng thư xã khẩn trương chuẩn bị để lập ra một tổ chức yêu nước bí mật. Ông đành thôi học và dành toàn bộ thời gian cho việc chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho công cuộc cứu nước mới.

Sau một thời gian chuẩn bị, đêm ngày 24.12.1927 một hội nghị đã được tổ chức tại Hà Nội với nòng cốt là nhóm Nam Đồng thư xã, đã quyết định lập ra Việt Nam Quốc dân Đảng. Nguyễn Thái Học được Hội nghị bầu làm Chủ tịch đảng.

Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Quốc dân Đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển cơ sở trong các tầng lớp dân chúng trên cả nước, nhất là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Đảng đã liên lạc và sáp nhập thêm tổ chức Việt Nam dân quốc ở Bắc Giang do Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu. Gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng còn có thêm các nhóm nhân sĩ và trí thức yêu nước ở Bắc Ninh do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức, nhóm khác ở Thanh Hoá do Hoàng Văn Đào đứng đầu, một nhóm ở Thái Bình do Hà Đình Điển tổ chức và một nhóm ở Sài Gòn do Trần Huy Liệu đứng đầu. Cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân Đảng phát triển tương đối nhanh trong năm 1928 và đầu năm 1929, thu hút hàng nghìn thanh niên trí thức, công chức và binh lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp. Việt Nam Quốc dân Đảng cũng cử người bắt liên lạc với Hội Việt Nam Kách mệnh Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng để bàn thảo việc thống nhất về tổ chức và phối hợp hoạt động vì mục đích giải phóng dân tộc.

Trong quá trình hoạt động, nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng đã bị ảnh hưởng của tư tưởng anh hùng cá nhân, phiêu lưu, mạo hiểm. Ngày 9.2.1930, nhóm đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở Hà Nội đã tổ chức ám sát trùm mộ phu đồn điền Bazin làm chấn động dư luận Pháp, khiến cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương hoang mang. Để đối phó, thực dân Pháp đã mở một chiến dịch đàn áp, truy quét gắt gao các chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Do tổ chức khá lỏng lẻo, cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân Đảng bị đánh phá nghiêm trọng, hàng trăm đảng viên bị bắt hoặc bị giết. Riêng đối với Nguyễn Thái Học, linh hồn của Việt Nam Quốc dân Đảng, thực dân Pháp treo giải thưởng 5.000 đồng bạc Đông Dương cho ai bắt hoặc giết được ông.

Trong tình hình khẩn trương như vậy, tại Hội nghị lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng ngày 1.7.1929, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định không thể ngồi chờ thực dân Pháp lùng bắt, giết hại, phá tan đảng, mà phải gấp rút chuẩn bị và tiến hành một cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang" để một mặt đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước trong dân chúng, củng cố uy tín của đảng, và nếu có thất bại thì "Không thành công cũng thành nhân".

 
                                          Việt sử ca Nguyễn Thái Học

Với tinh thần quyết tử, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí, trong đó có bà Nguyễn Thị Giang, người vợ vừa đính hôn của ông, dồn tâm sức chuẩn bị cho một cuộc vùng lên quyết liệt. Các cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức chuẩn bị vũ khí, đúc bom tự tạo, mua súng, tiến hành binh vận. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng tung hết lực lượng mật thám ra truy lùng, cài gián điệp vào các cơ sở của đảng, quyết tâm bắt hoặc giết bằng được Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và bộ chỉ huy đầu não của Việt Nam Quốc dân Đảng, hòng dập tắt cuộc bạo động từ trong trứng nước.

Được tin Việt Nam Quốc dân Đảng đang nỗ lực chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang trong điều kiện khách quan chưa chín muồi, Nguyễn Ái Quốc, khi đó đang hoạt động ở Bắc Xiêm (Thái Lan) lập tức lên đường đi về nam Trung Quốc để tìm cách bắt liên lạc, bàn với Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng hoãn cuộc bạo động lại, nhưng không kịp.

Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9.2.1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15.2. Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10.2.1930. Quyết liệt nhất là cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái. Quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày.

Do không có sự phối hợp với các cuộc nổi dậy ở địa phương khác, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Tuy vậy, ngày 15.2.1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương).

Thực dân Pháp quyết định dùng vũ lực tối đa để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng và khủng bố tinh thần yêu nước của dân chúng. Chúng tung toàn bộ lực lượng mật thám, quân đội, bảo an ra lùng sục, càn quét, hòng bắt giam và giết hại các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng. Chúng còn cho 5 chiếc máy bay đến ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền thực dân của một cường quốc phương Tây phải sử dụng tới máy bay chiến đấu để đàn áp một cuộc nổi dậy của dân chúng bản xứ.

Được sự che chở của quần chúng yêu nước, Nguyễn Thái Học vẫn thoát khỏi sự truy lùng ráo riết của thực dân Pháp. Cùng với một số yếu nhân còn lại của Việt Nam Quốc dân Đảng ông bàn bạc và dự định cải tổ lại đảng và thay đổi phương hướng chiến lược của Đảng. Chính vào lúc công việc này mới được khởi động thì ngày 20.2.1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ông bị Hội đồng Đề hình thực dân kết án tử hình ngày 23.3.1930. Ngày 17.6.1930, thực dân Pháp đã hành quyết Nguyễn Thái Học và 12 chiến sĩ khác của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Yên Bái bằng máy chém. Trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Học còn cố hô to "Việt Nam vạn tuế!"

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng tuy thất bại nhưng thực sự là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Với tư cách là người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học thực sự là một trong những người tiêu biểu nhất thuộc lớp trí thức Tây học sớm dấn thân, xả thân cứu nước trong nửa đầu thế kỷ XX. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông trở thành một nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ các thế hệ thanh niên trí thức yêu nước sau này trong cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt lâu dài vì độc lập và tự do của tổ quốc. Nguyễn Thái Học "không thành công" nhưng đã thực sự "thành nhân". Ông được Nhà nước Việt Nam công nhận là liệt sĩ (24.2.1976) và tên của ông được đặt cho một trong những con phố lớn tại Sàigòn cũng như Hà Nội.