Home Đời Sống Lời Hay Ý Đẹp Danh từ Việt Nho

Danh từ Việt Nho PDF Print E-mail
Tác Giả: Việt Nhân   
Thứ Tư, 29 Tháng 12 Năm 2010 06:11

    Nho đây là nguyên Nho, có một số khác biệt với Hán Nho, Tống Nho...

 Nho đây có nguồn gốc từ Tứ thư Ngũ kinh , mà nhất là cũng có nguồn gốc trong các điển chương Việt như các cổ nghệ , trong Trống Đồng , trong làng xã, trong phong tục tập quán Việt. . , do đó mà giáo sư Kim Định gọi là Việt Nho.

Việt Nho không là một ý thức hệ

Ý thức hệ là một hệ thống gồm những ý tưởng trừu tượng do giác quan cung cấp , ( nhĩ mục chi tư ) được xếp lại thành một hệ thống có lý luận chặt chẽ, có mạch lạc hẳn hòi. Nhưng những ý tưởng trừu tượng đó là những hình ảnh chết, khô cứng không mang một sức sống nào, lại nữa rất xa thực tế nhân sinh là con người và cuộc đời. Đây là những công trình suy tư của những nhà hàn lâm trong các trường ốc Tây phương, không liên quan thiết thân gì đến đời sống con người nơi đây và bây giờ.

Còn Việt Nho là một Đạo học, một Đạo sống làm người.

Sau đây chúng tôi xin trích dẫn một số ý tưởng của Giáo sư Kim Định về triết lý nhân sinh của Việt Nho .

Việt Nho là một Đạo học

" Việt Nho là một đạo học, là một thứ trìết, rất trọng đức hiếu sinh : " Thiên địa chi đại đức viết sinh " : Cái đức lờn của Trời Đất là sự Sống.

Và cũng là một triết lý tìm Đạo ngay trong đời sống con người, trong những việc hàng ngày gần gũi, cụ thể trong gia đình và xã hội.

"Đạo bất viễn nhơn, nhơn chi vi đạo viễn nhơn, bất khả dĩ vi đạo " ( TD.13 ) : Đạo không xa con người, đạo mà phải tìm ở xa con người , thì không còn là đạo nữa.

Ta có thể coi đó như là tiêu chuẩn : Hễ triết lý bàn những chuyện không thiết vào thân tâm đều là triết học để chơi làm cảnh .

Cái cốt của đạo học là đi vào nội tâm sâu thẳm , vì chỉ nơi đó mới có sự tiếp xúc trực tiếp với nguồn Sống bao la của vũ trụ, nên càng lặn sâu vào nội tâm thì càng tiếp cận với dòng sống, vũ trụ càng giàu khả năng thâu hoá và sinh lực thần khí càng thâm hậu .

Bao nhiêu tư tưởng dù cao xa như Thượng đế , Hồn thiêng, Thần linh . . . không nối liền được với tâm thức mình thì sẽ trở thành ứ đọng khô cứng , nên dù có phong phú cũng giống như sữa người mẹ dổi dào, nhưng ống chuyển sang bào thai đã bị cắt đứt không sao nuôi dưỡng được bào thai nữa.

Những tư tưởng triết Đông như Tam tài, Tứ tượng, Ngũ hành , Biến dịch. . . , nếu không duy trí được mối liên hệ nòng cốt với thân tâm cũng chịu chung số kiếp .

Muốn cứu vẫn phải nhận thức ra mối liên hệ căn cơ bao trùm được tất cả toàn thể . Vì chỉ có toàn thể mới sống, từng phần đã chặt ra thì chỉ khô cứng mà thôi.

Triết lý hiện đại khác với triết lý cổ điển ở hai điểm: một là đả kích lý trí trừu tượng, hô hào trở lại vớí cụ thể . Hai là tuyên dương đời sống tự nhiên, chú trọng đến tình cảm và bản năng, do đó nổi lên một trào lưu triết lý mang những tên như Hiện sinh, Duy sinh, Toàn sinh, nghĩa là chú ý đến sống , mà sống là hình là bản năng.

Đó là hai điểm rất hợp với triết Việt, một triết lý vốn trọng đức sinh, gọi là triết lý nhân sinh.

Nhân sinh là gì?
 
1.- Nhân sinh không là Khoa học thực nghiệm

Khoa học thực nghiệm là khoa học mà các nhà triết học mệnh danh là tự nhiên học, vật lý học ( naturalistes, physiciens ) . Trải qua hai ngàn năm lịch sử cả triết lẫn khoa học ở chung một ngăn, nghĩa là đại biểu cho hình tượng cũng như tượng hình đại biểu cho sự vật. Thế nghĩa là hai lần đại diện chơ nên cả vật lẫn người trở thành những ý niệm trừu tượng và xa xôi.

Đến Marx bắt triết học phải nhịp theo chính trị, kinh tế, ý hệ đấu tranh , khiến triết học thành cái gì bèo bọt tùy phụ mà không phải là một khoa độc lập.

Hiện nay các triết gia tên tuổi đã từ giả chủ trương đặt căn bản triết trên khoa học, chính trị, kinh tế , nhưng cũng chưa đưa ra được một lập trường vững chắc, nên sự dẫm chân lên khoa học và chính trị vẫn còn xẩy ra, tuy hình thức trở nên tinh vi hơn .
 
2.- Nhân sinh cũng không phải là bách khoa

Hoạt trưòng của triết không phải là bách khoa, để cái gì người học triết cũng phải biết. Người học triết không cần làm bản tóm tắt các khoa học, vì bách khoa đã có những tay chuyên môn của mỗi ngành đúc kết, nên nhất định phải chu đáo hơn của một người phải biết tất cả . Vì vậy nên người học triết không nên để chú ý bị ám ảnh vì một khoa nào, phải để lòng vào Đạo tức là vào cái Toàn thể . Đó mới là chỗ chú tâm của triết.

Triết học phải đi từ đa tạp ( information ) tới thống nhất ( formation) và quý hơn nữa là biến hoá ( transformation ) .
 
3.- Nhân sinh không có nghĩa là phổ thông

Nhiều người trách triết lý nói những chuyện sâu xa quá tầm hiểu biết của đa số quân chúng , mà không bám riết lấy đợt phổ thông , thoạt coi như xa lìa đời sống , không ơn ích gì.

Nhưng đạo lý là vấn đề linh thiêng vi tế, nếu không phải là " trung nhân dĩ thượng " thì hiểu sao được những phần u áo ngay thánh nhân còn ‘ Hữu sở bất tri " : còn có những điều mình chưa biết " kia mà.

Ví dụ như thuyết Tương đối của Einstein lúc đầu đã mấy người hiểu thấu, hoặc như máy móc chẳng hạn " dân khả sở do chi, bất khà sử tri chi " , nghĩa là thường nhân biết dùng ( do chi ) là được, chứ có bắt bưộc phải hiểu máy móc bên trong ( tri chi ) ra sao đâu .

Ở đợt phổ thông thì ta chỉ biết những cái thường thường, mà đi tới những cái cao siêu rất dễ mất chân đứng trên thực tại.

Vậy người học triết phải có đủ tinh tế để có thể nhìn ra cái phi thường trong những cái thường thường , thường nhân chỉ thấy được những cái thường thường, chỉ có con mắt tinh tế của triết nhân mời nhận ra cái phi thường trong đó.

Ta có thể lấy lối tiến của Nho giáo làm tiêu chuẩn : " Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ, cập kỳ chí giả sát hồ thiên địa " . Đạo quân tử khời đầu từ việc thông thường Vợ Chồng trai gái, dẫn tới cùng cực quán thông trời đất . Vợ chồng, âm dương là hai đối cực nền tảng của Kinh Dịch.

Thiếu thông thường là mất chân đứng trong thực tế nhân sinh , thiếu cao sâu u áo là thiếu phần linh thiêng của con người vậy .

( Kim Định : Tâm tư : VIII )
 
4.-Nhân sinh là cuộc sống nhịp theo trường Biến dịch của Vũ trụ

Vợ chồng, trai gái, ăn nói, đi đứng , âm dương . . . tuy là những tiếng nói tầm thường, nhưng đều là hai đối cực nền tảng của Kinh Dịch.

Kinh Dịch được viết ra là để giúp người đọc móc nối đời sống với tiết nhịp Uyên nguyên . Trung Dung là sách tóm lược Đạo lý Kinh Dịch.

Tinh thần của Kinh Dịch là chữ Tuỳ Thời .

Chúng ta thử tìm hiểu hai chữ Trung Dung dưới khía cạnh Tuỷ Thời .

Chữ Dung có ba nghĩa :

Dung có nghĩa như chữ Dụng là dùng .

Dung có nghĩa như chữ Phàm là tầm thường .

Dung cũng còn có nghĩa như chữ Hằng , nghĩa là thường thường .

Dung là dùng

Dung là cách dùng mà không coi là vật thể . Đó là " Chấp kỳ lưỡng đoan " ( T. D. 6 ) . " Chấp kỳ lưỡng đoan" thì không " Chấp nhất ". Chấp nhất thì xả bách nghĩa là bỏ mất đầu mối kia và tất cả những gì tế vi làm nên mối liên hệ với nó.

Thí dụ trong âm giai có 7 cung mà chấp có một cung đầu hay cung cuối, thì tức là bỏ mất 6 cung kia với vô vàn tiểu độ ( coma ) ở giữa 7 cung của toàn âm giai.

Khi áp dụng nhị nguyên vào Thời gian thì, một là chấp Dĩ vãng hay là Tương lai.

Ngược lại, với Chấp kỳ lưỡng đoan là kể đến cà Dĩ vãng lẫn Tương lai, nhưng không đặt quan trọng vào đó như đối tượng , mà chỉ coi như hai đoan, hai tận cùng của Dịch trường ( champ ) của một liên hệ . Liên hệ đó gọi là Trung nằm trong Hiện tại , " dụng kỳ Trung ư Dần " ( T.D.6 ).

Dung là Tầm thường

Chính vì tầm thường mà không ai để ý đến , nhưng đấy là điểm then chốt để bị sa đoạ hay đạt Đạo.

Tầm thường là ở mức độ thường nhật ai cũng thấy, cũng với tới. Thường nhật là gì ? Thưa là ở đây và bây giờ .

Chúng ta đã biết : Dĩ vãng thuộc Địa, Tương lai thuộc Thiên , còn Hiện tại là ở đây và bây giờ là thuộc Nhân ( của con Người ) . Mà " Đạo bất viễn Nhân " , nên Đạo không không có ở trong Dĩ vãng hay Tương lại , mà ở ngay tại nơi đây và bây giờ , ở lúc mọi người đang sống đang dùng, nhưng người thường không thấy, " bách tính nhật dụng nhi bất tri " .

Có hai thứ bây giờ : Một thứ bây giờ vòng ngoài phân cách khỏi Dĩ vãng và Tương lai, nên không thoả mãn con người vốn cầu mong những gì bao la to lớn , do đó nó chạy lui chạy tới như thoi đưa giữa Dĩ vãng và Tương lai : nó lưu lại Dĩ vãng một mớ tâm trạng bằng thương nhớ, phiền tủi, tiếc xót, đắng cay. . . , lại chia cho tương lai một mớ âu lo, trù tính, sợ hãi, ưu tư . . . , thành thử còn giữ lại cho Hiện tại có chút xíu tâm hồn để sống , nên nó sống vọng ngoại, nghĩa là vọng Tương lai, mà Tương lai chỉ là Dĩ vãng phóng tới , và như thế là vong thân , khi hiểu Thân là Đại Thể Tâm linh , mà chỉ còn thu hẹp vào cá thể có giới hạn, vì chỉ dựa vào có Dĩ vãng và Tương lai là những vụn mảnh của Không Thời gian có giới mốc .

Bởi vậy tuy ở trong Hiện tại mà vẫn thiếu Hiện diện như Heidegger nói : " Présent sans présence ", hay như Đại hoc nói rõ hơn : " Tâm bất tại " .

Khi Tâm đã bất tại thì có xem cũng chẳng thấy, có lóng cũng chẳng nghe, thì dầu có mặt cũng không gọi là hiện diện , vì tâm trí còn để vào Dĩ vãng và Tương lai.

Tương lai là Dĩ vãng phóng tới, mà Dĩ vãng gắn liền với không gian , vì biến cố nào cũng đã xẩy ra trong một không đìểm và thời điểm, nên Dĩ vãng không rời khỏi không gian. Không gian có phân trương , đo đếm, cắt xé ra được. Vì thế người lưu trí vào Dĩ vãng có tâm trạng bị xé lẻ, ly tán y như không gian, nên mất khả năng nhận ra hiện tại vĩnh cửu vô biên . Bởi Hiện tại là điểm phi không gian, nên tế vi. Chính nhờ chỗ tế vi, chỗ phi không gian mà nó có thể thoát khỏi không gian, mà thoát khỏi không gian cũng là thoát khỏi thời gian gắn liền với không gian, nghĩa là thoát khỏi những hạn cục bé nhỏ, chật hẹp.

Và như vậy là vượt lên nghĩa thứ ba là Thương Hằng ( eternity ) .

Dụng là Thường Hằng

Nói Thường Hằng cũng là cưỡng dùng như bất cứ danh từ nào. Vì Thường Hằng không có nghĩa là kéo dài mãi mãi từ thế hệ này qua thế hệ nọ vô cùng .

Thường Hằng không có kéo dài ngắn chi hết, nên gọi là " vô bản phiêu giả " hoặc vô thuỷ vô chung . Như vậy có nói Hiện tại nối liền Dĩ vãng với Tương lai cũng chỉ là cách nói tạm dùng , vì cái bây giờ mãi mãi không có trôi chảy, vì hễ có trôi chảy , có kéo dài tức là có đầu có đuôi, mà Thường Hằng lại vô thuỷ vô chung , nên cũng " Vô hồ xứ giả " . Do đó rất tế vi, khuất mắt bá tính .

Chính vì thế nên Tiên hiền không đặt quan trọng trên những dữ kiện do tai mắt thâu thập, vì những cái đó thường nhân ai cũng chú ý . Còn người học minh triết cần phải cẩn trọng cái điều mà mắt không thấy, tai không nghe, vì chính bởi nó không hiện hình ra nơi nào cả : " vô hồ xứ giả " , nên nó ở khắp nơi, ở trong vạn vật.

Chính vì chõ tế vi hơn người thường đó nên triết gia cần tập luyện cẩn trọng về những cái mắt không thấy, tai không nghe, vì những cái tế vi đó mới là cái Thường Hằng bao trùm vạn vật . Bởi đấy sách nói : không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng, không gì hiển lộ bắng cái tế vi : " Thị cố quân tử giới thận kỳ sở bất đố, khủng cụ hồ kỳ sở bầt văn, . Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi ".

Vì hiện tại ở đây là " vô bổn phiêu giả " , nên gồm cà Dĩ vãng và Tương lai , nên sống trọn vẹn được nó thì cũng bao trùm cả Dĩ vãng vả Tương lai .

Vậy ở trên ta bàn về Trụ, tức là " vô bổn phiêu giả " ( vô bản phiêu dã : Trụ dã )

Bây giờ ta khai thác phần Vũ : " Vô hồ xứ giả " ( vô hồ xứ già :Vũ dã )

Triết lý ở đây là triết lý không ở đâu cả " vô hồ xứ giả " , nên phải đặt nền tảng trên tâm thức con Người . Vì tâm thức con Người cũng giống Vũ Trụ, không ở đâu nhưng không đâu không ở.

Ta hảy xem chu kỳ đồ thị của thập Thiên can và thập nhị Địa chi dưới đây :

Vòng tròn chỉ hiện tượng những biến cố ghi bằng Tý, Sửu, Dần . .

Xét về mặt hiện tượng thì Tý, Sửu, Dân có trước có sau và ở đây ở kia : Tý trước và Dần sau Sủu , nhưng so với trung điểm Mậu Kỷ thì Tý, Sửu, Dần đều cách trung điểm bằng nhau, nên không trước không sau, không Đông, Tây, Nam, Bắc . Sự hiện diện trọn vẹn nơi Tý Sửu, Dần một cách trực tiếp và đồng thời cùng một lúc ( uno- intuitu ), không cần xê dịch , vì không có khoảng cách nào hết, và như vậy không vật nào hay biến cố nào không ăn rễ vào trung điểm Kỷ, Kỷ là Đại thể bất dịch, còn các biến cố như dòng sông ngày đêm trôi chảy không ngừng ( bất khả trú dã ) .

Vậy Kỷ là Minh đức là Tính mệnh . Bởi thế khi làm sáng được cái Minh đức thì không có gì không ở đầy đủ nơi mình , nên mình không thể lìa khỏi. " Kỳ thực thể bị ư kỷ, nhi bất khả ly " ( T.D I ) .

Vì thế không được xa mình để tìm Đạo, vì Đạo không xa người . Đạo không ở vật này hay vật kia, mà gốc ở ngay nội tâm mình ( Kỷ ) như trọng tâm bất biến .

Từ nguyên lý đó ta có :

Hệ luận thứ nhất

Các sự vật các biến cố luôn biến dịch không quan trọng, nên sự cao

cả hay thấp kém không nên tìm ở vật ngoại tại , nhưng phải tìm ngay trong chính mình. Nếu động tác được hoàn hảo thì là hoàn hảo bất chấp việc sang hay hèn, chức năng trọng hay khinh .

Sự quan trọng là ỡ chỗ đóng hoàn hảo vai tró chứ không ở vai trò cao thấp sang hèn .

Cho nên ở vai cha thì làm cho hết mình làm cha, làm con thì cũng tận tình làm con : quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử . . .

Chính vì thế mà người thấu hiểu triết lý có phong thái nhân loại bình hành, không kiểu cách, không bộ điệu, không luôn miệng nói đến siêu hình, bàn về đức lý, vì đối với họ không có gì cách biệt giữa linh thiêng với đời sống thường nhật, và một cuộc sống bé nhỏ tới đâu, người đời cho là hèn mọn đến mấy cũng vẫn có đủ khả năng sống thuận theo Thiên lý, sống ăm ắp đầy Đạo , khỏi tìm Đạo đâu khác xa hơn.

Chân Đạo vô biên , nên không đâu không ở , không đâu không có Đạo (Các hữu Thái cực ) .

Hệ luận thứ hai

Là chấp nhận ngay hoàn cảnh đang có và những lân nhân đang ở đấy, với tất cả những khiếm khuyết của mỗi người .

Không phải chấp nhận để ngồi lì ở đó, mà phải cất bước tiến lên cho cao hơn, mau hơn. Đây là thái độ sống của Nguyễn Công Trứ, không phải chỉ có làm quan, mà làm tên lính cũng cứ và có thể hành Đạo.

Đây là lối hành xử triết lý "Ở Đây " , mà sách Trung Dung có câu :

" Quân tử tố kỳ Vị nhi hành hồ, Chính KỶ nhi bất cầu ư nhân, tắc vô oán. Thượng bất oán Thiên, hạ bất oán Nhân " ( T. D. 14 ).

Người quân tử tuỳ theo cái chỗ đứng hiện tại của mình mà hành xử, không mong chờ cậy dựa vào bên ngoài dầu dưới hay trên . Đặt trọn vẹn trọng tâm vào mình, mà không cần ở người thì khỏi oán trách .

Nhờ đó mà người quân tử ở cảnh huống nào cũng an nhiên thư thái .

Triết Nho nhấn mạnh đến tự cường, tự ý, tự nội .

Tự là tự kỷ, vì là trung tâm, là nguồn suối thiêng , là Toàn thể viên dung

Đây là thái độ sống theo hiện tại miên trường, tức là cuộc sống nhịp theo trường biến dịch của vũ trụ .

Vậy nhân sinh phải hiểu ở bình diện triết lý, nghĩa là trên một bình diện khác hẳn với đời sống công dân, kinh tế, chính trị thông thường.

Đời sống triết lý nhân sinh phải là một đời sống có thống nhất, mọi hành vi cử chỉ phải quy hướng theo một tiết điệu, một đích điểm.

Đích điểm đó trong triết lý nhân sinh chính là Tính Bản nhiên con Người:

Với người tôn giáo điểm đó có thể là giới truyền của Thần minh .

Với triết học lý niệm là lý với sự kết thành ý hệ.

Với Nhân sinh là : " Tương dĩ thuận Tính Mệnh chi lý " ( HT.) : Thuận theo cái đạo của Tính Mệnh.

( Kim Định : Tâm tư : III . 4 )
 
Tính mệnh

Tính Mệnh chỉ vào những hạn cục vốn gắn liền với sự xuất lộ của Tính Thể .

Tính Thể là Đại thể Viên Dung, tròn đầy sung mãn không thể thêm gì vào được.

Nhưng khi dấn thân vào quá trình " xuất lộ " và tự ý đi váo thời gian kế tiếp có trước có sau, thì cũng có đây có đó ( không gian ) nghĩa là Thiên ( tại thiên thành tượng ) bao la như chịu khuôn mình vào những giời mốc hạn hẹp gọi là Mệnh ( tại địa thành hình ) .

Do đó khi con người muốn đạt " Đại thể bao la " là trung tâm thì phải khởi đầu từ " Mệnh " bé nhỏ, bắt buộc khởi đầu từ đó đi lên .

Nho triết hình dung Tính Mệnh bằng hai biểu tượng Quy và Củ .

Quy :
Quy là thập tự nhai ( ┼ ) có bốn đầu cách đều trung tâm. Trung tâm hiện diện đồng thời với hết mọi điểm chu vi ( của vòng tròn ) , nghĩa là trọn vẹn, đầy đủ, hết mình , y như Tính Thể trong mọi vật thể . Tính Thể đó chỉ có thể biết bằng cái biết trí tri trực giác u linh, nên Quy ở thập tự nhai nằm trong tay Bà Nữ Oa biểu tượng cho tài trực thị cũng như cho ám tàng của bà nội tướng , nghĩa là Tính Viên Dung không xuất lộ, nhưng tàng ẩn đối với giác quan của con người .


Củ là thước vuông (┌ ) ¼ của Quy , nằm trong tay Phục Hy chỉ đường biểu lộ . Cái luật biểu lộ là hạn cục y như mọi hiện tượng : đã là cái này thì thôi là cái kia : đã là Mộc thì thôi là Kim, đã là Thủy thì không là Hoả, người ta quen gọi là " phần " , một phần, phần biểu lộ tất có giới hạn.

Vì vậy Củ chỉ có một góc của Quy.

Cái huyền đức của Tính phải gồm cả Quy lẫn Củ, cả Tính lẫn Mệnh : Cả cái Nội vô biên lẫn cái Ngoại hữu hạn ( Tính chi đức dã hợp nội ngoại chi đạo ) , chấp nhận cà Trong lẫn Ngoài, là điều quan trọng nên gọi là Đạo : vì nếu không chấp nhận Củ thì thiếu đường về Quy là trung điểm .

Thế mà Mệnh là chi nếu không là mọi hạn hẹp dính liền với Thân tâm chúng ta, với những hoàn cảnh môi trường ta đang sống, với những lân nhân mà ta cần phải có liên hệ trong xã hội .
 
Tất cả bấy nhiêu đều làm nên cái Mệnh , nên đều hạn cục , nhưng cũng đều là phần tử cốt yếu của Tính Thể , đều là chính Đạo. Ngoài ra không còn chi cả. Vì không có chi xẩy ra ngoài Tính Mệnh hết.

" Mạc phi mạng dã. Thuận thụ kỳ chính " : Không chi là không phải mạng, biết chấp nhận thì mình đi trong chính Đạo. Đi hết cái đường đó cho đến chết thì cũng là chính mạng rồi, tức cũng là chính Đạo đó : " Tận kỳ Đạo nhi tử giả, chính mệnh dã " ( Tận tâm : Mạnh Tử VII. 1 )

Mà ai chính được mệnh thì sẽ đắc Đạo. Đắc Đạo là đắc Kỷ khi hiểu Kỷ theo nghĩa sơ nguyên là Đại Ngã tâm linh tròn đầy viên mãn. " Cố Sĩ đắc Kỷ yên " ( Mạnh Tử VII B . 24 ) : " Cho nên kẻ sĩ đắc Kỷ" Đắc Kỷ khi kẻ sĩ biết " Thuận tính mệnh chi lý " .
 
Thường người ta ít nghĩ tới điều đó , bởi lẽ bị ràng buộc trong nhị nguyên với giải quyết chọn một bỏ một, thành ra không chấp nhận trọn vẹn cái mệnh như phát xuất từ một nguyên do khác , và vì thế không nhìn ra rằng " Tất cả là đạo " , và không một sự thể nào dầu bé mọn tới đâu cũng như không một biến cố nào dầu bi thảm tai hại tới mấy mà không do Đạo, chứ không thể do nguyên uỷ nào khác như lân nhân cừu nhân, ma quỷ, tà đạo. . . , tại cái này hay cái kia gây tai họa cho tôi. . . , y như trong thế giới này có cái chi bên ngoài cái mệnh, là bên ngoài cái : Muốn" cái mệnh lệnh Đại thể củaTính thể.Cũng vì chưa nhận thức ra chiều kích vũ trụ nơi mình, nên chưa bao gồm được tất cả, nên mới đâm hoang mang ngờ vực, tưởng còn có cái gì xuát hiện bên ngoài mình mà không bắt nguồn từ tính thể của mình, của Kỷ, như từ một nguồn suối phát sinh. Và nguồn suối đó không ở đâu xa nhưng lại ở ngay chính nơi mình. Do đó tất cả mọi sự đều do mình, do Kỷ nơi mình muốn, do Tâm mình. Đó gọi là tính mệnh, còn khi không thấu vào được vòng sinh tức không nhận ra được chiều kích vũ trụ nơi mình thì gọi là định mệnh, tức coi mệnh như cái chi tự ngoài mình, nếu xem tự trong , thì mọi cái bé nhỏ, cái xấu xa đau khổ đều mang ý nghĩa y như cái chấm đen trong bức hoạ, xem một mình nó thì không có ý nghĩa, nhưng xe toàn thể bức hoạ, ta thấy cái chấm đen rất cần cho sự hoà hợp, cho cái tuyệt mỹ của toàn bức hoạ. Cũng thế, nếu ta chỉ đứng ở mệnh , tức là xem mọi biến cố rời rạc không liên hệ với cái Tí`nh thể , thi không thấy được ý nghĩa, và do đó không chịu chấp nhận mọi biến cố đau thương gian khổ và tưởng đâu như do người này hay tại trời đất chi ở đâu, nên đâm ra oán thán, lo sầu buồn tủi.

Như thế là chỉ xem có Mệnh mà bỏ Thiên thì không còn là Tính, và không  phải là sống theo ính thể nữa, vì Thiên với Mệnh mới là Tính , mà có theo  được Tính trọn vẹn ( suất Tính) cả hai phần tàng ẩn ( Thiên ) và biểu lộ  ( Mệnh ) mới là đạo là sống nhân sinh...

( Kim Định : Tâm tư : VIII . . 3. )
 
Nguồn:  www.anviettoancau.net