Bóng Đè PDF Print E-mail
Tác Giả: Nguyển Xuân Nghĩa   
Thứ Sáu, 24 Tháng 10 Năm 2008 08:52

Việt Tribune 

October 20, 2008

Tủi thân, Mỹ chửi Mỹ

 Khi nỗi xụt xùi của thị trường đã nguôi ngoai – bây giờ thì chưa – người ta bắt đầu nguyền rủa tư bản chủ nghĩa theo kiểu Mỹ.

Và vẫn chưa hiểu gì cả!
Chẳng hạn, khi thấy đồng Yen lên giá so với tiền Mỹ, hoặc tổ hợp Mitsubishi tung ra chín tỷ Mỹ kim để đầu tư vào ngân hàng đầu tư – nay đã thành tổ hợp ngân hàng thương mại – Morgan Stanley, nhiều người Mỹ đã tủi thân nghĩ rằng đáng lẽ mình phải học người Nhật! Nhiều người thiếu hiểu biết cũng phụ họa theo, với lời kết luận được tái dụng (recycled) rằng “tư bản chủ nghĩa kiểu Nhật” mới là sáng!

Trước hết, trong khi kinh tế Hoa Kỳ đang trôi dần vào suy trầm – một phần là do những mê sảng của thị trường sau khi bị chính trường làm cho hoảng loạn – thì kinh tế Nhật Bản đã nằm dưới đáy suy trầm từ lâu, và nhìn tốc độ tăng trưởng khoảng 2,0 đến 2,5% của Mỹ với sự thèm thuồng.

Người ta quên rằng Thủ tướng Taro Aso của đảng Tự do Dân chủ LDP mới chỉ nhậm chức ngày 24 tháng trước sau khi Yasuo Fukuda từ chức. Mà Fukuda từ chức sau khi làm Thủ tướng được đúng một năm (tháng Chín 2007 tới tháng Chín 2008) vì không vận động được kế hoạch cứu nguy kinh tế. Trước Fukuda thì Shinzo Abe cũng chỉ làm Thủ tướng được một năm. Vị tiền nhiệm của Abe, Junichiro Koizumi, là nhân vật ngoại khổ, làm Thủ tướng được ba nhiệm kỳ từ tháng Tư năm 2001 đến tháng Chín 2006. Ông đem lại sự ổn định hiếm hoi cho nước Nhật sau một đợt luân vũ bất tận với chín Thủ tướng thay nhau cầm quyền trong 12 năm.

 



















TT Bush, phải, bắt tay Thủ Tướng Ý Silvio Berlusconi tại Vườn hồng Bạch Ốc ngày 15 tháng 10, 2008.Getty Images

Lý do điên đảo chính trị của nước Nhật, vốn có tiếng là bình lặng, chính là kinh tế. Từ khi bể bóng đầu tư năm 1990, nước Nhật đã trải qua 18 năm suy trầm kinh tế liên tục, với sáu trận nguy kịch và cho đến nay vẫn chưa đứng vững. Từng là chủ nợ và chủ đầu tư của thế giới, Nhật Bản hiện đang ôm một gánh nặng quốc trái trị giá gần gấp đôi tổng sản lượng nội địa GDP, một kỷ lục tương đối và tuyệt đối của nhân loại! Và Nhật bị bội chi ngân sách tới 6,5%GDP, hơn gấp đôi tỷ lệ được dự đoán là tệ hại nhất cho nước Mỹ vào năm tới.

Dân Mỹ than khóc và bị thế giới nguyền rủa về nạn bội chi ngân sách và gánh nợ quá lớn của nhà nước, lên tới mười ngàn tỷ Mỹ kim. Nếu muốn bằng Nhật, Hoa Kỳ phải có gánh nợ quốc trái quãng 25 ngàn tỷ và thiếu hụt ngân sách trên 920 tỷ mới đáng mặt anh hào. Chuyện ấy, dân Mỹ không biết!

Cũng như không tự hỏi vì sao Mitsubishi lại là ngân hàng?

Khi cuộc khủng hoảng tài chánh Nhật Bản bùng nổ năm 1991, dư luận Hoa Kỳ còn đang gật gù về chiến thắng vĩ đại của Chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô. Người ta không để ý rằng từ năm đó, Nhật đã trôi vào hoạn nạn rất lâu chính là vì cơ cấu kinh tế tài chánh đặc biệt của họ.

Các ngân hàng làm chủ doanh nghiệp kỹ nghệ và sự chòng chéo quyền lợi giữa kỹ nghệ và ngân hàng mới là mớ bòng bong khó gỡ. Vì vậy, Mitsubishi là một đại gia kỹ nghệ mà cũng là một doanh nghiệp tài chánh, một tổ hợp quy tụ hơn ba chục cơ sở kinh doanh đủ loại!

Và tư bản chủ nghĩa kiểu Nhật là sự cấu kết tay ba giữa doanh giới – ngân hàng và kỹ nghệ – với chính giới và bộ máy hành chánh công quyền, theo chiến lược thắt lưng buộc bụng để sản xuất rất rẻ, xuất cảng tối đa hầu chiếm thị phần cực lớn mà bất kể tới tỷ lệ sinh lời. Mục tiêu của họ không là kiếm lời, và thấy lỗ là bỏ như kiểu Mỹ. Mục tiêu là tạo ra công ăn việc làm ổn định cho mọi người, dù là ổn định trong sự co cụm.

Sau vụ cổ phiếu sụt giá mất phân nửa từ năm 1990, Nhật đã mất cả chục năm mới tạm giải quyết vụ khủng hoảng tài chánh và ngân hàng – so với một năm, hay một tháng của Mỹ! – và Nhật mắc nợ rất nặng cũng vì của nợ đó. Tình trạng giảm phát – hàng bán rất hạ mà vẫn không có ai mua – kéo dài rất lâu khiến Nhật hạ lãi suất ngang mặt đất, tức là mấp mé số âm. Cũng như muốn đẩy một sợi dây, rồi ngạc nhiên vì sao vẫn chưa gây tác động kích cầu.

Vì lãi suất quả rẻ và doanh lợi quá thấp, doanh nghiệp Nhật mới vay đồng Yen đi đầu tư vào xứ khác – thuật ngữ kinh tế gọi là “carry trade – có mức lời cao hơn. Khi “xứ khác” đó – Hoa Kỳ và Âu Châu – bắt đầu có nạn, họ phải rút vốn về, tới tấp mua lại đồng Yen để trả nợ và đó là lý do khiến đồng Yen “mạnh” hơn Mỹ kim! Xin ai chớ vội tủi thân mà nhìn vào Nhật Bản để tìm ánh mặt trời: khi đồng Yen lên giá, hàng Nhật sẽ thành đắt hơn và khó bán hơn trong hoàn cảnh suy trầm toàn cầu khiến các thị trường xuất cảng đều thu hẹp. Đấy là lúc Nhật Bản sẽ bị khủng hoảng.

Còn thảm khốc hơn những gì ta đang thấy tại Hoa Kỳ!

Người Mỹ có sự lạc quan rất đáng yêu, nên cứ tưởng rằng Hoa Kỳ là siêu cường siêu nhân, cái gì cũng làm được. Sau đó lại có sự bi quan đáng thương, là hay hốt hoảng bậy! Sự hồ hởi sảng đã thổi lên nhiều trái bóng ảo – từ dot.com thành dot.coma năm xưa tới gia cư địa ốc ngày nay – và nỗi hốt hoảng bậy khi bóng bể khiến họ dễ bị bệnh “bóng đè”. Cuộc khủng hoảng tài chánh bùng nổ khi các giải pháp cấp cứu vừa được ban hành. Không thể chờ được mấy tuần vài tháng để kế hoạch cấp cứu được thi hành – sau khi tổ chức cơ chế, thu dụng nhân lực và giải quyết thủ tục pháp lý để cấp cứu với sự minh bạch tối thiểu – người Mỹ đã vì hoảng loạn mà tự gây họa cho mình. Và cho cả thế giới.

Ngay giữa cơn hoảng loạn ấy, dân Mỹ đấm ngực than khóc. Rồi om xòm tranh luận về tương lai của kinh tế thị trường hay tư bản chủ nghĩa: từ nay nhà nước bước thẳng vào thị trường, tung tiền vào doanh nghiệp và đứng giữa bảo lãnh rủi ro giữa người đi vay và người cho vay! Hoa Kỳ trở lại chủ nghĩa tư bản nhà nước? Hay đang bước qua xã hội chủ nghĩa cho bọn nhà giàu và tài phiệt? Phải chi nước Mỹ biết học cách điều tiết kinh tế thị trường như Âu Châu…

Hết Nhật lại đến Âu. Cứ như một bản “Hồ trường” trên giai điệu “blues” – chẳng biết rót về đâu nữa! Nay ta hãy nhìn về Âu Châu.

Mà Âu Châu nào?

Âu Châu của tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý? Âu Châu của 15 nước trong khối tiền tệ thống nhất, khối Euro? Của 27 quốc gia hội viên trong Liên hiệp Âu Châu EU? Âu Châu cũ gồm các nước Tây Âu, hay Âu Châu mới gồm các nước Đông Âu mới được giải phóng? Âu Châu của hình học giải tích với không gian hai chiều, bốn chiều, 15 chiều hay 27 chiều?

Không gian của người Mỹ vốn chỉ là mặt phẳng của nước Mỹ – một hải đảo bao la vây quanh bởi hai đại dương và hai nước láng giềng kém thớ – nên họ ít chú ý đến những chuyện đầy phức tạp của thiên hạ. Vốn bị mê hoặc bởi Âu Châu từ tiền kiếp, đảng Dân Chủ của Hoa Kỳ cũng chẳng khá hơn nên cứ ca tụng tư bản chủ nghĩa đầy nhân tính nhân bản của Âu Châu.
 
Trước hết, Âu Châu đã đi đầu, rất mạnh, với loại tín dụng thứ cấp – nước Mỹ chẳng phát minh ra cái gì cả! – để bảo đảm hữu sản hoá cho mọi người, một cách phải đạo. Đã thế, hệ thống ngân hàng Âu Châu cũng có sự gắn bó hữu cơ với doanh nghiệp kỹ nghệ. Gần như kiểu Nhật, vì Nhật Bản học kinh nghiệm công nghiệp hoá của Đức: hãy xem mối quan hệ giữa tổ hợp kỹ nghệ Siemen AG và tổ hợp ngân hàng Deutsche Bank thì rõ.

Và khi nhạc lắng mây chìm như hiện nay, Âu Châu đang mắc nạn.

Trước hết là nạn cạn kiệt tín dụng đang làm người Mỹ rên xiết. Khi Hoa Kỳ hạ lãi suất liên tục sau vụ bể bóng đầu cơ cổ phiếu cao kỹ (hi-tech) năm 2000 rồi khủng bố 9-11 rồi chiến tranh, Âu Châu cũng thế. Nên cũng bị hiện tượng tiền rẻ như Mỹ. Tiền rẻ khiến người ta dễ hào phóng tiêu xài và đầu tư, như Mỹ. Âu Châu cũng vậy, và vùng đất vừa thoát khỏi chế độ cộng sản, từ Trung Âu đến Đông Âu đến các nước Cộng hoà Baltic – đã trở nên miền Viễn Tây của Tây Âu. Trái bóng đầu tư và tiêu thụ đã căng phồng. Bây giờ, tín dụng bị cạn kiệt, ngân hàng thiếu thanh khoản hoặc hết dám cho vay. Những trái bóng ấy sẽ bể, còn dữ dội hơn trái bóng gia cư của Mỹ.

Cũng vì tiền rẻ, nhiều nước Âu Châu tiêu mà không tính và xây lầu đài trên cát, với sự yểm trợ của chính quyền để người nghèo cũng có mái nhà che thân. Tín dụng thứ cấp được cấp phát rộng rãi, kỹ nghệ xây cất được mùa nên vay tiền ngân hàng tiến dần đến cõi vô cương. Nếu so sánh với Hoa Kỳ, trái bóng gia cư của nhiều nước Âu Châu còn vĩ đại gấp bội. Bên trong, tất nhiên sẽ bể mà chưa, là trái bóng tín dụng thứ cấp thổi lên từ quốc sách bán nhà cho người thiếu khả năng thanh toán.

Chưa hết, với sự gia nhập của các nước Âu Châu mới, ngân hàng và doanh nghiệp Âu Châu cũ đã bung ra đầu tư, cho vay và... mắc nợ nhau còn nhiều hơn các đầu nậu đầy tai tiếng của Mỹ tại Wall Street. Hậu quả là các nước trên vùng biển Baltic ở miền Bắc và trong khu vực Balkan của Trung Âu đang là những khách nợ sắp khánh tận. Ở giữa là Hung Gia Lợi hay Ba Lan cũng sẵn sàng vỡ nợ, chính phủ bị đổ.

Chẳng hạn, trong ngần ấy quốc gia của Âu Châu mới, Cộng hoà Serbia là “khách đến chậm” nên chưa kịp mở cửa cho Âu Châu cũ tiến vào làm chủ hệ thống ngân hàng của mình. Tỷ lệ “ngoại thuộc” của hệ thống ngân hàng
Serbia chỉ có chừng 60%, thua xa Cộng hoà Slovakia hay Czech (hơn 96%) hay Ba Lan (gần 80%). Nói cách khác, các ngân hàng Âu Châu (“cũ”) đã trút vốn quá nhiều vào Âu Châu mới nên khi hoạn nạn là cả khối Âu Châu này sẽ hoạn nạn.

Khi đó, ai sẽ cứu ai, Âu Châu nào cứu Âu Châu nào? Mà làm sao phối hợp được kế hoạch cấp cứu và phân chia trách nhiệm chi tiền khi Liên hiệp Âu Châu không thực sự thống nhất?
Khối Euro có quy luật riêng của 15 nước hội viên. Ngân hàng Trung ương Âu Châu lại chỉ lấy được quyết định khi có sự đồng ý của tất cả các hội viên. Mà cơ chế này không có mục tiêu mở rộng hay thẩm quyền độc lập như hệ thống ngân hàng trung ương Hoa Kỳ. Mục tiêu chỉ là ổn định giá cả, chống lạm phát. Và thẩm quyền thì tùy thuộc vào các hội viên, trong khi nhiều ngân hàng trung ương khác, thí dụ của Anh, vẫn đứng ở ngoài.

Vì vậy, dù Thủ tướng Anh là Gordon Brown đã hồi sinh sau cơn hấp hối chính trị của mình với một giải pháp được các nước Âu Châu khác áp dụng, việc thi hành và tính sổ nợ nần giữa các nước với nhau mới là cơn ác mộng. Mà tính sổ nợ nần là chuyện tất yếu.

Cơ chế Âu Châu đòi hỏi những kỷ cương thống nhất về ngân sách, hay lạm phát. Bội chi ngân sách quá định mức 3% GDP là có vấn đề. Các nước như Pháp, Ý, Hy Lạp và Hung Gia Lợi đang mấp mé lằn ranh tử sinh đó. Trong bốn xứ này, ba nước đầu đã đầu tư rất mạnh vào Đông Âu và khu vực Balkans. Sau mấy xứ đó là gần một chục quốc gia khác, từ Ba Lan tới Hoà Lan, Bồ Đào Nha, v.v… Đây là ta chưa nói đến cán cân chi phó và thiếu hụt ngoại tệ!

Khi phải cấp cứu, người ta tiêu mà không cần tính. Nhưng sau cơn hoảng loạn, xứ nào cũng phải trở lại với thực tế kế toán, là đã tiêu bao nhiêu cho việc đó, sẽ bị bội chi bao nhiêu, lãi suất sẽ tăng chừng nào, lạm phát và suy trầm sẽ lên tới đâu, lâu tới bao giờ. Ngần ấn chuyện đều là nan giải cho Âu Châu. Giấy mực bây giờ vốn đắt, làm sao kể hết được nỗi lầm than sắp tới tại lục địa này, với nạn suy trầm đã có và tỷ lệ thất nghiệp trung bình cao gấp rưỡi của Mỹ?

Nếu dân Mỹ hiểu ra sự thể ấy, có lẽ họ sẽ bớt khóc lóc và tự nguyền rủa, hoặc, tệ hơn vậy, còn tự mê muội học theo xứ khác.

Cho nên, qua cơn bóng đè và mùa bầu cử đầy tốn kém này, có lẽ dân Mỹ sẽ lai tỉnh: trên thế giới, không có xứ nào mà chính quyền không can thiệp vào thị trường! Khác nhau nếu có là ai quy định mức độ can thiệp đó, chính quyền hay người dân?
Chỉ mong rằng sau cơn hốt hoảng, dân chúng Hoa Kỳ sẽ lại không hồ hởi sảng khi thấy rằng “địa ngục là người khác”. Và nước Mỹ vẫn là vô địch, cái gì cũng làm được. (NXN)