Home Lịch Sử VN Chiến Tranh VN Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger

Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger PDF Print E-mail
Tác Giả: Đỗ Kim Thêm   
Chúa Nhật, 28 Tháng 11 Năm 2010 16:18

“…Năm 1968, chính Richard Nixon và các đặc sứ của ông đã cố tình phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hứa hẹn bí mật với giới lãnh đạo Nam Việt Nam…”

Giới thiệu sách:  Chistopher Hitchens, The Trials of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001.

Đại ý:

Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam là một đề tài bất tận.

Lúc chiến tranh còn khốc liệt đã có những trí thức ngoại quốc tên tuổi như Jean Paul Sartre, Bertrand Russell và Noam Chomsky lên tiếng kêu gọi thành lập tòa án quốc tế nhằm xét xử sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Khi chiến tranh kết thúc thì vấn đề này không còn ai quan tâm, phần lớn các tác phẩm xoay quanh chủ đề Việt Nam đều nói về sự sai lầm của Hoa Kỳ. Nhưng có một ký giả đã đặt lại vấn đề này và tự nhận mình có trách nhiệm như một thẩm phán công tố và lập hồ sơ để truy tố một nhân vật đã gây tội ác trong chiến tranh Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới.

Thủ phạm được gọi đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người đã ký kết Hiệp Định Paris. Tội danh được cáo buộc là: tội ác gây chiến tranh, tội ác chống nhân loại, đặc biệt qua các vụ âm mưu tạo phản loạn, mưu sát, bắt cóc và tra tấn.

Với các tội danh này tác giả yêu cầu Toà Án Quốc Tế phải xét xử đương sự. Đó chính lá nội dung chủ yếu của cuốn sách được giới thiệu trong bài viết này.

Tác giả:

Chistopher Hitchens là một ký giả Hoa Kỳ gốc Do Thái, chuyên về săn tin điều tra và viết bình luận cho tờ The Nation và The Harper Magazine tại Hoa Kỳ. Ông nổi tiếng qua các loạt bài về phóng sự đìều tra nhắm vào mặt trái của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công chúa Diana và Tổng Thống Clinton.

altTác giả Christopher Hitchens
 
Nội dung tác phẩm:

Tác phẩm gồm có 14 chương nhưng không đánh số thứ tự. Phân loại theo nội dung thì gồm có phần nhập đề, 10 đề tài, phần kết luận và phần cảm tạ.

Phần nhập đề:

Tác giả tự nhận mình là một đối thủ chính trị của Henry Kissinger và muốn buộc ông ta trong những tội trạng như sau:

1. Cố ý giết người thường dân tại Đông Dương (gồm 3 chuơng)
2. Đồng lỏa tàn sát tập thể tại Bangladesh (1 chuơng)
3. Chủ mưu giết một nhân viên cao cấp trong chính phủ Chí Lợi (2 chương)
4. Chủ mưu và tham dự vào việc giết một lãnh tụ của Cyprus (1 chương)
5. Chủ mưu và thực hiện tội diệt chủng tại East Timor (1 chương)
6. Tham gia vào kế hoạch bắt cóc và giết một ký giả người Hy Lạp sống tại Washington D.C. (2 chương)

Chương 1 tiết lộ các bí mật trong hậu trường chính trị Hoa Kỳ vào năm 1968, mặc dù các chính phủ liên tiếp được giữ kín.
 Bí mật đó là: Vào mùa thu 1968 trong thời kỳ tranh cử, chính Richard Nixon và các đặc sứ của ông đã cố tình phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hứa hẹn bí mật với giới lãnh đạo Nam Việt Nam là chính quyền của Đảng Cộng Hoà (nếu thắng cử) sẽ tạo vị thế thuận lợi cho Nam Việt Nam hơn là chính phủ của Đảng Dân Chủ.

Hậu quả là Nam Việt Nam đã tin theo và tẩy chay Hoà đàm Paris khi triển vọng ký kết sắp thành hình. Những đề nghị hòa đàm do Đảng Dân chủ đưa ra bị phá vỡ.

Vào đúng bốn năm sau chính Richard Nixon cũng đã dùng các điều kiện này của Đảng Dân Chủ để vận động lại hòa bình cho Việt Nam. Hậu quả tàn khốc của kế hoạch này là cuộc chiến kéo dài thêm 4 năm nữa với số tổn thất 20.000 người Hoa Kỳ và vô số người Đông Dương. Theo suy luận của tác giả, tất cả đều nằm trong dụng ý của Henry Kissinger.

Những bằng chứng về lời cáo buộc này được tác giả nêu ra:

- Thứ nhất là những tin tức trích ra từ nhật ký của H. R. Haldeman, Diary of Haldeman, một cộng sự viên của Richard Nixon và Henry Kissinger, người phụ trách việc lập các biên bản. Tài liệu này được công bố vào tháng 5 năm 1994.

- Một tài liệu thứ hai là cuốn sách Counsel to the President: A Memoir của Clark Clifford, Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Sách được ấn hành năm 1991.Theo Clifford xác nhận thì vào thời điểm này đã có sự gặp gỡ bí mật giữa Tổng Thống Thiệu và John Mitchell, Giám Đốc Tranh Cử của Richard Nixon. Ông Mitchell được Bà Anna Chennault (Trần Hương Mai - 陳香梅), một lobbyist của Đài Loan làm trung gian hỗ trợ.

- Tài liệu thứ ba là Hồi ký của Richard Nixon, The Memoirs of Richard Nixon. Ông xác nhận giữa tháng 9/1968 ông được tin riêng là Johnson sẽ ra lệnh ngưng dội bom đề tạo điều kiện cho Bắc Việt vào Hội nghị. Điều này không làm ông ngạc nhiên.

Henry Kissinger báo cho ông biết là lệnh ngưng dội bom sẽ công bố vào 23/10. Nhưng từ tháng 6/1968 Nixon qua trung gian của bà Anna Chennault đã gặp riêng Đại Sứ Bùi Diễm tại New York.

- Tài liệu thứ tư là điện văn của Đại Sứ Bùi Diễm gởi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 23/10/1968. Ông Bùi Diễm cũng yêu cầu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên giữ vững lập trường, vì ông đã được Đảng Cộng Hoà xác nhận ủng hộ miền Nam.

Qua các tài liệu nghe lén từ Toà Đại Sứ và theo dõi hoạt động của bà Anna Chennault đươc phổ biến sau này cho thấy rõ vấn đề hơn: Cứ mỗi lần phe Bắc Việt Nam có thiện chí ký kết thì chính phe Nam Việt Nam lại ngã giá, đặt điều kiện cao hơn.

- Tài liệu thứ năm là cuốn sách của Anthony Summers, The Arrogance of Power: The Secret World of Richard Nixon, xuất bản năm 2000. Đây là một tổng hợp các hồ sơ nghe lén của Richard Nixon, trong đó có chiến dịch tranh cử năm 1968.

Qua hồ sơ của một điệp viên ngày 02/11/1968 thì bà Anna Chennault gặp Đại sứ Bùi Diễm để xác nhận sự ủng hộ của Richard Nixon và yêu cầu phía Nam Việt nam phải giữ vững lập trường. Richard Nixon tin rằng Nam Việt Nam sẽ thắng.

Trong thời kỳ này Henry Kissinger nằm trong bóng tối và điều động từ hai phía. Một mặt ông đưa tin mật ra bên ngoài, một mặt ông tình nguyện cung cấp tin này cho Nelson Rockefeller để tùy nghi khai thác.
Ông cũng nói cho Zbignew Brzezinski biết là ông ghét Richard Nixon từ lâu và không tin Nixon thắng cử. Mặt khác ông sử dụng Anna Chennault và John Mitchell trong các điệp vụ ngoại giao riêng của ông.

Điều này tạo một ấn tượng chung lúc bấy giờ là Richard Nixon không liên hệ gì đến những vụ dội bom Bắc Việt và mọi diễn tiến đều diễn ra từ phía Đảng Dân Chủ. Ông cũng cố tình cho thấy là chính ông cũng không biết gì vấn đề này.

Cuối chương sách tác giả đề cập tới vai trò của Henry Kissinger trong cái gọi là "40 Committee". Đây là một tổ chức nhằm nghe lén và kiểm soát các hoạt động tình báo tại hải ngọai được thành lập từ thời Tổng Thống Truman.
Trong cuộc điều tra của Thượng Viện năm 1973, Giám Đốc CIA William Colby cũng xác nhận có tổ chức này và cho biết Henry Kissinger chịu trách nhiệm điều hành, đặc biệt Kissinger nới rộng hoạt động tới các phạm vi tình báo quốc nội, điều mà trước đây luật pháp không cho phép.

 

Chiến tranh Việt Nam
 
Chương 2 nói tới hoạt động của Henry Kissinger tại Đông Dương.

Vào giữa thập niên 60 khi mọi người vẫn lạc quan cho cuộc chiến là có ý nghiã và phần thắng nghiêng về phiá miền Nam thì ông bắt đầu nghi ngờ khả năng của phe Nam Việt Nam sau lần đi thăm Việt Nam về.

Ông đã âm thầm tiếp xúc với Bắc Việt qua trung gian hai người Pháp là Raymond Aubrac, một công chức nguời Pháp và là bạn của Hồ Chí Minh và Herbert Marcovitch, một nhà Vi Sinh Vật Học của Viện Pasteur, đã đi Hà Nội nhiều lần.

Qua tin tức cung cấp từ hai người Pháp này ông đã đặc biệt tìm hiểu về khả năng và vị thế thương thuyết của từng nhà lãnh đạo miền Bắc.
Ông cũng đưa tin này cho Robert McNamara. Song song với công việc này, ông cũng xúc tiến việc xích lại gần nhau của các siêu cường.

Dù trong kế hoạch của Việt Nam hay quốc tế, ông luôn luôn có ý niệm chung: tất cả đều là phương tiện trong mục tiêu của cá nhân ông, có lúc ông chú trọng mục tiêu này và sao lãng mục tiêu kia.

Tác giả nêu lại cơ hội tái lập hoà bình để lỡ của năm 1968 làm thí dụ điển hình. Theo lời khai của Averell Harrimann, Trưởng Phái đoàn Thương thuyết tại Hòa Đàm Paris thì tháng 10 và 11/1968 có 90% các lực lượng chiến đấu của miền Bắc đã rút khỏi ra hai tỉnh phía Bắc Nam Việt Nam, như Hiệp định dự kiến, còn việc ngưng dội bom miền Bắc chỉ là một điểm của Hiệp Định mà thôi. Tháng 12/1968 chính là thời kỳ chuyển tiếp từ chính quyền Johnson sang Nixon.

Giới lãnh đạo quân sự tại Hoa Kỳ lại thay đổi chiến lược triệt để. Tướng Creighton Abrams đồng ý mở một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm phá hoại mọi hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại miền Nam, điển hình là chiến dịch hành quân càng quét tại Kiến Hoà trong 6 tháng đầu năm 1969, mà người Hoa Kỳ gọi là Operation Speedy Express.

Qua tài liệu của Haldeman thì Henry Kissinger chú tâm tới kết quả cuộc bầu cử 1972 tại Hoa Kỳ hơn là việc rút quân để giải quyết chiến tranh Việt Nam. Trong hồi ký của ông Henry Kisssinger, ông cũng xác nhận là sự rút quân đột ngột gây khó khăn về uy tín cho Hoa Kỳ. Sự can thiệp của Charles De Gaulle về vấn đề dội bom miền Bắc không gây ảnh hưởng gì đến Henry Kissinger, vì lúc bấy giờ ông quan tâm tới ý kiến của Brezhnev và Mao Trạch Đông hơn.

Một tội trạng khác được nêu lên là vụ ném bom miền Bắc vào mùa Giáng Sinh 1972. Bây giờ là mùa tranh cử tại Hoa Kỳ bắt đầu.

 Theo tác giả, quyết định dội bom không phải là có tính cách quân sự thuần túy mà vì lý do chính trị. Ông chứng minh, một mặt Hoa Kỳ chứng tỏ cho thấy thế mạnh của mình để gây hậu thuẫn cho Đảng Cộng Hòa trong trong Quốc Hội và đưa phe Dân chủ về phía thụ động, mặt khác muốn gây niềm tin cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thấy là không nên sợ hãi trước việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.

Tội trạng liên quan đến Kambodia được tác giả nêu lên ở cuối chương. Đúng ngày 12/05/1975 là ngày Khmer Đỏ chiếm chính quyền thì một tàu chiến Kambodia đã kéo theo một tàu hàng của Hoa Kỳ tên là Mayaguez. Tàu này nằm trong lãnh hãi của Kambodia và được kéo về đảo Koh Tang.

Mặc dù được biết tin là thủy thủ đoàn đã được trả tự do, Henry Kissinger cũng cố tình làm áp lực lên Henry Ford, Tổng Thống kế nhiệm thiếu kinh nghiệm, một biện pháp trả đũa để giữ thể diện.

Kết quả cuộc tấn công này là trong 110 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có đến 18 người chết và 50 nguời bị thương; phía Không Quân tham dự có 23 quân nhân tử trận. Hoa Kỳ đã thả 680 tấn bom trên đảo này và không ai biết được con số thương vong của người dân vô tội Kambodia một cách chính xác.

 Trong một cuộc điều tra tại Quốc Hội cho thấy Henry Kissinger ít nhất phải biết được tin thủy thủ đoàn đã được thả trước khi có quyết định can thiệp.

Chương 3 là trọng điểm của cuốn sách đuợc tác giả dùng để tổng hợp tội trạng của Henry Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.

Khởi đầu tác giả sử dụng cuốn sách Nuremberg and Vietnam: an American tragedy của Tướng Telford Taylor để làm tài liệu phân tích.

Theo Taylor, thì những nguyên tắc luật pháp áp dụng tại Tòa Án Quốc Tế Nürnbeg và Tokyo cũng nên áp dụng cho trường hợp Việt Nam. Bản án Nürnberg đã được Liên Hiệp Quốc chuẩn nhận ngày 11/12 /1946 và trở thành nguyên tắc Luật Quốc Tế sau này.

Như vậy Hoa Kỳ cũng phải tôn trọng nguyên tắc này khi tham chiến tại Việt Nam. Những bị cáo cũng có thể lập luận rằng mục tiêu chiến đấu của chiến tranh Việt Nam là danh dự và cao cả; những người có trách nhiệm đều vô tội, vì không ai có thể lường trước được những kết quả tàn khốc của một cuộc chiến lan rộng và một phần khác là thiếu thông tin chính xác.
Cũng theo Telford Taylor thì lập luận này có thể được chấp nhận được cho đến giữa thập niên 60.

Từ sau vụ thảm sát Mỹ Lai 16/03/1968 không ai có thể cho là mình không biết đến mức độ vô nhân đạo trong các cuộc tàn sát khi chiến tranh đã leo thang lên cao điểm.

Một lập luận khác của William Corson, Đại Tá Hoa Kỳ, cũng nêu lên để phản chứng. Theo William Corson, sự khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam không có yếu tố hình sự để buộc tội, đó chỉ là sự ước lượng sai lầm của giới lãnh đạo Hoa Kỳ từ đầu đến cuối sự tham chiến.

Lập luận này không được Telford Taylor chấp nhận. Ông nêu lên những đặc điểm trong chiến tranh Việt Nam, điều mà người ta không thể so sánh với các cuộc chiến tranh trước đây.

Một mặt những vũ khí được trang bị tại Việt Nam rất hiện đại và di động, mặt khác phương tiện truyền thông từ Hoa Kỳ đến Việt Nam cũng như từ trung ương đến hạ tầng được bảo đảm. Một điều có thể suy đoán được là Henry Kissinger và Tướng Creighton Abrams phải biết được tầm mức lan rộng chiến tranh đến thường dân vô tội và họ ít nhất phải được thông báo đầy đủ về vấn đề này.

Theo tài liệu của John Mc Naughton, Đại Diện Bộ Quốc Phòng, cho thấy giới lãnh đạo Toà Bạch Ốc vào năm 1967 chỉ muốn một phương cách duy nhất để quét sạch Việt Cộng bằng cách đốt nhà dân chúng, phá hết rừng rậm và tráng nhựa lại hết toàn bộ miền Nam.

Một bằng chứng khác là cuộc Hành Quân Bình Định Nông Thôn tại Kiến Hòa vào sáu tháng đầu năm 1969. Tài liệu của Kevin Buckley, Trưởng Văn phòng Tuần báo Newsweek tại Sài Gòn cho thấy Henry Kissinger có tiếng nói quan trọng trong quyết định này.

Theo Kevin Buckley thì tổng số thương vong của cộng quân trong cuộc hành quân này là 10.899 người, nhưng bằng chứng khác cho thấy số thương vong của dân chúng lên trên 5.000 người, vượt qua hẳn con số của vụ Mỹ Lai.

Một câu hỏi được đặt ra là từ đâu có những con số này thì một sĩ quan Sư Đoàn 9 Không Kỵ Hoa Kỳ trả lời là: các trực thăng có thể đếm các xác của kẻ thù không có vũ khí này từ trên những cánh đồng.

Một nghịch lý khác được tác giả nêu lên là so với gần 11.000 người chết mà số vũ khí tịch thu được chỉ có 748. Theo ước lượng của tác giả thì cuộc hành quân này mức độ khốc liệt hơn Mỹ Lai nhiều.

Tác giả trưng dẫn một tài liệu khác của Tad Szulc qua cuốn sách The Illusion of Peace: Foreign Policy in the Nixon Years . Theo đó thì chính Henry Kissinger đã có lần đề nghị sử dụng bom nguyên tử để phá hoại đường tiếp tế Hoa-Việt và một lần khác nhằm phá hệ thống đê điều của miền Bắc. Nhưng đề nghị này đã không được chấp thuận.

Vấn đề dội bom Kambodia cũng được đặt ra. Theo tác giả thì không có một căn bản pháp lý nào cho việc nới rộng chiến tranh này cũng như một đảm bảo an toàn nào cho các thường dân.

Các tài liệu của Toà Bạch Ốc và Bộ Quốc Phòng cho thấy là trong quyết định oanh tạc sang Kambodia và Lào, tổn thất các nạn nhân vô tội được dự kiến trước. Theo tác giả có it nhất 660.000 thường dân tại Kambodia và 350.000 tại Lào phải hy sinh oan uổng.

Trong Hồi ký của Henry Kissinger ông có đề cập tới vấn đề này và cho là lệnh dội bom đến từ nhiều cơ quan khác nhau và điều này có thông báo cho Quốc Vương Sihanouk biết trước.

Theo tác giả thì chính Henry Kissinger góp phần quan trọng vào vấn đề này và ông đã theo dõi chặt chẽ diễn tiến các cuộc oanh tạc Kambodia. Không thể nào lập luận rằng ông không có ý thức sự nguy hiểm của quyết định này.

Sự chấp thuận của Quốc Vương Sihanouk, nếu có, cũng không giải tội cho Henry Kissinger được. Những người trong cuộc như Robert McNamara, George Bundy và William Colby đã chính thức lên tiếng hối lỗi và cố gắng giải thích vấn đề. Còn Henry Kissinger thì tuyệt nhiên cho đến nay không có những phản ứng gì tương tự.

Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm xác người Việt để báo cáo lấy thành tích, điều mà họ không phân biệt thường dân hay quân nhân. Một thí dụ được nêu lên để minh chứng là số tử thương chính thức từ tháng 03/1968 cho đến tháng 02/1972: Hoa Kỳ: 31.205, Nam Việt Nam: 86.101 và đối phương: 475.609.

Cũng nên biết là trong thởi kỳ này Hoa Kỳ đả bỏ 4.500.000 tấn chất nổ xuống Đông Dương. Theo ước lượng của Thượng Viện Hoa Kỳ thì ít nhất có trên ba triệu thường dân thiệt mạng.

 Một con số khác được CIA đưa ra là chỉ có 35.708 thường dân bị bắt cóc và giết chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, cũng là điểm đáng nghi ngờ. Những con số này được Henry Kssinger đưa ra để phần lừa dối, phần dấu nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc Hội. Tác giả đã trích dẫn Nhật ký của Haldeman để dẫn chứng sự kiện này ở cuối chương sách.

Chương 4 nhằm cáo giác tội diệt chủng và âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger tại Bangladesh.

Tháng 12/1970 phe quân phiệt Pakistan cho phép bầu cử tự do. Kết quả là phe Sheikh Mujibur Rahman thắng cử dễ dàng và chiếm đa số ghế trong Quốc Hội.

Theo dự kiến thì ngày 03/03/1971 Quốc Hội sẽ triệu tập phiên họp đầu tiên. Đúng ngày 01/03/1971 Tướng Yakya Khan tuyên bố đình hoãn việc này khiến cho dân chúng nổi dậy chống đối. Quân đội can thiệp mạnh vào thủ đô Dhaka và bắt giữ Sheikh Mujibur Rahman, ký giả ngoại quốc bị trục xuất.

Bất bình trước các đàn áp thô bạo này Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood gởi điện văn phản đối sự chậm trễ can thiệp của Hoa Kỳ. Việc này đựơc đa số nhân viên Toà Lãnh Sự ủng hộ. Quân đội tiếp tục đàn áp sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại học. Các vũ khí này do Hoa Kỳ cung cấp trong chương trình viện trợ phát triển.

Trong 3 ngày đầu theo tác giả có tới 10.000 thường dân bị chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn áp này được ước lượng tối thiểu từ hơn nửa triệu cho đến đến ước lượng tối đa là ba triệu thường dân.

Trước tình hình cực kỳ sôi động, Đai Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ là Kenneth Keating trong điện văn ngày 29/03/1971 yêu cầu Hoa Kỳ phải có biện pháp ngăn chặn. Kết quả đạt được là Henry Kissinger đã cách chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth Keating. Vào cuối tháng tư 1971 là thời kỳ cao điểm của sự đàn áp, đích thân Tướng Yahya Khan đã gởi thư cảm tạ Henry Kissinger về sự hợp tác.

Theo tài liệu cùa sử gia Lawrence Lifschultz thuộc Đại Học Yale thì Henry Kissinger phải làm ngơ vì vào thời điểm này Pakistan đang làm trung gian cho việc nối lại bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa.

Ngay trong phiên họp tại Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ ngày 06/03/1971 do Henry Kissinger triệu tập, thì mọi đề nghị can thiệp đều bị Henry Kissinger bác bỏ, kể cả việc cảnh cáo Tuớng Yahya Khan phải tôn trọng kết quả bầu cử. Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không tôn trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân Bangladesh.

Sau này khi Mujibur đi thăm Hoa Kỳ vào năm 1974 với tư cách là quốc trưởng, ông tẩy chay không gặp trong một cuộc tiếp xúc trong 15 phút mà chính Tổng Thống Ford đã chấp thuận.

 Tháng 11/1974 ông đến thăm Bangladesh trong vòng tám tiếng đồng hồ và chỉ mở một cuộc họp báo trong ba phút. Theo những tài liệu thì ông đến để sắp xếp cuộc đảo chính Mujibur.

 Ngày 14/08/1975, Mujibur và 40 tùy tùng đã bị hành quyết trong một cuộc đảo chính. Những chi tiết liên quan với David Eugene Booster, Đại sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trưởng Cơ Quan Tình Báo CIA tại Bangladesh được tác giả dẫn chứng.

Trong có một cuộc điều tra về âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger do Tổ chức Carnegie thực hiện với sự tham dự của 150 viên chức Bộ Ngoại Giao và CIA, nhưng kết quả này không được công bố, vì chính áp lực của Henry Kissinger.

Chương 5 nhằm vạch trần tội trạng của Henry Kissinger tại Chí Lợi trong khi triển vọng phát triển dân chủ tại xứ này đang thành hình.

 alt
Hoa Kỳ tổ chức lật đổ chính quyền Allende
 
Tháng 09/1970, phe tả của ông Salvador Allende thắng thế với đa số phiếu 36,2 % trong cuộc bầu cử Tổng Thống.

Sự phân hoá chính trị trong cánh hữu và bảo thủ càng trầm trọng hơn khiến cho các doanh nghiệp Mỹ tại Chí Lợi như ITT, Pepsi-Cola và Ngân Hàng Chase Manhattan thấy làm ăn khó khăn hơn; triển vọng bang giao kinh tế hai nước theo chiều hướng này cũng xấu đi.

Sau khi thoả thuận với Donall Kendall, Chủ tịch tập đoàn Pepsi-Cola, David Rockefeller, Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard Helms, Giám Đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến gặp Richard Nixon để tìm cách giải quyết vấn đề.
Richard Nixon đồng ý kế hoạch ngăn trở Allende lên nắm quyền, phí tổn chấp thuận là 10 triệu đô-la và kế hoạch hành động trong vòng 48 tiếng đồng hồ và Toà Đại sứ Hoa Kỳ không được liên can.

Theo các tàl liệu được giải mật sau này cho thấy Henry Kissinger thoạt đầu không quan tâm đến tình hình của Chí Lợi nhiều, nhưng ông cũng tham gia vì muốn chứng tỏ thực tài cho Richard Nixon thấy mà thôi.

Theo kế hoạch của Henry Kissinger thì một toán đặc nhiệm công tác đươc hình thành từ Langley, Virginia. Tổ chức gồm hai đường dây: chính thức (qua ngã ngoại giao) và bí mật (không thông qua Bộ Ngoại Giao và Toà Đại Sứ, nhằm tổ chức đảo chính và bắt cóc Tướng Tư Lệnh Quân Đội René Schneider, mỗi sĩ quan tham gia được tặng 50.000 đô-la. Hai người trực tiếp điều hành kế hoạch này là Richard Helms và Thomas Karamessines.

Toán công tác nhận định rằng tình trạng phân hóa trong quân đội, sự trung thành đối với Tướng René Schneider và Hiến Pháp sẽ làm trì trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay trong đường dây thứ hai thì chính Henry Kissinger cũng chia làm hai loại nhóm tướng lãnh của Chí Lợi để hợp tác khác nhau.

Nhóm thứ nhất là Tướng Roberto Viaux và Arturo Marshall. Nhóm này đã có lần tổ chức đảo chánh vào năm 1969 nhưng không thành công và bị quân đội cũng như chính giới không coi trọng.

Nhóm thứ hai, tương đối khả kính hơn do Tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Henry Kissinger chấp thuận cung cấp vũ khí cho Tướng Roberto Viaux, người thi hành kế hoạch này.

 Sau thời gian tiếp xúc thì CIA nghi ngờ khả năng hành động của nhóm Tướng Roberto Viaux, dù trước đó đã giao 20.000 đô la tiền mặt và một khế ước bảo hiểm nhân thọ cho y với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Richard Nixon đi đến quyết định ủng hộ nhóm Tướng Valenzuela và thúc hối hành động.

Đêm 18/10/1970, nhóm của Tướng Valenzuela tổ chức bắt cóc Tướng Schneider nhưng thất bại vì ông này vào giờ chót đổi ý dùng xe riêng đi thay vì công xa. CIA hốt hoảng, thúc hối nhanh hơn và tiếp tục trả thêm cho nhóm Tướng Valenzuela 50.000 đô-la nữa.

 Đêm 20/10/1970, một cuộc bắt cóc lần thứ hai lại thất bại. Ngày 22/10/1970 CIA tiếp tục giao vũ khí cho nhóm Tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này thì Tướng Scheider lại bị giết bởi nhóm của Tướng Roberto Viaux. Do tài liệu của Toà án Quân Sự Chí Lợi sau này cho thấy thủ phạm lại chính là người cùng một lúc ở trong hai nhóm của hai đường giây khác nhau.

 Trong tất cả các tài liệu của Hoa Kỳ người ta không tìm ra được một bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ công khai ra lệnh giết hoặc bắt cóc và thủ tiêu Tướng Schneider. Trong việc chuyển giao vũ khí cho Tướng Valenzuela cũng không có một văn bản nào kết luận được là Hoa Kỳ giao vũ khí để sử dụng vào mục tiêu thanh toán Tướng Schneider.

Những bằng chứng được tác giả nêu ra là :

1. Brian MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả dạng là một doanh nhân làm ăn tại Chí Lợi, khai rằng sau vụ mưu sát này CIA vẫn tiếp tục trả tiền cho các thuộc viên của nhóm Tướng Viaux bị ngồi tù để buộc phải câm tiếng.

2. Đại Tá Paul M. Wimert, Tùy viên Quân sự Toà Đại Sứ, là người chiu trách nhiệm liên lạc với nhóm Tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ mưu sát ông đòi Valenzuela trả 50.000 đô la và 3 khẩu súng lại và ông vứt vũ khí này xuống biển để phi tang. Người đồng lõa với ông là Henry Hecksher, Trưởng nhóm CIA, trước đó đã xác nhận với Washington là cả hai nhóm hợp tác đều có khả năng thực hiện đảo chánh thành công.

3. Trong văn thư của Henry Kissinger gởi đi ngày 15/10 không có bằng chứng nào chứng tỏ Hoa Kỳ đình chỉ hợp tác với nhóm Tướng Viaux. Ngược lại điện văn của Bộ Ngoại Giao gởi cho Henry Hecksher ngày 20/10 cho thấy sự lo lắng cuả các giới chức cao cấp khi hay tin hai lần mưu sát Tướng Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là sự quan tâm này đến từ Henry Kissinger.

4. Đại Sứ Edward Korry cũng khai rằng Henry Kissinger đã ép ông đứng ra nhận hết tội trong vấn đề này vì Henry Kissinger cho là xui xẻo và không muốn dính tới.

Ở cuối chương tác giả trích dẫn những đoạn trong Hồi Ký của Henry Kissinger qua những lần gặp gỡ Augusto José Pinochet và so sánh quan điểm trình bày với những biên bản chính thức của Bộ Ngoại Giao. Những vấn đề nhân quyền, đàn áp đối lập, bang giao hai nước và phát triển tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS) viết ra đều trái ngược nhau.

Chương 6 bổ túc thêm về tội trang của Henry Kissinger về vụ Chí Lợi. Kết quả một cuộc điều tra vào tháng 09/2000 được gọi là Hinchey Amendment cho thấy những yếu tố mới :

- CIA đã hợp tác với ba nhóm tướng lãnh khác nhau để đảo chánh, chứ không phải là hai nhóm như được biết từ trước đến nay. Cả ba nhóm đều đồng ý là phải bắt cóc Tướng Schneider, vì ông này chủ trương quân đội phải tuân theo hiến pháp và đồng ý cho Allende nắm quyền.

 CIA chỉ cung cấp vũ khí cho một nhóm tướng lãnh mà thôi và không có ý định giết Tướng Schneider. Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ hai, nhưng trước đó bốn ngày đã ngưng yểm trợ vì nhận định là đảo chánh sẽ không thành công.

Tác giả nêu lên một phản chứng khác :

- Đến tháng 11/1970 một thành viên trong nhóm của Tướng Viaux đã trốn thoát cuộc lùng bắt và liên lạc được với CIA để xin giúp đỡ tiền bạc. CIA đã trả cho người này 35.000 đô la để mong là im tiếng. Tác giả suy đoán lệnh trả tiền phải do Henry Kissinger duyệt y, vì CIA tại Chí Lợi không có thẩm quyền này.

Ở cuối chương này tác giả dẫn chứng về sự hợp tác của CIA với tên trùm mật vụ của Augusto José Pinochet là Manuel Contreras. CIA xác nhận giúp đỡ cho Manuel Contreras, nhưng chỉ nhằm thêm phương tiện kỹ thuật và huấn luyện nhân viên tình báo để Chí Lợi có phương tiện chống ngoại xâm chớ không phải dùng để đàn áp đối lập.

Tác giả chứng minh ngược lại là Chí lợi không có ngoại thù, mà chỉ có nhân dân chống chế độ Pinochet. Dầu biết Pinochet vi phạm nhân quyền với các phương tiện của CIA hổ trợ cho Manuel Contreras, Hoa Kỳ vẫn làm ngơ vì những quyền lợi của Hoa Kỳ tại Chí Lợi.

Chương 7 cáo giác tội trạng của Henry Kissinger trong việc can thiệp vào nội bộ tại Cyprus.

Đây là một đảo với 82% dân Hy Lạp và 18% dân Thổ sinh sống. Tổng Thống Makarios của Cyprus được dân chúng bầu ra. Nhưng độc lập của Cyprus là cái gai cho Hy Lạp và Thổ. Cả hai đều muốn sáp nhập Cyprus vào nước của mình, cả hai đều ủng hộ các tổ chức nổi loạn, gây bạo động để chống đối lẫn nhau.

Trước tình hình này Henry Kissinger cho là chế độ của Makarios chính là đầu mối cho sự bất ổn tại Cyprus và gây nguy hại cho tình hình chung trong vùng. Dimitros Ioannides, trưởng cơ quan tình báo của Hy Lạp lập kế hoạch nhằm lật đổ Makarios vằ muốn đặt Cyprus dưới quyền kiểm soát của Hy Lạp.

Hoa Kỳ đã yểm trợ kế hoạch này. Henry Kissinger đã biết tin đảo chánh trước hai tháng trước đó, tức là tháng 05/1974, nhưng ông không phản ứng gì. William Fulbright, Chủ tịch Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện, ngay sau khi biết tin đảo chánh này do một ký giả Hy Lạp là P. Demetracopoulos cung cấp, ông đã yêu cầu Henry Kissinger tìm mọi biện pháp ngoại giao để ngăn chận, nhưng Henry Kissinger chối từ, viện cớ đây là nội bộ của Hy Lạp.

Những bằng chứng cho thấy Dimitros Ioannides liên hệ với CIA trong khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ không phản ứng gì trước tình hình càng sôi động. Sau ngày đảo chánh, trước áp lực nặng nề, Henry Kissinger đã họp báo minh oan là không nhận được tin tức gì liên quan vấn đề. Thực ra ông có đủ mọi nguồn tin từ chính thức cho đến tin tình báo về diễn biến tình hình.

Việc quyết định cho Nicos Samson nắm quyền đều do CIA sắp đặt và chi trả phí tổn. Trong một hồi ký cuả Tướng Grigorios Bonanos, Tư Lệnh Quân Đội Hy Lạp xuất bản năm 1986 tại Athen tựa là Sự Thật đã phơi bày cho biết: "Cuộc tấn công vào đảo Cyprus được ủng hộ sự chính thức của Thomas A. Papas, người trung gian liên hệ giữa nhóm đảo chánh và Nixon-Kissinger".

Kế hoạch đảo chánh thất bại làm hàng ngàn người chết và 200.000 người tỵ nạn. Mặc dù Makarios trốn thoát được và tìm cách vận động trở về nắm quyền nhưng Henry Kissinger luôn tìm cách ngăn trở. Ông cũng không công nhận Makarios là Tổng Thống của Cyprus nữa.

Sau nhiều áp lực từ Thượng Nghị Sĩ William Fulbright, Chủ Tịch Uỷ Ban Ngoại Giao Thượng Viện và Dân Biểu Thomas Morgan, Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện, người chính thức mời Makarios đến thăm Washington, Kissinger mới chịu tiếp kiến Makarios.

Henry Kissinger cũng lượng giá được tình hình: ngày nào Hy Lạp còn muốn nắm quyền thì Thổ cũng sẽ tìm cách phản công quân sự. Ông luôn tìm cách ngăn cản sự trở về phục hồi của Makarios qua hỗ trợ quân sự của Thổ hay Anh Quốc. Sir Tom McNally của Bộ Ngoại Giao Anh cũng đã có tài liệu minh chứng điều này.

Chương 8 buộc tội Henry Kissinger trong việc chủ mưu diệt chủng nhân dân East Timor.

alt 
Quân đội Indonesia đàn áp nhân dân East Timor
 
Đảo Timor trước đây thuộc Bồ Đào Nha sau này bị Indonesia sát nhập. Phòng trào đấu tranh giành độc lập của FRETILIN được dân chúng trong đảo ủng hộ và gây được thiện cảm của ngoại quốc. Ngày 07/12/1975, Indonesia tấn công đảo Timor.

Một sự kiện đáng lưu ý là cùng ngày này Tổng Thống Ford và Ngoại Trưởng Kissinger đến đảo Hawaii sau khi đi thăm Indonesia về.

Một câu hỏi được báo chí đặt ra tại phi trường Hawaii cho Tổng thống Ford là Hoa Kỳ có bật đèn xanh cho cuộc đàn áp này không.

Ông Ford không trả lời và hẹn vào một dịp khác. Sau đó qua một thông cáo báo chí cho biết Hoa Kỳ rất quan tâm tới tình hình tại East Timor, đặc biệt là việc sử dụng bạo lực. Tổng Thống Ford hy vọng rằng mọi sự sẽ hoà giải tốt đẹp.

Khi tin tức chi tiết về sự tàn sát tại East Timor được báo chí tường thuật, nghi vấn về sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, đặt biệt là việc cung cấp vũ khí, càng được đặt ra nhiều hơn. Đai Sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc là Daniel Patrick Moynihan trong hồi ký của ông tựa là A Dangerous Day, cũng đã lộ nhiều chi tiết về cuộc đàn áp này, dù không ám chỉ đích danh Henry Kissinger.

Ngày 11/7/1995 trong khi đi giới thiệu tác phẩm mới của mình là Diplomacy, Henry Kissinger đã gặp các nạn nhân và vấn đề được đặt ra.

Trả lời câu hỏi của ông Constancio Pinto, một lãnh tụ của Phong trào đấu tranh East Timor, Henry Kissinger cho biết là việc ông đến Indonesia vào thời điểm này hoàn toàn tình cờ. Tổng Thống Ford và ông dự trù đi Trung Hoa trong năm ngày.

Mao Trạch Đông đang bi bịnh nặng và phong trào Tứ Nhân Bang gây bất ổn nội tình Trung Hoa khiến Tổng Thống Ford quyết định Hoa du chỉ có hai ngày và thay đổi chương trình đi thăm Phi Luật Tân một ngày rưỡi và Indonesien một ngày rưỡi. Trong cuộc hội kiến tại Indonesia thì vấn đề East Timor không nằm trong chương trình nghị sự. Ngay khi ông đến phi trường thì mới biết được tin, nhưng ông không rõ số nạn nhân.

 Ông không hề tạo điều kiện cho người Bồ Đào Nha ở lại. Khi người Indonesia thông báo tình hình ông cũng không ủng hộ hay chống đối. Theo ông, East Timor không phải là cường quốc và không nằm trong ảnh hưởng cũng như quan tâm của Hoa Kỳ.

Ông Allan Nairn, một ký giả Hoa Kỳ, nạn nhân còn sống sót của cuộc tàn sát ngày 12/11/1991 tại Timor cũng có mặt trong buổi này và phản chứng những đìều Henry Kissinger nói.

Theo tài liệu của ông thu thập từ Bộ Ngoại Giao, dù không đầy đủ, cũng cho thấy là Henry Kissinger đã thảo luận vấn đề này với Suharto trước khi có đàn áp. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Allan Nairn, Tổng Thống Ford cũng xác nhận là đề tài Timor được đặt ra trong lúc gặp Suharto.

 Một bằng chứng khác được ký giả Allan Nairn đưa ra là một biên bản buổi họp tại Bộ Ngoại Giao ngày 18/12/1975. Theo biên bản này thì Henry Kissinger sau khi đi Indonesia về đã khiển trách nhân viên nặng nề vì đã để ông Leigh, một luật sư cố vấn của Bộ lên tiếng chỉ trích.

Theo ông Leigh thì việc Indonesia tấn công vào đảo Timor là vi phạm luật quốc tế và vi phạm hiệp ước với Hoa Kỳ trong việc sử dụng vũ khí. Henry Kissinger trả lời tiếp là Timor không phải là một vấn đề lớn nằm trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà là một vấn đề hậu thuộc địa. Chuyện khiển trách nhân viên là một phần để lấy lòng Indonesia, một phần là vấn đề nguyên tắc làm việc. Các vấn đề vi phạm nhân quyền phải được thảo luận trong Bộ trước khi đưa ra công luận.

Tác giả nêu một bằng chứng từ tài liệu của C. Philipp Liechtey, Trưởng nhóm CIA tại Indonesia. Liechtey xác nhận có sự hỗ trợ chính trị từ Bộ Ngoại Giao và yểm trợ vũ khí cho các cuộc đàn áp. Ở cuối chương, toàn văn biên bản ngày 18/12/1975 tại Bộ Ngoại Giao được đem ra phân tích chi tiết để kết tội Henry Kissinger.

Chương 9 đưa ra ánh sáng vụ mưu sát một ký giả người Hy Lạp bút hiệu Elias P. Demetracopoulos ngay tại Washington D. C. mà Henry Kissinger trực tiếp tham gia.

Demetracopoulos là một ký giả nổi danh chống chế độ quân phiệt Hy Lạp nhưng ông cũng là một nhà tư vấn và cung cấp tin tức cho nhiều chính giới tại Hoa Kỳ về nội tình Hy Lạp.

Demetracopoulos từ lâu là một cái gai cho Henry Kissinger vì ông biết quá nhiều tin tức tối mật của Hoa Kỳ, điển hình là vụ tiền quyên góp 549.000 đô-la của tình báo Hy Lạp cho Richard Nixon để vận động tranh cử qua trung gian của một doanh nhân Hy Lạp tên Thomas Papas A. FBI đã theo dõi những hoạt động của ký giả này từ lâu.

Chính quyền Hy Lạp cũng tước quốc tịch của ông và tình báo Hy Lạp có những âm mưu tổ chức bắt cóc và dẫn độ ông này về Hy Lạp để xét xử. Kế hoạch này được CIA hỗ trợ. Theo tài liệu của William A. Dobrovir, một luật sư của Demetracoupolos, tổng hợp từ nhiều nguồn tin khác nhau của FBI, CIA, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp và Bộ Quốc Phòng thì chính Henry Kissinger là đồng lõa. Trong hồi ký In The First Line of Defense của Konstantin Panayota, Đại sứ Hy Lạp tại Hoa Kỳ đã nêu lên bằng chứng về sự hợp tác này.

Chương 10 tố cáo Henry Kissinger hợp tác với các chế độ độc tài trên thế giới qua tổ chức tư vấn của ông.

Ngay sau khi rời khỏi chính trường, ông lập một văn phòng tư vấn gọi là Kissinger Associates mục đích nhằm giúp giới doanh nhân tiếp xúc với các chính quyền trên khắp thế giới để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Khách hàng của ông là các doanh nghiệp khổng lồ như American Express, Searmon Learman, Arco, ITT, Lockhead, Cola-Cola, Fiat, Deawoo…

Tại thị trường Trung Hoa ông đã làm trung gian thương thuyết cho các hãng H. L. Heinz, Atlatic Richfield/Arco và Chase Manhattan Bank. Qua trung gian của một thành viên là Lawrence Eagleburger, văn phòng ông cũng hợp tác làm ăn với LSB một ngân hàng của chế độ độc tài Bulgary và làm đại diện Hoa Kỳ cho Tổ hợp Xây dựng Quốc doanh của Nam Tư Yugo Enerjoproject, một tổ chức sản xuất vũ khí quốc phòng.

Một thành viên khác trong tổ chức của ông là Alan Stoga cũng công khai hợp tác với Saddam Hussein, mở ra một Iraq Business Forum nhằm giúp đỡ doanh nhân dễ dàng đầu tư tại Iraq. Ông cũng hợp tác Tập đoàn đầu tư quốc tế Freeport McMoran, chuyên về khai thác quặng mỏ và khí đốt có trụ sở chính tại New Orleans. Một trong những kế hoạch của tập đoàn là xin phép khai thác quặng tại Miến Điện, phần kỹ thuật xây dựng do Daewoo thực hiện, nhưng việc này không thành.

Ông cũng trợ giúp cho tập đoàn này trong các khai thác quặng mỏ tại Indonesia. Tóm lại hiện nay ông đang theo đuổi những quyền lợi kinh tế cá nhân mà đôi khi tương phản với quyền lợi của Hoa Kỳ.

Chương cuối cùng có tựa đề là Luật pháp và Công lý. Tác giả đề cập tới một căn bản pháp lý để áp dụng trong trường hợp Henry Kissinger. Theo tác giả có bốn nguồn luật pháp hiện đại được áp dụng là: Luật quốc tế về Nhân quyền, Luật chiến tranh, Hình Luật quốc tế và Hình Luật các quốc gia.

Tác giả ghi nhận rằng Công ước quốc tế về tội diệt chủng mới được phê chuẩn từ năm 1988, Công ước công nhận về các quyền dân sự và chính trị cũng được ký kết từ năm 1992 và những nguyên tắc của Toà án Nürnberg, tất cả đều không thể áp dụng cho các hành vi của Henry Kissinger vì nguyên tắc bất hồi tố trong các văn kiện này.

Tác giả giải thích luật phong tục quốc tế sẽ là một căn bản pháp lý duy nhất để áp dụng cho trường hợp Henry Kissinger, đặc biệt các tội trạng liên quan đến chiến tranh Đông Dương. Tội danh diệt chủng này đã được Toà Án Quốc Tế công nhận từ năm 1951 và nay thì Toà Án Hình Sự Quốc Tế có thẩm quyền. Trong việc cung ứng vũ khí cho Indonesia, theo tác giả thì Henry Kissinger đã vi phạm luật pháp về vũ khí của Hoa Kỳ phải chịu tội trước toà án Hoa Kỳ.

Phản ứng của Henry Kissinger

Dư luận rất quan tâm đến phản ứng của Henry Kissinger từ ngày tác phẩm này ra đời, nhưng cho đến ngày nay ông tuyệt nhiên không lên tiếng trả lời chánh thức về sự cáo giác này.

Tuy nhiên, trong tác phẩm Does America need a foreign policy?, Henry Kissinger đã trả lời một cách gián tiếp vấn đề này khi bàn về vai trò của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.

Ông viết: Phần đông người Hoa Kỳ rất ngạc nhiên khi biết Toà Án Hình Sự Quốc Tế về nước Nam Tư cũ được thành lập do chỉ thị của Hoa Kỳ trong năm 1993 để xét xử các phạm nhân chiến tranh, nhằm xác nhận lại quyền điều tra của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ trước những hành vi cáo buộc là có tội ác. Việc điều tra này vô hạn định và áp dụng cho tất cả.

 Ông phản đối việc áp dụng nguyên tắc Hình Luật Quốc Tế việc xét xử các nhà lãnh đạo ngoại quốc trước toà án này. Ông đặt câu hỏi: Làm sao tìm ra nguyên tắc an toàn pháp luật trong thủ tục tố tụng, đặc biệt là nguyên tắc trưng dẫn bằng chứng và bảo vệ bị cáo, làm sao có thể tách rời vấn đề pháp lý ra khỏi những quyết định chính trị quốc tế.

Người ta có thể nhận ra rằng ông đã ý thức sự nguy hiểm của vấn đề mà tác giả đặt ra và cũng suy đoán là ông đang khởi đầu một cuộc biên hộ cho chính mình về những hành vi trong quá khứ.

Nhận xét:

Trước đây đã có nhiều tác phẩm phê bình về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ và của Henry Kissinger, nhưng đây là lần đầu tiên một hình thức cáo trạng dày công sưu tập từ những tư liệu mới được trình bày.

Qua hình thức thì đây là một công trình đáng ca ngợi của tác giả, một ký giả chuyên về điều tra (investigative journalism). Thiện chí này được tìm thấy qua nỗ lực tìm kiếm từ những nguồn tài liệu khác nhau và phức tạp.

Qua nội dung thấy được sự nghiên cứu của tác giả về lãnh vực Luật Quốc Tế, đặc biệt về các phương thức hình sự tố tụng, còn hạn chế. Tác phẩm này không phải là một cáo trạng đúng nghĩa theo hình thức luật học, đặc biệt lại càng không đúng theo phương thức hình sự tố tụng trước Toà Án Quốc Tế khi mà các kỹ thuật trưng dẫn các tài liệu thiếu khoa học và không thuyết phục.

Tác giả đã không nêu các bằng chứng xuyên xuốt, thống nhất; đôi khi lầm lẫn giữa những sự kiện lịch sử, hậu quả pháp lý cũng như những phán đoán về đạo đức cá nhân của Henry Kissinger; đôi khi những lời cáo buộc chỉ dựa trên những cảm xúc trước những bất công hơn là một lời kết luận dựa trên cơ sở lập luận chặt chẽ của Hình Luật.

 Trong tất cả các tội danh được cáo buộc thì phần liên hệ đến chiến tranh Đông Dương có nhiều tính thuyết phục và có triển vọng thành công trước Toà Án Quốc Tế nếu các tài liệu được bổ túc đầy đủ và khoa học hơn.

Trở ngại chủ yếu vẫn là tài liệu từ người trong cuộc. Hiện nay các tư liệu của Henry Kissinger đã được ký gởi tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, không được khai thác. Theo di chúc của ông thì các tài liệu này được phép sử dụng sau khi ông chết năm năm. Do đó một đề án khởi tố ông hiện nay khó có cơ may thành công.

Tác phẩm này là một gương can đảm của tác giả, nó đã gây tiếng vang về mặt chính trị. Liệu người Việt Nam, những nạn nhân trực tiếp của Henry Kissinger còn sống sót có khả năng, thiện chí và nỗ lực để khởi tố thủ phạm hay không, hay chỉ tiếp tục ngậm ngùi than rằng: "con kiến mà kiện củ khoai". Ước mong sao vấn đề này sẽ được thảo luận sâu rộng hơn.

© Thông Luận 2010