Đỗ Văn Phúc dịch
Bài báo này nói về tội ác buôn người và những hậu quả đối với phụ nữ Việt Nam. Thêm vào đó, sẽ có hai bài về các hậu quả cuả việc buôn người đối với các lao nô, và các trẻ vị thành niên gồm cả các em bé sơ sinh và trẻ nhỏ. “Thúy Nguyễn mặc chiếc áo dài lụa, đeo hoa tai và vòng xuyến lấp lánh. Khi bước vào làng quê nghèo khổ, cô được mọi người vây quanh trầm trồ về những trang sức lộng lậy trên người cô. Cô nói với dân làng rằng các cô gái của họ cũng sẽ được như cô, nếu họ chịu theo bước của cô, đi Đài Loan để tìm công ăn việc làm tốt.” Bản thân Nguyễn cũng từng là một cô gái quê đã hy sinh để giúp đỡ gia đình. Giống như chuyện “Nàng Thúy Kiều” đã bán mình chuộc cha. Cô đã đi theo một phụ nữ cũng trang phục lộng lẫy như cô ngày hôm nay, để đến Đài Loan tìm việc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Thúy Nguyễn nói trên không phải là người thật, mà chỉ là một hình ảnh được người ta vẽ ra của một thiếu nữ Việt Nam đã bị sa vào cái bẫy của âm mưu buôn bán phụ nữ mà những gì xảy ra sau đó là sự thật và có tính chất tiêu biểu. Theo ước tính của cơ quan UNICEF và các tổ chức khác, có khoảng 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị bán ra nước ngoài, hầu hết là sau khi chấm dứt Chiến Tranh Lạnh. Nhiều phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán qua Căm Bốt, Trung Hoa, Đài Loan, Nam Hàn, và Thái Lan để phục vụ trong các nhà chứa, lao động cưỡng bức trong các xí nghiệp, hay làm đầy tớ tư nhân. Cũng như câu chuyện cô Thúy Nguyễn trên, các nạn nhân nhận những lời hứa hẹn bịp bợm rằng sẽ có công ăn việc làm, hoặc qua sự kết hôn gian dối, hoặc qua những cơ quan tuyển người và di dân hợp pháp hay bất hợp pháp. Bọn buôn người đôi khi ngụy trang những nạn nhân của chúng thành những du khách, công nhân của những chương trình xuất cảng lao động; và rồi sẽ đưa họ đến các nuớc khác. Họ cũng tuyển các cô gái qua các tổ chức tìm việc và rồi bán các cô gái đáng thương này cho bọn tú bà ở Trung Cộng và Mã Lai Á. Họ cũng dùng phương tiện internet để lừa gạt nạn nhân. Bị Mắc Kẹt Trên Xứ Người “Những gia đình đồng ý cho con gái mình đi nước ngoài được trả từ 150 cho đến 450 đô la, tuỳ theo dung mạo và trinh tiết của cô gái. Sau đó, bọn buôn người sẽ đưa nạn nhân đến phi trường ra đi. Khi đến đất nước người, họ được đưa vào một căn phòng nhỏ và bị lấy hết các giấy tờ tùy thân.” Một khi đã ra nước ngoài và bị vào vòng kiềm tỏa của bọn buôn người, các cô còn trinh tiết sẽ được đưa vào các nhà thổ hay các phòng khách sạn để chờ đợi người khách mua hoa đầu tiên. Do sự tin tưởng rằng giao cấu với gái trinh sẽ đem lại nhiều may mắn, -cùng với sự an tâm rằng gái trinh sẽ không lây truyền bệnh AIDS và các bệnh hoa liễu. - khách phải trả một giá rất đắt. Thông thường khách trả từ 300 đến 400 đô la cho một tuần ăn nằm với gái trinh. Sau đó, các cô gái được coi là “đồ vật đã xài rồi” và giá đi khách chỉ còn khoảng 2 dollars một lần đi khách. “Các cô được đưa đến các phòng riêng biệt trên lầu. Thoạt tiên, Nguyễn tưởng rằng đó là phòng riêng của mình. Nhưng không ngờ, có một người đàn ông lạ vào đòi làm tình với cô. Khi Nguyễn kháng cự, khách bỏ đi. Nhưng người chủ lại bước vào lôi cô xuống tầng hầm, đánh đập và nhốt cô nơi đây không cho ăn uống trong nhiều ngày.” Nguyễn lúc này mới nhận thức rằng mình không còn sự lựa chọn nào ngoài việc phải theo lệnh chủ để được sống sót. Nhà thổ, nơi đã mua cô, đã lấy hết các giấy tờ tùy than của cô. Vì thế nếu cô trốn đi, thì sẽ bị bắt giam vì là dân lậu. Bị sa bẫy và cô lập, cô bị buộc phải tiếp khách khoảng 10 lần trong một ngày. Và chỉ dược miễn khi cô đến kỳ kinh nguyệt. Các cô gái nô lệ tình dục này phải làm việc cho đến lúc họ trả xong món nợ mà khách đã bỏ ra mua họ. Đó là các khoản tiền “nợ” mà gia đình họ đã nhận được, cộng thêm tiền ứng trước cho các cô, tiền vé máy bay, di chuyển, ăn ở… Tuy thế, không phải đơn giản đâu. Vì cái tiền nợ này cứ tăng theo các khoản nuôi ăn, tiền áo quần, tiền thuốc men và cả tiền phí tổn phá thai… Qua cách tính này, chủ nhân các nhà thổ sẽ lưu giữ các cô lâu dài, cho đến khi các cô đã trở thành quá già, quá bệnh hoạn để có thể hấp dẫn khách làng chơi. Cuộc sống trong các nhà thổ rất tàn bạo. Bọn chủ chứa muốn đánh đập các cô lúc nào cũng được. Thậm chí còn dùng cả roi điện để hành hạ. Khi các cô từ chối tiếp khách, bọn chúng tiêm ma tuý để các cô phải tòng phục. Đối với những gia chủ nuôi các cô làm đầy tớ, thì tình trạng cũng chẳng dễ dãi gì hơn. Trong nhiều trường hợp, các cô bị nhục mạ, tra tấn về tinh thần và thể xác. Đã có nhiều trường hợp các cô bị cưỡng hiếp và bỏ đói. Trốn Thoát và Các Sự Trợ Giúp “Một hôm, cô Nguyễn nghe lén được các cô gái khác bàn chuyện trốn thoát. Họ bàn tính rất kỹ lưỡng, nhưng chỉ có hai cô thoát được nhờ sự trợ giúp của một tổ chức Phi Chính Phủ (NGO). Nguyễn và các cô gái thiếu may mắn bị bắt lại bởi cảnh sát địa phương và bị trả về lại nhà chứa.” Trong khi nhiệm vụ của Cảnh sát và các cơ quan thẩm quyền là giúp đỡ nạn nhân của nạn buôn người; thì đa phần họ vướng vào sự tham nhũng. Các Tổ chức Phi Chính Phủ cấp quốc gia hay quốc tế cố gắng đưa ra những chương trình cứu giúp các nạn nhân bằng các đường điện thoại “nóng” và các nơi tạm trú an toàn. Tổ chức Quốc Tế về Di Trú (International Organization for Migration - IOM) cũng có nhiều nỗ lực giúp đỡ các nạn nhân. Tu sĩ Nguyễn Văn Hùng là một trong những lãnh đạo các tổ chức bất vị lợi đã nhận giải thưởng cho những cố gắng của ông chống lại nạn buôn người. Theo báo điện tử OneViet, Cha Hùng đã cứu vớt được hơn 2000 nạn nhân đem về nuôi dưỡng tại nơi tạm trú do cha lập ra. Tuy nhiên, không phải các nạn nhân đều may mắn đụợc cha Hùng cứu thoát. Và vấn nạn không chỉ giới hạn trong vài quốc gia, mà theo cha Hùng: “là một vấn nạn của nhân loại, của quyền làm người.” Sự Giúp Đỡ Từ Hoa Kỳ Theo bà Lisa Lynn Chapman, Giám đốc cơ quan Dịch Vụ Giải Thoát (Survivor Sevices Department) của BoatPeople SOS (BPSOS), tuy rằng việc buôn người không phải là vấn đề của Hoa Kỳ, nhưng cũng đã có trường hợp mà nạn nhân đã được buôn bán đến đất Mỹ. Bà nói: “Họ bị bán đến Mỹ qua nhiều hình thức. Thông thường là sự hứa hẹn có việc làm tốt và có phương cách để giúp đỡ gia đình bên Việt Nam.” Nhưng bất hạnh thay, một khi đến Hoa Kỳ, họ bị buộc phải làm việc trong những điều kiện như lao nô - không được trả lương, không được rời khỏi nơi làm việc, và bị doạ hành hung về thể xác cũng như những điều phương hại cho gia đình ở Việt Nam. Các cô gái cũng bị buộc làm gái điếm, vũ nữ khoả thân, hay phục vụ trong những kỹ nghệ tình dục. Một cách khác là qua việc hôn nhân. Thay vì đến Mỹ để lấy chồng, các cô bị ép vào các nghề khác mà không được trả lương. Họ không được học Anh ngữ, và không cho tiếp xúc với Cộng đồng Việt Nam. Họ sống kiếp nô lệ. Đây cũng là hình thức buôn người và là cách thông thường nhất. Đối với các nạn nhân Việt Nam, có nhiều cách cho họ để tìm được sự giúp đỡ. Bà Chapman nói: “Quý vị có thể gọi BPSOS - Cơ Quan Dịch Vụ Giải Thoát - số điện thoiạ (703) 538-2190. Chúng tôi sẽ giúp đỡ những gì quý vị cần đến. Chúng tôi muốn bảo đảm rằng những người Việt Nam (đàn ông, đàn bà, hay trẻ em) có được nơi trông cậy nếu họ bị rơi vào các tình trạng trên. Bà Chapman cho hay, nạn nhân cũng có thể gọi số 911 cho Cảnh Sát Mỹ. Họ nên kể rõ ràng câu chuyện của bản thân mình và Cảnh sát sẽ tìm cho họ những nguồn giúp đỡ. Họ cnũg có thể gọi điện thoại hotline cho nơi tạm trú dành cho nạn nhân của nạn bạo hành trong gia đình. “Ngày nay, cô Nguyễn đã trở về Việt Nam như một nhân viên tuyển mộ bất đắc dĩ của bọn tú bà, sở khanh do sự đe doạ của bọn này. Khi cô buớc trên những con đường nhỏ hẹp của một thị trấn, cô nhìn các cô gái đi qua, cô nhớ lại chính mình - một cô gái nghèo ít học, đã tưởng rằng mình hy sinh để giúp đỡ cho gia đình khá hơn. Và cô đã tự vấn rằng nếu ngày đó, cô thoát được cùng nhóm các cô gái kia, thì sự việc đã xoay chuyển thế nào? Hoặc nếu cô đã được một Cha Hùng giúp đỡ?” Chú thích: Những đoạn viết trong ngoặc kép là câu chuyện làm nền cho vấn đề được nêu ra. |