Home Lịch Sử VN Các Triều Đại Mở ra chân trời mới Dân Chủ cho Việt Nam trong tương lai / Kỳ 1

Mở ra chân trời mới Dân Chủ cho Việt Nam trong tương lai / Kỳ 1 PDF Print E-mail
Tác Giả: LS Trần Thanh Hiệp   
Thứ Năm, 05 Tháng 8 Năm 2010 18:30

I. Một sự thật của lịch sử Việt Nam chứa đựng trong năm sự kiện lịch sử

 

 
Một cuộc biểu tình ủng hộ chính phủ Ngô Ðình Diệm tại Sài Gòn năm 1955. (Hình: STF/AFP/Getty Images)

Bàn về việc xây dựng dân chủ cho Việt Nam không thể không biết đến năm sự kiện lịch sử:

1. Từ cuối năm 1945, vị vua cuối cùng của dòng họ Nguyễn, Hoàng Ðế Bảo Ðại, đã tự ý thoái vị để cho nhân dân có tự do lựa chọn dân chủ. Quần chúng, các nhân sĩ và các chính đảng đã công khai biểu lộ nguyện vọng và quyết tâm thành lập tại Việt Nam chế độ dân chủ thay thế chế độ quân chủ.

2. Ðảng Cộng Sản Việt Nam - chính đảng đứng ra tổ chức cướp chính quyền và cầm quyền gần 70 năm qua - trắng trợn phản bội lời cam kết long trọng trước quốc dân và quốc tế bảo vệ độc lập, ban hành tự do và mưu cầu hạnh phúc cho quốc dân. Tập đoàn cai trị này đã dùng bạo lực và lừa gạt, gây nội chiến, cam tâm tự hiến mình giữ vai trò công cụ cho Ðế Quốc Ðỏ, mượn chiến tranh ý thức hệ quốc tế vô sản giết hại hàng triệu sinh linh vô tội, đặt cả nước dưới ách độc tài đảng trị tàn bạo chưa từng thấy trong quốc sử.

3. Cuối thập niên 1940, một số nhân sĩ chính trị, tôn giáo, văn hóa, quân sự, qui tụ chung quanh Cựu Hoàng Bảo Ðại, đã mở ra một phong trào, rồi một mặt trận dân chủ, võ trang tranh đấu chống lại cường quyền cộng sản. Ba chính quyền dân chủ đã ra đời và cầm quyền trên nửa nước, từ vĩ tuyến thứ 17 trở xuống phía Nam, đến Mũi Cà Mau, với qui mô quốc gia được nhìn nhận trên trường quốc tế. Nhưng năm 1975 trong cuộc tái phối trí của các thế lực quốc tế thiết lập một trật tự thế giới mới, tập đoàn cai trị Cộng Sản từ miền Bắc xua quân cưỡng chiếm miền Nam, phá hủy hết những nền tảng vừa xây đắp của một kiến trúc dân chủ đang thành hình. 5 năm sau, năm 1980, họ để lộ hẳn bộ mặt thật chuyên chính vô sản, kẻ thù không đội trời chung của dân chủ, bọn người đào huyệt chuyên nghiệp mai táng dân chủ.

4. Quốc tế, đứng đầu là Hoa Kỳ, trong tình huống mới của thời sự, đã nhắm mắt làm ngơ trước những tội ác vi phạm nhân quyền có hệ thống và thường trực của tập đoàn cai trị phi pháp, phi nhân quyền Hà Nội, cho nó giữ vai trò một chính quyền thực tế quản lý cuộc sống chung toàn cầu hóa ở trong vùng. Tự do, Dân chủ, không còn được coi là những giá trị cơ bản của nhân loại văn minh tiến bộ, như dưới thời chiến tranh lạnh nữa. Riêng chính quyền Hoa Kỳ, từ năm 2004, đã không còn che giấu đường lối dung dưỡng, trong khuôn khổ chính sách đối ngoại dài hạn của mình, bộ máy cầm quyền cộng sản Việt Nam, phạm pháp, phi nhân quyền, phản dân chủ.

5. Cả hai bộ phận ở trong nước và ở ngoài nước của khối người Việt cho đến nay đông gần 90 triệu rõ ràng là đã và đang là nạn nhân của những thế lực cầm quyền cả quốc tế lẫn bản địa. Hàng triệu người đã hy sinh tính mạng, hàng trăm vạn người đã chịu cảnh tù đày với ước vọng mang trong thâm tâm muốn thấy đất nước sớm có độc lập và tự do dân chủ thật sự.

Nhưng thật là bi thảm, tất cả những hy sinh to lớn này chỉ dẫn tới sự áp bức nhân dân ngày càng nghẹt thở và mối đe dọa từ phương Bắc, ngày một nghiêm trọng sự tồn vong của dân tộc. Trong nước, đủ mọi thành phần xã hội đã công khai và ôn hòa tỏ bày sự bất tín nhiệm tập đoàn đương quyền và đưa ra yêu sách nhân quyền, dân quyền phải được tôn trọng.

Sự đáp ứng của Nhà nước Cộng sản là leo thang đàn áp bằng công an, tòa án, nhà tù, hết đợt này đến đợt khác. Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay người dân phải sống dưới chế độ công an trị, công an quyền là pháp quyền, một hình thức “luật rừng kiểu mới.”

Ở ngoài nước, Ðảng Cộng Sản cầm quyền nhờ chỗ dựa ngoại giao Hoa Kỳ, đã công khai mở rộng địa bàn cai trị từ trong nước ra môi trường sinh hoạt của người Việt tị nạn ở hải ngoại, diễn lại cảnh tượng xâm nhập ào ạt từ Bắc vào Nam trước đây. Môi trường chống cộng ở hải ngoại của những thập niên 1980, 1990 đang phô bày những chỉ dấu của một tình trạng biến chất. Thật vậy sự pha trộn chất nhân xã (sociologique) với sự gia tăng mau lẹ về số lượng của lớp người từ trong nước - những yếu tố dị chất (hétérogènes) - ra sinh sống ở hải ngoại đã khiến cho môi trường chống cộng này mất đi sự thuần chất (homogénéité) ban đầu. Người ta tự hỏi không biết tới một lúc nào đó, cái khung chống Cộng còn đủ sức chứa đựng một nội dung nhân xã ngày càng ít tính chất chống cộng nữa hay không?

Cả năm sự kiện kể trên được coi như có tính lịch sử bởi vì đã trực tiếp ảnh hưởng tới số phận của dân tộc Việt Nam. Ðứng riêng biệt, sự kiện nào cũng đã có những tác động nhất định ảnh hưởng tới cuộc sống chung của cả nước. Tổng hợp lại những tác động riêng của năm sự kiện ấy, người ta sẽ thấy thấp thoáng một sự thật đã hiện hình nhưng chưa định hình về mặt lịch sử vì điều này phụ thuộc vào sự tác động mạnh hay yếu của mỗi sự kiện đứng riêng. Có thể lấy tiền lệ trong quá khứ để dự đoán cho tương lai.

Năm 1954, gần một triệu người đã rời bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam. Vì có sự vượt trội của tác động dân chủ, một cơ cấu dân chủ sơ lập đã ra đời ở miền Nam.

Năm 1975 giao lưu đủ mặt, chính trị, kinh tế, văn hóa v.v... giữa hai miền Bắc Nam trước đây chia đôi và ngăn cách nay hợp nhất và thông lưu, dưới ảnh hưởng độc tôn của độc tài đảng trị. Một trung tâm quyền lực bất hợp pháp, phản dân chủ, nắm trọn quyền sinh quyền sát trong tay, đã đẻ ra một quái thai xã hội phi nhân quyền, với qui mô cả nước: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Sau biến cố miền Nam năm 1975 - bị cưỡng chiếm - hàng triệu người, khởi đầu rất đồng chất - dứt khoát không chấp nhận cộng sản - ra sinh sống lập nghiệp ở hải ngoại. Do đó, chúng ta như đã có một miền Nam tái sinh ở hải ngoại.

Năm 2010, khối người Việt ở hải ngoại, với số lượng hàng triệu, không còn nguyên chất như trước vì đã trải qua một quá trình trộn lẫn các thành tố nhân xã dị chất, tất không thể không biến dạng. Cái gì sẽ xảy ra cho đất nước? Như 1954 dưới ảnh hưởng của tác động dân chủ? Hay như 1975, theo chiều hướng của đường lối cộng sản độc tài đảng trị “xâm nhập để bành trướng” tóm lược trong Nghị Quyết 36 năm 2004 của Ðảng Cộng Sản Việt Nam?

Nếu dám và biết nhìn thẳng vào tình thế rất đáng lo ngại của đất nước hiện nay - căn cứ vào thực tế chứ không phải vào những mơ ước viển vông hay vào những lập luận sai lầm và vô trách nhiệm - thì sẽ nắm bắt được một sự thật lịch sử về Dân Chủ ở Việt Nam biểu hiện qua 4 thành tố dưới đây:

Dân Chủ đã được nhân dân chính thức lựa chọn rồi nhưng đã bị độc tài đảng trị phản bội và tiêu diệt.

Ðối đầu với độc tài đảng trị, phe quốc gia không đủ bản lĩnh loại trừ độc tài nên độc tài đảng trị đã ngang nhiên giương lên ngọn cờ dân chủ giả mạo, sang đoạt chủ quyền quốc gia.

Trong khi Trung Quốc công khai can thiệp vào nội trị Việt Nam để bành trường thế lực bá quyền vùng và tranh giành ảnh hưởng siêu cường quốc tế thông qua tay sai bản địa là bộ máy cầm quyền Cộng Sản Việt Nam thì Hoa Kỳ, ngoài mặt cổ võ tự do dân chủ, nhưng bên trong tích cực làm chỗ dựa cho độc tài đảng trị với một dụng đích không xác định.

Kết luận, người Việt Nam phải thấu triệt bài học của lịch sử, theo đó, chấm dứt độc tài đảng trị để xây dựng dân chủ tại Việt Nam là trách nhiệm của chính những người dân chủ Việt Nam. Trông đợi vào sự tự nguyện hoàn lương của độc tài đảng trị là một ảo vọng. Trông chờ cứu tinh ngoại quốc để dẹp độc tài mở đường cho dân chủ là cầu may một cách không có cơ sở để hòng tới đích, nếu không nói là đã tự dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy cạm bẫy.

Người Việt Nam phải tự cứu và muốn cứu được nước Việt Nam ra khỏi cơn hiểm nghèo bị nô lệ hóa hay không chừng bị diệt vong trước dã tâm đồng hóa dài hạn của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc, không thể có phương cách nào khác ngoài dân chủ đích thực. (Còn tiếp)